Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số kinh nghiệm khi vận dụng phương pháp tích cực để dạy môn đạo đức lớp 4 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 26 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÍCH CỰC
ĐỂ DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 4 NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
A : MỞ ĐẦU
I - Đặt vấn đề :
1 – Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải
quyết :
Phương pháp dạy học hiểu theo cách ngắn gọn nhất là cách thức hoạt
động của giáo viên trong việc chỉ đạo, tổ chức hoạt động của học sinh nhằm
đạt mục tiêu dạy học. Phương pháp dạy học bao gồm cả cách thức dạy của
giáo viên và cách thức học tập của học sinh. Trong đó, hoạt động dạy của
giáo viên giữ vai trò chủ đạo còn hoạt động học tập của học sinh có vai trò
chủ động.
Việc đổi mới phương pháp dạy học của chúng ta hiện nay đang được
thực hiện theo hướng tích cực: Lấy học sinh làm trung tâm, dạy học phải
phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo cho học sinh. Bởi vì : Dạy học
bằng phương pháp này sẽ giúp học sinh có thói quen suy nghĩ độc lập, mạnh
dạn và sáng tạo. Với phương pháp dạy học mới này, học sinh được tiếp thu
bài không bằng cách thụ động chỉ nghe giáo viên giảng mà tham gia học một
cách tích cực bằng hoạt động của chính mình.
Như chúng ta đã biết, trong chương trình Tiểu học, Đạo đức là một
môn học độc lập, được tổ chức dạy cho học sinh từ Lớp 1 đến Lớp 5. Đây là
môn học tạo dựng cơ sở ban đầu giúp học sinh có ý thức đạo đức, bồi dưỡng
tình cảm, hình thành những chuẩn mực hành vi phù hợp với các quan hệ bản
thân - gia đình - nhà trường - cộng đồng xã hội và môi trường tự nhiên, để từ
đó hình thành được những phẩm chất đạo đức quan trọng, cần thiết của một
người công dân Việt Nam.
Phải khẳng định rằng, trong chương trình Tiểu học, Đạo đức là môn
học quan trọng. Đây là môn học định hướng và hỗ trợ đắc lực cho việc dạy
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 1


Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
học các môn học khác. Thể hiện ở chỗ, môn Đạo đức giúp học sinh rèn luyện
và sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp, giúp học sinh mở rộng những kiến thức
về môi trường - tự nhiên - xã hội; giáo dục học sinh ý thức và hành vi tuân
thủ những qui định chung của đời sống xã hội; giữ gìn vệ sinh cá nhân ; bảo
vệ sức khỏe; giữ gìn vệ sinh môi trường; củng cố, phát triển khả năng cảm
thụ và sáng tạo nghệ thuật …
Đối với nhà trường Tiểu học của chúng ta hiện nay, mục tiêu của việc
dạy Đạo đức không chỉ đơn thuần là nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến
thức về qui tắc ứng xử hay những hành vi đạo đức … mà đích cuối cùng cần
phải đạt đến là giúp các em từ những kiến thức bài học có được những kĩ
năng, kĩ xảo trong việc sử dụng những qui tắc đó vào cuộc sống hằng ngày
của bản thân.
Trong thực tế hiện nay, kĩ năng sống và kĩ năng vận dụng những kiến
thức đã học vào cuộc sống của các em còn rất hạn chế. Trong khi đó, do ảnh
hưởng của cuộc sống thực tại nên việc giáo dục đạo đức cho các em phần nào
đó vẫn còn là vấn đề khó khăn, phức tạp và mang nhiều ẩn số. Với lương
tâm của một nhà giáo trước thực trạng này, theo tôi giáo viên cần phải đổi
mới các hình thức dạy học Đạo đức, làm thế nào để những kiến thức, kỹ năng
trong các bài học có tác dụng tích cực trong đời sống của mỗi học sinh.
2 - Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới :
Làm thế nào để có những phương pháp dạy và học môn Đạo đức đạt
hiệu quả ? và : Làm sao để việc dạy Đạo đức của chúng ta đạt được những
mục tiêu trên ? Theo tôi, không còn cách nào khác là chúng ta phải thay đổi
phương pháp dạy Đạo đức vì nếu duy trì lối dạy theo phương pháp truyền
thống đối với môn học này thì chắc chắn chúng ta sẽ thất bại trong việc
giảng dạy cũng như giáo dục đạo đức cho các em.
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung chương trình môn Đạo đức Lớp 4
(chương trình Tiểu học mới) và xuất phát từ mong muốn có được những giờ
dạy Đạo đức có hiệu quả đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh nên

Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
trong năm học qua, khi dạy Đạo đức, tôi đã thường xuyên vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực để tổ chức các hoạt động dạy học cho học
sinh. Tuy mới vận dụng trong thời gian khoảng 2 năm ở Lớp 4 Trường Tiểu
học Số 1 Phöôùc Thaéng (Lớp do tôi chủ nhiệm) và nhân rộng cả khối năm
học này ( Năm học : 2011 – 2012 ) kết quả đạt được của việc làm này rất khả
quan. Chính từ cơ sở đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài : “Một số kinh nghiệm
khi vận dụng phương pháp tích cực để dạy môn Đạo Đức lớp 4 nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh” và xem đây như
là một kinh nghiệm quý báu trong giảng dạy của bản thân.
3 - Phạm vi nghiên cứu của đề tài :
- Sách giáo khoa và Sách giáo viên Đạo Đức lớp 4.
- Giáo dục kĩ năng sống môn Đạo Đức lớp 4.
- Chuẩn kiến thức ,kĩ năng và Điều chỉnh nội dung dạy học môn Đạo
Đức lớp 4.
- Tham khảo một số tư liệu khác.
- Rút kinh nghiệm thực tế dạy trên lớp .
- Dự giờ đồng nghiệp.
II - Phương pháp tiến hành :
1 - Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên
cứu, tìm giải pháp của đề tài :
Đầu năm học trước, lớp tôi chỉ có khoảng 1/4 số học sinh là ngoan ngoãn,
chăm học và biết nghe lời cô giáo. Số học sinh còn lại, nhất là những em nam
hầu hết chưa ngoan. Các em còn nghịch ngợm và thường gây mất trật tự
trong các giờ học. Ý thức tự giác trong học tập, tinh thần thái độ đối với thầy
cô và bạn bè của đối tượng học sinh này còn nhiều hạn chế. Mặc dù tôi đã có
nhiều biện pháp răn đe, giáo dục nhưng kết quả chỉ có tính khắc phục tạm
thời. Những thói quen không tốt này vẫn được các em “lưu giữ” và lặp đi, lặp
lại nhiều lần.

Là một giáo viên chủ nhiệm, với tôi đây là vấn đề hết sức lo ngại.
Trong quá trình chủ nhiệm lớp, tôi đã đi tìm các nguyên nhân dẫn đến sự tồn
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
tại của thực trạng trên. Với kinh nghiệm của bản thân qua nhiều năm giảng
dạy, tôi thấy rằng nguyên nhân tồn tại của tình trạng trên thì nhiều nhưng một
trong những nguyên nhân cũng góp phần quan trọng đó là giáo viên tổ chức
dạy Đạo đức chưa hiệu quả. Qua từng bài, giáo viên chưa biết cách giúp học
sinh áp dụng những kiến thức, kỹ năng đã học trong các bài Đạo đức vào
thực tế cuộc sống xung quanh các em một cách thiết thực.
2 - Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp:
* Các biện pháp tiến hành :
- Cung cấp kiến thức cho học sinh đảm bảo chuẩn kiến thức và kĩ năng
của Bộ Giáo dục quy định.
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên nghiên cứu soạn giảng có chất lượng .
Hệ thống câu hỏi có hệ thống dành cho cả 3 đối tượng học sinh (G – K , TB,
Y ).
- Qua mỗi tiết dạy giáo viên lồng ghép Giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh.
- Dựa vào phần rút kinh nghiệm thực tế dạy trên lớp.
- Điều chỉnh phương pháp dạy học thích hợp cho năm sau.
- Nêu gương tốt , việc tốt ở lớp, ở trường, ngoài xã hội,
- Áp dụng các phương pháp và kỉ thuật dạy học tích cực.
- Đánh giá kết quả học tập môn Đạo Đức của học sinh.
* Thời gian tạo ra giải pháp :
- Năm học : 2010 – 2011 , 2011 – 2012
B - NỘI DUNG
I - Mục tiêu:
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012

Trình bày một số ý tưởng đã thực hiện trong năm học 2010 – 2011
,năm học 2011 – 2012 và một số kinh nghiệm khi vận dụng phương pháp
tích cực để dạy môn Đạo đức lớp 4.
II - Mô tả giải pháp của đề tài:
1 - Thuyết minh tính mới :
Trên cơ sở xác định được nguyên nhân dẫn đến thực trạng Đạo đức của
học sinh, trong thời gian qua, ở các tiết Đạo đức tôi đã vận dụng những
phương pháp dạy học tích cực để từng bước giúp học sinh tham gia vào các
hoạt động học tập một cách tích cực và tự giác. Bằng những biện pháp thiết
thực, tôi đã giúp các em học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học trong
các bài Đạo đức vào việc ứng xử hằng ngày. Những biện pháp này như sau :
* Thay vì trước đây, muốn giáo dục các em, tôi kể các em nghe những
câu chuyện Đạo đức rồi đưa ra những khuôn mẫu ứng xử có sẵn, một chiều
để thuyết phục các em làm theo một cách thụ động thì bây giờ trong từng
bài dạy, tôi chú trọng hoạt động tích cực của học sinh nhất là việc tổ chức
cho học sinh tham gia rèn luyện thông qua các bài tập thực hành. Tôi đã tổ
chức tiết dạy với nhiều hình thức dạy học như : Kể chuyện với kết cục mở,
thảo luận, đóng vai, tổ chức trò chơi, đề án, giải quyết vấn đề, bày tỏ thái
độ, điều tra thực tiễn, nêu đề xuất thắc mắc, giả sử … làm cho quá trình học
tập của các em phong phú, đa dạng và tích cực. Chính nhờ việc tham gia các
hoạt động học tập này mà học sinh lớp tôi đã phát triển tư duy (biết so sánh,
phân tích, tổng hợp, trừu tượng, khái quát hoá …) giúp các em tự phát hiện
và chiếm lĩnh tri thức đạo đức rồi từ đó vận dụng vào thực tế.
* Trong các tiết dạy Đạo đức, những câu hỏi mở, câu hỏi động não,
những tình huống, những bức tranh, những tiểu phẩm có sẵn nội dung hoặc
tiểu phẩm tự học sinh nghĩ ra với nội dung phù hợp luôn được tôi sử dụng
triệt để. Tôi luôn tạo điều kiện cho học sinh tự phán đoán, liệt kê các giải
pháp, tự phân tích kết quả các giải pháp, so sánh và tìm ra cách giải quyết
phù hợp, tối ưu nhất trong từng tình huống cụ thể.
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 5

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
Ví dụ : Trong bài “Trung thực trong học tập” (Đạo đức 4 - Tieát 1), ở
hoạt động 1 tôi đưa ra tình huống : “Hôm qua, Long mãi chơi quên chưa sưu
tầm tranh ảnh phục vụ cho bài học. Sáng nay đến lớp Long mới nhớ ra và rất
lo lắng …”
Tôi yêu cầu học sinh giải quyết tình huống bằng các câu hỏi sau :
- Theo em, bạn Long có thể có những cách giải quyết như thế nào ?
- Nếu em là bạn Long em sẽ làm gì khi đó ?
Tôi chia học sinh thành các nhóm và phát cho các nhóm một tờ giấy
A0 . Trên giấy A0 chia thành các phần , gồm phần chính giữa và các phần
xung quanh . Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (nhóm
4 HS).Mỗi HS ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh . Mỗi HS
làm việc độc lập trong khoảng thời gian 3 phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu
hỏi theo cách nghĩ cách hiểu riêng của mình và viết vào phần giấy của mình
trên tờ A0.Trên cơ sở ý kiến của mỗi cá nhân, học sinh thảo luận nhóm ,
thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy A0 (khăn phủ
bàn).Sau khoảng thời gian 3 phút , tôi yêu cầu các em nhóm trưởng của từng
nhóm trình bày sự phán đoán và cách làm của nhóm mình. Từ những ý kiến
của các em, tôi định hướng để các em nhận ra được những việc nào nên làm
còn việc nào không nên làm. Ví dụ : Nói dối cô là đã sưu tầm nhưng để quên
ở nhà hoặc mượn tạm tranh của bạn để cô kiểm tra là việc không nên làm.
Trong tình huống này, cách tốt nhất là nhận lỗi và hứa với cô là sẽ sưu tầm và
nộp vào hôm sau. Tôi phân tích để các em rút ra được : Dù trong bất kỳ
trường hợp phạm lỗi nào sự trung thực cũng là cách tốt nhất để có sự thông
cảm của mọi người
* Trong các hoạt động lên lớp của một tiết Đạo đức (Tiết 1 cũng như
tiết 2) theo quan điểm giao tiếp tôi tăng cường các hoạt động trao đổi giữa
học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh. Tăng cường hoạt động của
giáo viên và học sinh trong mối tương tác qua lại như : Tìm hiểu lĩnh hội, suy
nghĩ tìm tòi, giải quyết vấn đề, khám phá sáng tạo, ứng xử phù hợp với tình

Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
huống giao tiếp … Tôi luôn đưa ra những tình huống giao tiếp và đặt các em
vào hoàn cảnh có nhu cầu được thể hiện, được nói lên ý kiến của mình. Tôi
luôn tạo điều kiện để các em trao đổi cùng nhận thấy cái đúng cái sai trong
cách ứng xử của mình từ đó tìm ra hướng đúng cho cách ứng xử và vận dụng
vào thực tế cuộc sống.
Ví dụ : Khi dạy bài “Biết bài tỏ ý kiến”, ở hoạt động 1 tôi đưa ra các
tình huống : “Khi em được cô giáo phân công một việc làm không phù hợp
với khả năng. Em sẽ làm gì ?” hoặc “Do hiểu lầm nên em bị cô giáo phê bình
trước lớp, trong tình huống này, em sẽ làm gì ?”
Tôi tổ chức các em cùng thảo luận cùng các bạn trong nhóm ( nhóm
6 )để thống nhất cách xử lý. Sau khi học sinh các nhóm trình bày, ngoài việc
rút ra kết luận như ghi nhớ ở sách giáo khoa, tôi giúp các em nhận ra rằng :
Trong mọi tình huống, em nên trao đổi với mọi người xung quanh (kể cả cô
giáo) về khả năng, nhu cầu và mong muốn của mình. Điều này rất có lợi cho
bản thân các em vì sẽ nhận được ở mọi người sự giúp đỡ và thông cảm. Ví
dụ : Ở tình huống trên, nếu không trao đổi với cô giáo về khả năng của mình
đối với công việc được giao thì em sẽ gặp khó khăn trong khi thực hiện và
còn dẫn đến sự hiểu lầm trong đánh giá của cô giáo. Hoặc, khi bị cô giáo phê
bình trước lớp do hiểu lầm mà em không bày tỏ ý kiến để giải thích thì cô
giáo và các bạn sẽ không có cơ hội để hiểu đúng về em .
* Thường xuyên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm. Tăng
cường khuyến khích và kích thích học sinh chủ dộng tích cực trong học tập
thông qua hoạt động nhóm với các hình thức : Trò chơi học tập, sử dụng các
bài hát, bài thơ, ca dao tục ngữ, truyện kể, những kinh nghiệm ứng xử, những
lời khuyên, những phương châm, hành động đạo đức trong kho tàng văn học
dân tộc để khắc sâu tri thức làm cho các tiết dạy trở nên sinh động, nhẹ
nhàng, hấp dẫn và hiệu quả.
Ví dụ : Khi dạy bài “Biết ơn thầy cô giáo”, ở hoạt động 3 (tiết 2) với

mục tiêu giúp học sinh biết thực hiện một số việc làm cụ thể để tỏ lòng kính
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
trọng và biết ơn các thầy cô giáo, tôi đã tổ chức cho học sinh tham gia hoạt
động này bằng hình thức trò chơi “Làm phóng viên”. Qua trò chơi này học
sinh biết được một số việc cần phải làm qua hệ thống câu hỏi có liên quan
đến chủ đề.
* Để những tri thức đạo đức mà học sinh thu nhận trong giờ học trở
thành những hành động, những kĩ năng hành vi, thói quen đạo đức từ đó các
em có trách nhiệm với lời nói, hành động của mình trong cuộc sống là việc
làm rất cần thiết của giáo viên trong mỗi bài Đạo đức. Đây là một công việc
khó khăn nhưng nhất thiết phải làm cho bằng được. Do đó, trong mỗi bài
học Đạo đức, ở từng hoạt động tôi luôn đưa bài học Đạo đức gắn với thực
tế cuộc sống, giúp các em nhìn nhận, phát hiện, đánh giá việc thực hiện các
chuẩn mực hành vi của bản thân và người khác trong đời sống hằng ngày, từ
đó, các em hiểu được nội dung của các bài Đạo đức là những hành vi ứng
xử, là trách nhiệm bổn phận được qui định trong cuộc sống, mọi người cần
phải thực hiện tốt.
Ví dụ : Khi dạy bài “Giữ gìn các công trình công cộng”, để giúp các
em thực hiện đúng nội qui nơi công cộng, tôi đã tổ chức cho các em tham gia
trò chơi “Nếu … thì”. Cách chơi như sau : Tôi chia lớp thành hai đội A và B
(mỗi đội 10 em). Một đội nêu tình huống (nếu) thì đội còn lại nêu kết quả
(thì)
Ví dụ :
• Khi đi chơi trong công viên nếu bạn hái hoa, bẻ cành thì …
• Nếu bạn làm ồn trong bệnh viện thì …
• Nếu bạn vứt rác bừa bãi trong sân trường thì …
• Nếu bạn đi xe trên vỉa hè thì …
* Để tạo được hứng thú trong các tiết học Đạo đức, khi tổ chức các hoạt
động trò chơi học tập, tôi luôn có sự thi đua giữa các dãy, các nhóm và cá

nhân với nhau, để phát huy tính tích cực trong hoạt động học tập của các em.
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 8
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
2 – Khả năng áp dụng:
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là khâu cuối cùng nhưng
là khâu quan trọng nhất trong quá trình giảng dạy của một môn học. Sau gần
hai năm vận dụng các biện pháp tích cực vào dạy Đạo đức cho học sinh lớp
4A3 (Năm học 2010 – 2011 ) và lớp 4A1 (Năm học 2011 – 2012 ) do tôi chủ
nhiệm và được nhân rộng ra cả khối trong năm học 2011 - 2012. Đến nay
chất lượng học tập của các em đã có những tiến bộ rõ rệt . Đặc biệt hiện nay,
học sinh lớp tôi cũng như cả khối đã biết vận dụng một cách linh hoạt những
kiến thức đã học vào cuộc sống như : Các em biết lễ phép chào hỏi thầy cô
giáo và những người lớn tuổi; biết hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; biết cư xử
đúng mực với thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh; biết yêu lao động;
biết giữ gìn vệ sinh trường lớp; biết bảo vệ và giữ gìn các công trình công
cộng; biết tích cực tự giác trong hoạt động học tập cũng như các hoạt động xã
hội … Cũng chính nhờ vận dụng tốt các phương pháp tích cực để dạy Đạo
đức mà học sinh lớp tôi cũng như cả khối đã có thái độ học tập nghiêm túc tự
giác. Đối với các em, bây giờ, môn Đạo đức là môn học hấp dẫn, lôi cuốn và
có hiệu quả thiết thực.
Nhờ vận dụng các phương pháp dạy học tích cực khi dạy Đạo đức mà
kết quả học tập và việc rèn luyện đạo đức của học sinh lớp tôi trong 2 năm và
cả khối 4 trong năm học 2011 – 2012 đạt kết quả như sau :
Năm học : 2010 - 2011 - Cuối năm ( Lớp 4A3 )
TSHS Hoàn thành tốt (A
+
) Hoàn thành (A) Chưa hoàn thành(B)
Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%)
12 42,9 16 57,1 / /
Năm học 2011-2012 – Học kì I ( Lớp 4A1 )

TSHS Hoàn thành tốt (A
+
) Hoàn thành (A) Chưa hoàn thành(B)
24
Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%)
16 66,7 8 33,3 / /
Năm học 2011-2012 - Học kì I ( Cả khối )
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
TSHS Hoàn thành tốt (A
+
) Hoàn thành (A) Chưa hoàn thành(B)
92
Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%) Số lượng Tỷ lệ(%)
59 64,1 33 35.9 / /
3. L ợi ích kinh tế - xã hội :
Qua những bài học Đạo Đức giúp HS :
- Biết tiết kiệm thời giờ, tiền của, biết giữ gìn môi trường xanh, sạch,
đẹp,
- Hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức, giúp các em ứng xử
đúng đắn qua các mối quan hệ đạo đức hàng ngày; có thái độ cư xử đúng đắn
đối với những người thân trong gia đình, thầy cô, bạn bè,…Bước đầu hình
thành nhân cách của học sinh Tiểu học và làm nền tảng về đạo đức cho HS ở
các lớp sau.
C : KEÁT LUAÄN
I - Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp:
Trong quá trình thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tế
tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau :
- Dạy học môn Đạo đức là quá trình chuyển tải những giá trị, chuẩn
mực đạo đức của xã hội thành niềm tin, tình cảm và hành vi đạo đức của học

sinh. Điều đó chỉ có kết quả tốt khi học sinh hứng thú, tích cực, chủ động
tham gia vào quá trình dạy học. Như lời của một nhà tâm lý học đã nói: “Con
người sẽ ghi nhớ rất lâu bền những gì do chính họ tự muốn tìm hiểu và tự
mình tìm hiểu”. Do đó, giáo viên cần tận dụng mọi phương pháp, hình thức
dạy học để tạo cơ hội cho học sinh được suy ngẫm, bày tỏ ý kiến, thái độ của
bản thân đối với các hành vi, việc làm, các hiện tượng, đối với các chuẩn
mực đạo đức ; tạo cơ hội cho học sinh thực hành các chuẩn mực hành vi.
- Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các
bài dạy Đạo đức, khi dạy, giáo viên phải gắn kieán thức bài với thực tiễn
cuộc sống của học sinh . Giáo viên cần thường xuyên tổ chức cho học sinh
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 10
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
liên hệ, tự liên hệ ; thảo luận, phân tích các tình huống, các hiện tượng , sự
kiện trong đời sống đạo đức ở lớp học , nhà trường , địa phương ; hướng
dẫn , giúp đỡ các em thực hiện những việc làm phù hợp với lứa tuổi và cuộc
sống xã hội xung quanh các em.
- Phương pháp và hình thức dạy Đạo đức Lớp 4 rất phong phú, đa
dạng. Mỗi phương pháp đều có những mặt mạnh và hạn chế riêng. Vì vậy,
giáo viên cần lựa chọn và sử dụng kết hợp các phương pháp cho phù hợp với
nội dung, tính chất từng bài và điều kiện thực tế của học sinh mình dạy.
II - Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải
pháp:
- Tạo sự hứng thú học tập cho các em mà giáo viên không cần giảng
giải nhiều .
- Học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức qua nội dung bài dạy và vận dụng
vào thực tiễn.
- Đề tài mang tính khả thi khắc phục những học sinh nghịch ngợm , vô
lễ , trở thành một học sinh ngoan. Kinh nghiệm dễ thực hiện có thể triển
khai rộng rãi cả trường.
III - Đề xuất , kiến nghị :

Có thể nói rằng, trên một vùng nông thôn thuộc xã bãi ngang , học sinh
đa số là con em lao động nghèo, cha mẹ đi làm ăn xa, tình hình kinh tế gia
đình còn nhiều khó khăn thì việc giáo dục đạo đức của lớp tôi cũng như cả
khối là một kết quả hết sức lớn. Những con số biết nói ấy minh chứng cho sự
cố gắng không mệt mỏi vì lòng yêu nghề, mến trẻ của tôi.
Trong phạm vi một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã trình bày lại
những biện pháp kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra trong quá trình vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực khi dạy Đạo đức cho học sinh Lớp 4
Trường Tiểu học số 1 Phước Thắng . Với khả năng của bản thân, có thể
những nội dung được trình bày trong đề tài còn có ít nhiều hạn chế nhưng
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 11
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
đây là tất cả những biện pháp tôi đã vận dụng và đạt hiệu quả. Tôi rất mong
các cấp lãnh đạo, các bạn bè đồng nghiệp ghi nhận và góp thêm ý kiến.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Phước Thắng, ngày 01 tháng 3 năm 2012
Người viết

TRẦN THỊ THÌN
Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CẤP TRƯỜNG
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 12
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CẤP PHÒNG
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 13
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 14
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 15
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
- 2/ Nhiệm vụ của đề tài :
Trình bày một số ý tưởng đã thực hiện trong năm học 2011 – 2012 và

một số kinh nghiệm khi vận dụng phương pháp tích cực để dạy môn Đạo đức
lớp 4.
3/ Phương pháp tiến hành :
Để thực hiện đề tài trên tôi tiến hành một số phương pháp sau :
Phân tích, thảo luận, đóng vai, so sánh, đối chiếu, thực hành, đánh giá
rút kinh nghiệm .
4/ Cơ sở và thời gian nghiên cứu :
Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4A , lớp này có 24
em. Đầu năm, trong lớp tôi, chỉ có khoảng 1/3 số học sinh là ngoan ngoãn,
chăm học và biết nghe lời cô giáo. Số học sinh còn lại, nhất là những em nam
hầu hết chưa ngoan. Các em còn nghịch ngợm và thường gây mất trật tự
trong các giờ học. Ý thức tự giác trong học tập, tinh thần thái độ đối với thầy
cô và bạn bè của đối tượng học sinh này còn nhiều hạn chế. Mặc dù tôi đã có
nhiều biện pháp răn đe, giáo dục nhưng kết quả chỉ có tính khắc phục tạm
thời. Những thói quen không tốt này vẫn được các em “lưu giữ” và lặp đi, lặp
lại nhiều lần.
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 16
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
Là một giáo viên chủ nhiệm, với tôi đây là vấn đề hết sức lo ngại.
Trong quá trình chủ nhiệm lớp, tôi đã đi tìm các nguyên nhân dẫn đến sự tồn
tại của thực trạng trên. Với kinh nghiệm của bản thân qua nhiều năm giảng
dạy, tôi thấy rằng nguyên nhân tồn tại của tình trạng trên thì nhiều nhưng một
trong những nguyên nhân cũng góp phần quan trọng đó là giáo viên tổ chức
dạy Đạo đức chưa hiệu quả. Qua từng bài, giáo viên chưa biết cách giúp học
sinh áp dụng những kiến thức, kỹ năng đã học trong các bài Đạo đức vào
thực tế cuộc sống xung quanh các em một cách thiết thực.
- Sách giáo khoa và Sách giáo viên Đạo Đức lớp 4.
- Giáo dục kĩ năng sống môn Đạo Đức lớp 4.
- Chuẩn kiến thức ,kĩ năng và Điều chỉnh nội dung dạy học môn Đạo
Đức lớp 4.

- Rút kinh nghiệm thực tế dạy trên lớp .
- Tham khảo một số tư liệu khác.
- Thời gian nghiên cứu đầu năm học 2011 – 2012 đến nay .
Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4A , lớp này
có 24 em. Đầu năm, trong lớp tôi, chỉ có khoảng 1/3 số học sinh là ngoan
ngoãn, chăm học và biết nghe lời cô giáo. Số học sinh còn lại, nhất là những
em nam hầu hết chưa ngoan. Các em còn nghịch ngợm và thường gây mất
trật tự trong các giờ học. Ý thức tự giác trong học tập, tinh thần thái độ đối
với thầy cô và bạn bè của đối tượng học sinh này còn nhiều hạn chế. Mặc dù
tôi đã có nhiều biện pháp răn đe, giáo dục nhưng kết quả chỉ có tính khắc
phục tạm thời. Những thói quen không tốt này vẫn được các em “lưu giữ” và
lặp đi, lặp lại nhiều lần.
Là một giáo viên chủ nhiệm, với tôi đây là vấn đề hết sức lo ngại.
Trong quá trình chủ nhiệm lớp, tôi đã đi tìm các nguyên nhân dẫn đến sự tồn
tại của thực trạng trên. Với kinh nghiệm của bản thân qua nhiều năm giảng
dạy, tôi thấy rằng nguyên nhân tồn tại của tình trạng trên thì nhiều nhưng một
trong những nguyên nhân cũng góp phần quan trọng đó là giáo viên tổ chức
dạy Đạo đức chưa hiệu quả. Qua từng bài, giáo viên chưa biết cách giúp học
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 17
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
sinh áp dụng những kiến thức, kỹ năng đã học trong các bài Đạo đức vào
thực tế cuộc sống xung quanh các em một cách thiết thực.
2/ Các biện pháp thực hiện :
Có thể nói rằng, trên một vùng nông thôn thuộc xã bãi
ngang , học sinh đa số là con em lao động nghèo, cha mẹ đi làm ăn xa,
tình hình kinh tế gia đình còn khó khăn thì việc giáo dục đạo đức của lớp
tơi là một kết quả hết sức lớn. Những con số biết nói ấy đã phần nào minh
chứng cho sự cố gắng khơng mệt mỏi và lòng u nghề, mến trẻ của tơi.
Trong phạm vi một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, tơi đã trình bày lại
những biện pháp kinh nghiệm của bản thân tơi rút ra trong q trình vận dụng

các phương pháp dạy học tích cực khi dạy Đạo đức cho học sinh Lớp 4A
Trường Tiểu học số 1 Phước Thắng . Với khả năng của bản thân, có thể
những nội dung được trình bày trong đề tài còn có ít nhiều hạn chế nhưng
đây là tất cả những biện pháp tơi đã vận dụng và đạt hiệu quả. Tơi rất mong
các cấp lãnh đạo, các bạn bè đồng nghiệp ghi nhận và góp thêm ý kiến.
ĐỀ TÀI : MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ ĐẸP CHO HỌC SINH CỦA
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP 4A TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1
PHƯỚC THẮNG
PHẦN I : MỞ ĐẦU
1- ĐẶT VẤN ĐỀ :
Trong những năm qua, cùng với việc chỉ đạo chun mơn, Sở GD&ĐT
Bình Đònh , Phòng GD&ĐT Tuy Phước cũng như các nhà trường ln chú
trọng đến phong trào “Vở sạch - Chữ đẹp” của học sinh tiểu học. Khơng ít
nhà trường đã lấy việc xếp loại “Vở sạch - Chữ đẹp” của học sinh để làm tiêu
chí xét cơng nhận các danh hiệu thi đua đối với GVCN.
Việc kiên trì định hướng và sự chỉ đạo cụ thể của các cấp Quản lý Giáo
dục đối với phong trào “Vở sạch - Chữ đẹp” là một việc làm hết sức đúng
đắn. Chủ trương đẩy mạnh phong trào “Luyện nét chữ - rèn nết người” là một
việc làm có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục tồn
diện trong nhà trường.
Người xưa đã nói : “Nét chữ - Nết người” hàm ý về cả hai vấn đề. Thứ
nhất : Nét chữ thể hiện tính cách của con người. Thứ hai : Thơng qua việc rèn
chữ viết mà giáo dục nhân cách con người. Như vậy, việc rèn chữ viết cho
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 18
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
học sinh vừa là mục đích vừa là phương tiện của q trình giáo dục tồn diện
nhân cách cho học sinh. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Chữ viết là
biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp
là góp phần rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình
và bạn đọc bài của mình” .

Một nhà nghiên cứu về chữ đẹp cho rằng : “Khi viết chữ, người viết
khơng chỉ sao chép máy móc một vài ba chữ hoặc một câu tục ngữ, ca dao,
đoạn thơ, đoạn văn … Mà chính là sự tái tạo, thể hiện tâm tư, tình cảm của
mình qua từng nét chữ. Trong khi viết chữ, họ đã làm sống dậy cái bản chất
người sâu lắng bên trong, là sự cân bằng bản thân và sự thống nhất bản thân
với sự vật bên ngồi là lúc con người tỉnh táo hướng đến cái đẹp, cái chân,
cái thiện”.
Đối với giáo viên tiểu học, việc rèn chữ viết cho học sinh thật sự là
một thử thách đối với năng lực tổ chức và nghệ thuật dạy học của giáo viên.
Thơng qua việc rèn chữ viết cho học sinh, tay nghề của giáo viên thực sự
được nâng cao và lương tâm trách nhiệm của mỗi người cũng có cơ hội được
bộc lộ rõ nét.
Do nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn chữ viết đối với học
sinh Tiểu học nên trong nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm tơi đã rất chú
trọng đến việc rèn chữ viết cho học sinh.
Tơi được phân cơng chủ nhiệm một lớp. Do đó, tơi đã có nhiều thuận
lợi trong việc rèn chữ viết cho học sinh. Suốt hai năm liền, lớp tơi đều được
cơng nhận lớp đạt chuẩn “Vở sạch - Chữ đẹp”. Số học sinh đạt giải “Viết chữ
đẹp” cấp trường của lớp tơi năm sau ln cao hơn năm trước. Đặc biệt
trong Hội thi “Viết chữ đẹp” năm học 2011 -2012 của trường, lớp tơi có 2
em tham gia và đều đạt 1 giải Nhất và 1 giải nhì , em giải nhất được
nhà trường chọn dự thi cấp Huyện . Để đạt và duy trì được kết quả trên
là cả một q trình rèn luyện, kiên trì, bền bỉ của giáo viên và học sinh lớp
tơi. Kinh nghiệm về việc rèn chữ cho học sinh của bản thân tơi tích luỹ trong
năm qua tơi xin được trình bày trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình :
“Một số biện pháp rèn chữ đẹp cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm lớp 4A
- Trường Tiểu học Số 1 Phước Thắng”. Tơi rất mong các cấp Lãnh đạo và
các bạn đồng nghiệp góp ý, bổ sung để chúng ta cùng có những kinh nghiệm
bổ ích trong q trình rèn chữ viết đẹp cho học sinh tiểu học.
2/ Nhiệm vụ của đề tài :

Trình bày một số ý tưởng đã thực hiện trong năm học trước
, năm học 2011 – 2012 và một số kinh nghiệm rèn chữ nhằm mục
đích giúp học sinh viết chữ đúng mẫu quy đònh .
3/ Phương pháp tiến hành :
Để thực hiện đề tài trên tôi tiến hành một số phương pháp
sau :
-Làm mẫu , phân tích , so sánh , đối chiếu , thực hành , đánh
giá rút kinh nghiệm .
-Chia nhóm học sinh
-Động viên , khen ngợi
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 19
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
4/ Cơ sở và thời gian nghiên cứu :
-p dụng mẫu chữ viết trong trường Tiểu học do Bộ giáo
dục ban hành .
-Rút kinh nghiệm thực tế rèn chữ trên lớp .
-Tham khảo một số mẫu chữ viết .
-Thời gian nghiên cứu từ năm học 2010 – 2011 đến nay .
PHẦN II : KẾT QUẢ
1/ Thực trạng và ngun nhân :
a) Thực trạng :
So với những năm học trước đây, hiện nay, chất lưọng chữ viết của học
sinh Tiểu học đã có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên vẫn còn khơng ít học sinh chữ
viết còn chưa đạt u cầu. Hiện tượng chữ viết của các em chưa đúng, chưa
đẹp vì viết khơng đúng mẫu, đúng cỡ; khoảng cách giữa các con chữ và chữ
thì q hẹp hoặc q rộng; cách ghi dấu thanh khơng đúng vị trí là rất phổ
biến. Ngồi ra, số học sinh viết bài qua loa, cẩu thả, chữ nghiêng, chữ ngã
một cách tùy tiện cũng còn nhiều.
Tất cả những hiện trạng này, học sinh lớp nào cũng có.
b) Ngun nhân :

Qua nhiều năm giảng dạy và đặc biệt là qua hai năm liền rèn chữ cho
cùng một đối tượng học sinh ( 4B -> 4 A) đã giúp tơi nhận thấy ngun nhân
dẫn đến chất lượng chữ viết của học sinh còn thấp thì nhiều song một trong
những ngun nhân quan trọng đó là : Học sinh của chúng ta chưa chú trọng
đến chữ viết. Các em chưa nhận thấy sự liên quan giữa chữ viết và kết quả
bài làm. Từ ý thức đó nên khi viết bài các em chưa thực hiện đúng các u
cầu. Các em xem nhẹ tư thế ngồi; cách cầm bút, cách để vở. Khi viết, các em
thực hiện chưa đúng qui trình nên có hiện tượng thừa, thiếu nét hoặc đứt nét.
Bên cạnh đó, một số điều kiện về cơ sở vật chất của lớp học chưa bảo đảm
và học sinh thiếu lòng say mê rèn chữ cũng là ngun nhân khơng nhỏ làm
ảnh hưởng đến chất lượng chữ viết của học sinh
2/ Các biện pháp :
Để giữ vững phong trào và duy trì kết quả “Vở sạch - chữ đẹp” của
lớp, tơi đã rất chú trọng đến việc rèn chữ viết cho học sinh.
Phải nói rằng, việc rèn chữ viết cho học sinh trong những năm học qua
của tơi là cả một q trình kiên trì bền bỉ và sự nỗ lực hết sức lớn. Trong q
trình thực hiện rèn chữ viết cho học sinh tơi đã vận dụng rất nhiều biện pháp
nhưng chỉ có một vài biện pháp mà khi vận dụng có hiệu quả . Những biện
pháp tối ưu này như sau :
* Biện pháp 1 : Chú trọng đến việc hướng dẫn học sinh thực hiện
đúng các ngun tắc về tư thế ngồi viết khi rèn chữ.
- Nhìn chung, hiện nay việc học sinh ngồi chưa đúng tư thế khi viết
còn khá phổ biến do các em chưa thấy được sự liên quan của nó đối với chất
lượng chữ viết của mình. Tơi đã khắc phục tồn tại này bằng cách giúp các em
nhận thấy sự liên quan giữa việc thực hiện tư thế ngồi đúng với chất lượng
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 20
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
chất lượng chữ viết. Thực hiện đúng tư thế ngồi, ngoài việc giúp các em viết
đúng, viết đẹp còn tránh được các bệnh học đường. Để giúp các em thực hiện
được yêu cầu này, tôi rất chú ý đến tư thế ngồi viết đúng của học sinh. Bất cứ

trường hợp ngồi sai nào của học sinh tôi cũng sửa cho bằng được. Tôi tập cho
các em có thói quen là mỗi khi ngồi viết các em phải ngồi đúng tư thế . Ngồi
phải thoải mái, không gò bó. Hai tay phải đặt đúng điểm tựa. Không nên ngồi
quá cao hoặc quá thấp vì như thế đều không tốt. Tôi nhắc nhở học sinh chỉ
viết ở những nơi có đủ điều kiện tuyệt đối không được viết trong tư thế quì,
nằm hoặc ngồi viết tuỳ tiện.
- Cách đặt vở của học sinh cũng được tôi chú ý rất nhiều. Tôi yêu cầu
các em đặt vở đúng qui định, khoảng cách từ mắt đến vở từ 25 cm đến 30 cm
là vừa. Không được nhìn quá gần vở vì vậy thiếu ánh sáng sẽ dẫn đến cận thị.
Trường hợp học sinh nào thực hiện không đúng tôi đều kiên trì sửa.
- Khi học sinh ngồi viết, tôi nhắc các em chú ý để cột sống lưng luôn ở
tư thế thẳng đứng, vuông góc với mặt ghế ngồi. Không ngồi vẹo, lâu dần
thành tật vẹo cột sống, khó chữa. Chú ý để hai chân sao cho thoải mái, không
để chân co, chân duỗi khiến cột sống phải lệch vẹo và chữ viết sẽ xuôi lệch
theo.
- Khi viết, tôi yêu cầu tay trái các em để xuôi theo chiều ngồi, giữ lấy
mép vở cho khỏi xê lệch, đồng thời làm điểm tựa cho trọng lượng nửa người
bên trái. Tay phải các em cầm chắc bút bằng 3 ngón tay: Cái, trỏ, giữa. Đầu
ngón tay trỏ cách đều ngòi bút chừng 2,5 cm. Mép bàn tay là điểm tựa của
cánh tay phải khi đặt xuống bàn viết. Lúc viết, tôi nhắc các em nên điều
khiển cây bút bằng các cơ ở cổ tay và các ngón tay. Cầm bút xuôi theo chiều
ngồi, góc bút đặt so với mặt giấy khoảng 45 độ. Tuyệt đối không cho các em
cầm bút dựng đứng 90 độ. Khi viết phải đưa bút từ trái sang phải, từ trên
xuống dưới. Các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải đặt nhẹ tay không ấn
mạnh đầu bút vào mặt giấy.
- Để đảm bảo về ánh sáng, tôi hướng dẫn học sinh khi ngồi viết phải
chú ý đủ ánh sáng và ngồi thuận chiều, để ánh sáng chiếu từ bên trái sang,
không bị lấp bóng.
- Để đảm bảo các yêu cầu về cơ sở vật chất, trong các cuộc họp tôi
kiến nghị với nhà trường trang bị bàn ghế đúng qui cách vừa tầm ngồi cho

học sinh. Trường hợp những bóng đèn đã cũ không đủ sáng tôi đề nghị thay
bóng.
- Đối với yêu cầu rèn chữ đẹp, tôi chỉ thực hiện rèn khi học sinh có tinh
thần thoải mái. Tuyệt đối không bao giờ yêu cầu học sinh rèn chữ khi các em
quá mệt mỏi, buồn ngủ hoặc uể oải, vì tôi biết nếu ép buộc hoặc cưỡng bức
các em viết trong tình trạng như thế sẽ nảy sinh tư tưởng viết qua quít cho
xong tạo thói quen không tốt cho học sinh.
- Nhờ kiên trì và thực hiện thường xuyên các biện pháp trên nên học
sinh lớp tôi hiện nay đã có thói quen ngồi đúng tư thế một cách tự giác.
- Yêu cầu học sinh thực hiện đúng các nguyên tắc khi ngồi viết là
chúng ta đã giúp các em có cơ sở làm nền tảng để rèn chữ viết và đẹp sau
này.
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 21
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
* Biện pháp 2 : Nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh bằng
cách giúp cho học sinh viết chữ đúng nét, đúng mẫu, đúng cỡ và đảm bảo
đúng qui trình.
- Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, trước hết giáo viên
phải nâng cao nhận thức cho học sinh và phụ huynh xem trọng việc rèn chữ ít
nhất ngang bằng với việc học các môn học khác.
- Như chúng ta đã biết : Chữ viết là hệ thống ngôn ngữ ký hiệu bằng đồ
hình được qui định thống nhất trên toàn quốc. Nên khi viết đòi hỏi phải thực
hiện đúng yêu cầu từng nét chữ, con chữ. Rèn cho học sinh viết đúng yêu cầu
từng nét chữ chính là tạo cơ sở cho các em viết đẹp sau này.
Muốn học sinh của mình viết đúng, giáo viên phải giúp học nắm vững
các nét của từng con chữ, giúp các em phân biệt và thực hiện đúng các thao
tác viết của từng nét chữ … Ví dụ : Nét khuyết trên viết như thế nào ? nét
khuyết dưới viết ra sao ? nét móc hai đầu khác với nét khuyết trên, dưới ở
điểm nào ? .
- Xác định đúng vai trò của việc thực hiện đúng qui trình đối với chất

lượng chữ viết nên trong quá trình rèn chữ cho học sinh tôi đã yêu cầu các em
phải thực hiện viết đúng từng nét chữ.
- Trong quá trình rèn chữ viết cho học sinh, ngoài việc yêu cầu các em
thực hiện đúng tư thế ngồi (như ở biện pháp 1) tôi còn yêu cầu các em viết
đúng. Đầu tiên, tôi giúp các em xác định điểm đặt bút, điểm dừng bút, rồi độ
cao, độ rộng của từng con chữ. Tuy các em đã được học ở các lớp dưới
nhưng mỗi khi bắt tay vào việc rèn chữ tôi vẫn hướng dẫn cho các em nắm lại
thật kĩ.
Ví dụ :
- Về độ rộng tôi yêu cầu các em thực hiện : Đối với các con chữ : o, a,
u, ư có độ rộng 1 đơn vị, đối với con chữ : i, e, t có độ rộng nhỏ hơn 1 đơn vị
còn đối với con chữ m, kh thì có độ rộng là 2 đơn vị.
- Về độ cao tôi yêu cầu các em phải bảo đảm đúng theo nhóm chữ :
+ Các con chữ o, a, ô, u, i, e, ê có độ cao là 1 dòng ly.
+ Con chữ t có độ cao là 1,5 dòng ly.
+ các chữ k, l, b, h, g , y có độ cao là 2,5 dòng ly
Khi hướng dẫn học sinh, tôi kết hợp với việc làm mẫu để giúp các em
nhớ lâu và dễ thực hiện.
Để giúp các em luyện chữ tốt hơn, tôi đã tổ chức cho các em luyện chữ
theo nhóm.
Ví dụ :
- Đối với kiểu chữ thường có hai nhóm chữ: Nhóm nét móc gồm các
chữ : u, ư, n, m; nhóm nét khuyết gồm các chữ : b, l, h, k, y.
- Đối với kiểu chữ hoa có các nhóm :
+ L, E, Ê, N
+ H, K, A, X, M
+ C, O, Q, S
+ U, V, X
+ P, R, Đ, B, G
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 22

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
Để học sinh viết chữ đẹp, khi các em viết tôi nhắc các em cách đưa nét
bút nhanh, đặt bút xuống là kéo một mạch từ nét đầu đến nét cuối mới nhấc
bút lên và hướng dẫn các em ghi các dấu thanh dấu mũ vào đúng vị trí của
chữ. Chú ý tạo nét thanh, nét đậm khi viết.
Ngoài việc yêu cầu học sinh viết chữ theo mẫu, tôi còn khuyến khích
học sinh rèn viết chữ nghiêng, chữ sáng tạo.
* Biện pháp 3 : Chia nhóm học sinh để rèn chữ.
Cùng với các biện pháp trên để việc rèn chữ cho học sinh có hiệu quả
tôi còn tổ chức chia nhóm đối tượng học sinh để rèn.
Ví dụ :
Nhóm 1 : Gồm những em học sinh đã viết đúng, rèn viết đẹp
(khá - giỏi)
Nhóm 2 : Gồm những em học sinh viết tạm được (Trung bình)
Nhóm 3 : Gồm những em viết xấu (Yếu)
Trên cơ sở từng nhóm đối tượng học sinh tôi có các biện pháp rèn chữ
khác nhau.
Ví dụ :
- Đối với nhóm 1 : Tôi chỉ hướng dẫn và nhắc nhở qua về các yêu cầu
là học sinh có thể thực hiện tốt. Với nhóm đối tượng này tôi chú trọng việc
rèn chữ đẹp nên mọi yêu cầu về chữ viết cao hơn.
- Đối với nhóm 2 : Tôi hướng dẫn các em kĩ hơn so với nhóm 1, trong
một số trường hợp tôi phải làm mẫu để các em nhìn và thực hiện. Với nhóm
đối tượng này, tôi yêu cầu các em trước hết phải viết đúng rồi mới rèn viết
đẹp.
- Đối với nhóm 3 : Tôi dành nhiều thời gian và đầu tư nhiều công sức
hơn. Tôi hướng dẫn các em tỉ mỉ cách đưa bút từng nét chữ. Yêu cầu của tôi
đối với đối tượng học sinh này là phải viết đạt yêu cầu do đó, sau mỗi nét viết
của học sinh tôi giúp các em tự nhận thấy : “Nét nào được – nét nào chưa
được ?” để các em tự tìm nguyên nhân vì sao mình viết chưa được : Tại tư

thế cầm bút hay tại chưa thực hiện đúng kĩ thuật viết. Sau khi giúp học sinh
tự tìm được nguyên nhân tôi gợi ý để các em rút kinh nghiệm trong những bài
viết sau.
* Biện pháp 4 : Giáo dục học sinh lòng say mê rèn chữ viết
Một trong những việc làm thường xuyên của tôi trong quá trình rèn
chữ viết cho học sinh là giáo dục các em có lòng say mê và ý chí quyết tâm
trong quá trình rèn chữ viết.
Để các em có hứng thú trong việc rèn chữ, tôi đã nghiên cứu và tìm
hiểu để phát hiện những vẻ đẹp riêng của từng con chữ. Trên cơ sở đó, tôi
khơi gợi trí tưởng tượng phong phú của các em trước mỗi khi các em luyện
chữ viết.
Ví dụ :
- Một dấu chấm nặng tương tự một hòn đá nặng lăn từ trên núi cao rơi
xuống vực sâu ; một dấu sắc như một ánh kiếm sắc vút lên mạnh mẽ; một
dấu huyền tĩnh lặng như mặt nước hồ yên tĩnh
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 23
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
- Một chữ T bay bướm quấn qt như tà áo cơ gái đẹp, chữ S như con
rồng bay lên, chữ Q như con rắn cuộn tròn, chữ H như một người đứng
thẳng hiên ngang giữa trời đất, một chữ Xn có sức sống như thu cả mùa
xn đầy sức sống.
Chính nhờ làm tốt biện pháp này tơi đã giúp các em cảm nhận được nét
đẹp riêng của từng nét chữ từ đó gởi gắm tình cảm của mình vào từng nét
bút.
Ngồi việc làm trên, trong những giờ sinh hoạt tập thể, tơi sưu tầm những câu
chuyện có tính giáo dục về việc rèn chữ như : “Văn hay - Chữ tốt” nói về bậc
hiền tài Cao Bá Qt hay chuyện “Viết bằng chân mà vẫn đẹp” của thầy
Nguyễn Ngọc Ký thơng qua đó để giáo dục học sinh.
Để có thể đánh giá kịp thời việc rèn chữ của học sinh, cuối mỗi tháng,
tơi thường u cầu các em viết một bài thật đẹp để tơi chấm và ghi điểm vào

bảng theo dõi. Những bài viết đẹp của học sinh tơi trưng bày trước lớp để các
bạn khác học tập. Để kích thích tính tích cực của các em trong q trình rèn
chữ, tơi thường xun tổ chức các hình thức thi đua như : “Thi viết nhanh,
viết đẹp” hay “Đơi bạn viết chữ đẹp”. Phần thưởng của tơi dành cho các em
trong các lần thi này là những thỏi sơcơla bọc giấy màu vàng, màu trắng
tượng trưng cho những chiếc huy chương. Phần thưởng này tuy đơn giản
nhưng tơi đã tạo được sự hứng thú và cố gắng rèn luyện của các em.
3/ Kết quả:
Nhờ kiên trì và thường xun thực hiện các biện pháp trên vào việc rèn
chữ cho học sinh nên chất lượng chữ viết của lớp tơi qua các năm đã có nhiều
tiến bộ :
* Năm học 2010 – 2011 :
- Lớp tơi có …28……. học sinh đạt chuẩn VSCĐ - Tỉ lệ : 100 /
……….
- Số HS đạt giải viết chữ đẹp cấp trường 1 em ( giải ba )
* Năm học 2011 – 2012 : (Tính đến thời điểm này)
- Lớp tơi có …24……. học sinh đạt chuẩn VSCĐ - Tỉ lệ : …100 /
…….
- Số HS đạt giải viết chữ đẹp …2 em……. Trong đó :
+ Cấp trường : 1 giải nhất và 1 giải nhì……….
+1 HS tham gia thi cấp Huyện
Ngồi những con số có thể đếm được, một kết quả đã đạt được của lớp
tơi cũng có ý nghĩa rất lớn đó là : Học sinh lớp tơi rất ham thích rèn chữ, các
em đã có nhiều thói quen tốt trong học tập. Tinh thần tự giác, ý thức trách
nhiệm, tính cẩn thận và óc thẩm mỹ của các em đã được hình thành và phát
triển theo cùng với q trình rèn chữ của mình .Chính từ việc cùng các em
rèn chữ viết mà tình cảm của cơ trò lớp tơi ngày càng gần gũi, gắn bó.
PHẦN III : KẾT LUẬN
1/ Khái qt vấn đề :
- Phải nói rằng, rèn chữ đẹp cho học sinh Tiểu học là một việc làm hết

sức khó nhưng lại rất cần thiết. Để làm tốt cơng tác này, đòi hỏi mỗi giáo
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 24
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2011-2012
viên phải có lòng nhiệt tình, lòng u nghề mến trẻ và tất cả vì sự nghiệp
Giáo dục của chúng ta.
- Muốn rèn cho học sinh viết đẹp trước hết giáo viên phải chú trọng
đến việc viết đúng. Tất cả học sinh, khi đến trường, đều có quyền bình đẳng
do đó giáo viên chúng ta phải có biện pháp rèn chữ cho tất cả đối tượng học
sinh, khơng nên có hiện tượng chỉ tập trung rèn chữ cho một số đối tượng học
sinh khá, giỏi hoặc đối tượng học sinh dự thi.
- Việc rèn chữ viết cho học sinh là một việc làm khó nên chúng ta cần
kiên trì thực hiện và thực hiện thường xun. Trong q trình rèn chữ, chúng
ta cần làm cho Phụ huynh học sinh nhận thức được vị trí quan trọng của
việc rèn chữ để có sự phối hợp của Phụ huynh học sinh (vì đây là lực lượng
quan trọng hỗ trợ chúng ta trong việc nhắc nhở và kèm cặp học sinh.)
- Chữ viết của giáo viên là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc rèn
chữ cho học sinh do đó mỗi giáo viên chúng ta phải tự rèn chữ viết của bản
thân sao cho đúng mẫu, đúng qui định và phải đẹp. Đây là một việc làm hết
sức khó, khó hơn cả việc rèn chữ cho học sinh nhưng chúng ta phải cố gắng.
2/ Lợi ích và khả năng vận dụng :
Đề tài mang tính khả thi khắc phục học sinh viết chữ xấu , cẩu thả ,
khơng đúng mẫu đến viết đúng , viết đẹp ngày càng cao .
Kinh nghiệm dễ thực hiện có thể triển khai rộng rãi .
3/ Đề xuất, kiến nghị :Có thể nói rằng, trên một vùng nông thôn
thuộc xã bãi ngang , học sinh đa số là con em lao động nghèo, tình hình
kinh tế gia đình còn khó khăn thì việc duy trì và phát huy phong trào “Vở
sạch chữ đẹp” của lớp tơi là một kết quả hết sức lớn. Những con số biết nói
ấy đã phần nào minh chứng cho sự cố gắng khơng mệt mỏi và lòng u nghề,
mến trẻ của tơi.
Trong phạm vi một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, tơi đã trình bày lại

những biện pháp rèn chữ đẹp của tơi cho học sinh. Với khả năng của bản
thân, có thể những nội dung được trình bày trong đề tài còn có ít nhiều hạn
chế nhưng đây là tất cả những biện pháp tơi đã vận dụng và đạt hiệu quả. Tơi
rất mong các cấp lãnh đạo, các bạn bè đồng nghiệp ghi nhận và góp thêm ý
kiến.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Phước Thắng , ngày . tháng …. năm 2012
Người viết
Trần Thò Thìn
Người thực hiện : Trần Thị Thìn Trang 25

×