Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới hội nhập với nền kinh tế thế giới, trên cơ
sở đó, hoạt động thương mại quốc tế của nước ta cũng càng ngày càng đi lên. Thương
mại quốc tế là tất yếu khách quan để tạo ra hiệu quả cao nhất trong nền sản xuất quốc
gia cũng như toàn thế giới. Đối với một quốc gia như chúng ta thì việc nhập khẩu đóng
một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
Chúng ta đã qua đi cái thời kỳ lo ăn sao cho đủ no, mặc sao cho đủ ấm, mà bây
giờ là nhu cầu tự thỏa mãn bản thân, không chỉ có nhu cầu về vật chất thông thường,
mà những vật chất ấy còn phải mang tính thẩm mỹ, nghệ thuật cao, để đáp ứng nhu
cầu ấy trong lúc nước ta còn là một quốc gia hạn hẹp về cơ sở vật chất và công nghệ,
và hơn nữa là để tiết kiệm tối đa chi phí thì việc nhập khẩu công nghệ, hay chính là
nhập khẩu những máy móc công nghệ cao của nước ngoài sẽ là một trong những giải
pháp lý tưởng nhất. Ngành uốn sắt nghệ thuật, một trong những ngành yêu cầu cao về
công nghệ, hướng tới những khách hàng hạng thương gia, có thu nhập cao, những con
người yêu kiến trúc, nghệ thuật Châu Âu, là một ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật cũng
như tay nghề. Chắc chắn rằng với sự phát triển không ngừng của nước ta thì việc nhập
khẩu máy móc uốn sắt nghệ thuật sẽ trở thành một lĩnh vực phát triển hơn nữa.
Công ty TNHH Âu Việt -một trong những nhà là nhà phân phối độc quyền máy
uốn sắt nghệ thuật hàng đầu của Đức. Cũng giống như nhiều doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu khác khi mới bước vào hoạt động trong nền kinh tế thị trường,
công ty khó có thể tránh khỏi những khó khăn, thách thức và yếu kém trong nghiệp vụ
nhập khẩu của mình, tìm ra giải pháp nhằm khắc phục nhược điểm, khó khăn và nâng
cao hơn nữa hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh nói
chung luôn là quan tâm của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên của công
ty.
1
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
1
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận là kết quả của quá trình em học tập và nghiên cứu tại trường Đại Học
Thương Mại với sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ, giảng viên.
Em đặc biệt cảm ơn sâu sắc tới cô Th.s Lê Mai Trang người đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ em sửa đổi nhiều thiếu sót trong bài khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các anh chị công tác tại Thư viện trường, các anh chị
trong công ty TNHH Âu Việt đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình tìm
kiếm tài liệu nghiên cứu.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bạn và gia đình, những người đã giúp đỡ về
kiến thức và chia sẻ những khó khăn trong quá trình nghiên cứu, tạo điều kiện để em
có thể hoàn thành tốt nhất khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Thị Lĩnh
2
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
2
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
MỤC LỤC
3
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
3
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
4
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
4
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Diễn giải
1 USD Dolar Mỹ
2 GDP Tốc độ tăng trưởng
3 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
4 SX Sản xuất
5 KD Kinh doanh
6 BHXH Bảo hiểm xã hội
5
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
5
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Kinh tế thế giới đã trải qua một năm 2009 đầy khó khăn và đang có dấu hiệu
phục hồi. Tuy nhiên, những thiệt hại mà suy thoái gây ra cho kinh tế thế giới là không
hề nhỏ. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ năm 2008 đã nhanh chóng lan
rộng ra toàn cầu, kéo theo đó là tình trạng suy thoái diễn ra trên toàn thế giới. Tổ chức
tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định, kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng chậm lại từ mức 5%
năm 2007 xuống 3,7% năm 2008 và chỉ còn 2,2% vào năm 2009. Tốc độ tăng trưởng ở
các nước kinh tế phát triển giảm 0,3% năm 2009. Tốc độ suy thoái mạnh nhất rơi vào
quý 4/2008 và quý 1/2009. Một số nền kinh tế lớn của thế giới như Nhật Bản, Mỹ, Ân
Độ và các quốc gia ở châu Âu cũng đang đứng trước tình trạng suy thoái kinh tế trầm
trọng nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây. Năm 2009, mức suy thoái
tại Mỹ là 0,9%, Nhật Bản là 0,1% và các nước thuộc EU là 0,5%. Cũng theo nhận định
này, tỷ lệ thất nghiệp bình quân của các nền kinh tế trong tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) là gần 9%. Tại Mỹ, nơi suy thoái bắt đầu sớm hơn các nước khác, đội
ngũ thất nghiệp năm 2009 đã tăng lên gấp đôi so với năm 2008. Tỷ lệ thất nghiệp ngày
càng tăng cao cũng đang là nỗi lo cho các quốc gia.
Suy thoái kinh tế tác động trực tiếp đến mọi mặt cũng như mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, không ngoại trừ một quốc gia nào. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng
hội nhập sâu rộng vào nền kih tế thế giới, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) nên khó có thể tránh khỏi những tác động suy thoái kinh
tế toàn cầu. Năm 2012, theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế trong nước và
quốc tế cũng như của doanh nghiệp thì năm vừa qua là một năm khó khăn về kinh tế
Việt Nam. Con số doanh nghiệp tư doanh vừa và nhỏ phá sản không ngừng tăng lên so
với năm 2011, số doanh nghiệp còn trụ lại phần lớn hoạt động cầm chừng theo kiểu
chờ thời, giảm bớt lao động, chấp nhận thu hẹp sản xuất, giảm doanh thu, giảm lợi
nhuận.
Các tập đoàn kinh tế cũng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ do đầu tư
tràn lan và không hiệu quả vào những lĩnh vực như tài chính và bất động sản từ những
năm trước. Sản xuất kinh doanh nội địa phát triển chậm, tồn kho hàng hóa ứ đọng, tỷ
lệ thất nghiệp gia tăng, hệ thống ngân hàng suy yếu…. là những vấn đề kinh tế cần giải
quyết triệt để.
Tuy rằng cũng có những dấu hiệu tích cực đã phần nào làm giảm bớt độ ảm đạm
của kinh tế năm qua như: tốc độ lạm phát còn một con số đánh dấu sự ổn định tích cực
của giá cả hàng hóa, tỷ giá Việt Nam đồng khá ổn định trong suốt năm 2012 so với
đồng USD, thâm hụt cán cân thương mại thấp nhất so với nhiều năm qua và dự trữ
6
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
ngoại hối quốc gia được củng cố, nhưng theo nhiều nhà phân tích, các dấu hiệu được
coi là tích cực này cũng không thể đủ sức vực nền kinh tế đi lên vì nó chỉ là hệ quả của
một nền kinh tế đang tăng trưởng chậm dần: tốc độ lạm phát ở mức 8% không thấp khi
nền kinh tế đang lún sâu vào giảm phát, khi sản xuất đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp lên
xấp xỉ 10% và tăng trưởng GDP chỉ còn 5,3%. Sự cải thiện cán cân thương mại trong
năm 2012 là một dấu hiệu tích cực nhưng không chắc sẽ lâu bền, khi trên thực tế, nó
chỉ phán ánh tình hình giảm sút nhập khẩu do giảm đầu tư tạm thời trong năm 2012
của các tập đoàn kinh tế nhà nước khi họ phải tập trung giải quyết khủng hoảng nợ
không hề nhỏ… đây là các trở ngại lớn đối với Việt Nam, tuy nhiên các trở ngại trên
con đường tăng trưởng kinh tế không chỉ bắt nguồn từ tác động suy thoái của nền kinh
tế thế giới.
Nền kinh tế chúng ta còn có những vấn đề riêng, những chấn thương riêng và hậu
quả của các tổn tương này sẽ xuất hiện rõ rệt hơn trong năm 2013, 2014 và có thể kéo
dài ang những năm tới, khiến nề kinh tế có thể lún sâu vào tình trạng lạm phát trì trệ,
nếu chúng ta không sớm có những liệu pháp chữa trị kịp thời và một chiến lược phát
triển kinh tế đúng đắn.
Trong thời gian thực tập tại công ty TNHH Âu Việt tác giải nhận thấy suy thoái
kinh tế có ảnh hưởng lớn đến thị trường tiêu thụ sản phẩm máy uốn sắt nghệ thuật của
công ty. Vì suy thoái kinh tế làm cho các doanh nghiệp nói chung cũng như công ty
TNHH Âu Việt nói riêng gặp phải vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm giảm, các khó
khăn từ ngân hàng cũng khiến công ty khó tiếp cận vốn đầu tư tái sản xuất… các tác
động này đã là nguyên nhân chính làm cho doanh thu, lợi nhuận giảm, đe dọa tới sự
tồn vong của công ty. Nhận thức được những tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế
đến doanh nghiệp em đã lựa chọn đề tài “ Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị
trường tiêu thụ sản phẩm máy uốn sắt nghệ thuật của công ty TNHH Âu Việt ”.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Suy thoái kinh tế bắt đầu được quan tâm từ năm 2008 do những diễn biến và tác
động xấu tới kinh tế của nó, cho đến nay trên thế giới đã có ít nhiều các công trình
nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên trong nước thì các nghiên cứu về nó còn khá
nghèo nàn. Hầu hết các thông tin về suy thoái đều được bàn luận trên các trang báo
kinh tế như.
Tài liệu chuyên khảo:
• Robert C.Guell, (2009), Những chủ đề kinh tế học hiện đại, NXB Tổng hợp Đồng Nai.
Nội dung: Đề cập đến những vấn đề thời sự như là suy thoái, tác động của giá
xăng, sự đói nghèo, giải quyết lạm phát,… đều được thể hiện qua chiều sâu nội dung
của cuốn sách. Quấn sách gồm 35 chương tập trung vào các chủ đề: các vấn đề kinh tế
7
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
vĩ mô, suy thoái kinh tế, các vấn đề quốc tế,…với phong cách viết mang tính đối thoại,
cuốn sách giúp sinh viên dế dàng liên kết kết với nội dung.
• Charles P.Kindleberger và Robert T Z.Aliber, (2009), Hoảng loạn, hỗn loạn và cuồng
loạn: gần 400 năm lịch sử các cuộc khủng hoảng tài chính, NXB Tri Thức.
Nội dung: Quấn sách viết về các cuộc khủng hoảng kinh tế bao gồm trả lời các
câu hỏi như: Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng? Cơ chế phát sinh và phạm vi tác
động của các cuộc khủng hoảng từng có trong lịch sử?
Các bài viết, bài báo các hội thảo tham nghị về khủng hoảng kinh tế:
• Đào Thế Tuấn, (2009), Bản chất của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cứu vớt chủ
nghĩa tư bản hay xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế.
Số 370. Tháng 3/2009.
Nội dung: Nghiên cứu bản chất, nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008 từ đó đưa ra các kết luận đúc kết cho xây dựng Chủ nghĩa Xã Hội thông qua
vết xe đổ của chủ nghĩa tư bản.
• Trần Đình Thiên, (2009), Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tác động đến Việt Nam và
giải pháp ứng phó. Hội thảo khoa học “Tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế thế giới – chính sách ứng phó của Việt Nam”. Viện kinh tế Việt Nam
Nội dung: Nghiên cứu về diễn biến, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu năm 2008 và những tác động của nó tới kinh tế Việt Nam, từ đó đưa ra các chính
sách đối phó với khủng hoảng dựa trên các nghiên cứu cảu cuộc khủng hoảng 2008.
• Đinh Tuấn Minh, (2010), Bài nghiên cứu của – Khủng hoảng kinh tế hiện nay, phân
tích và khuyến nghị từ các lý thuyết kinh tế trường phái Áo.
Nội dung: Tóm tắt kinh tế Việt Nam và thế giới trong giai đoạn đang suy thoái,
hoặc tệ hơn nữa, khủng hoảng. Bài viết này hướng tới việc lý giải các nguyên nhân
dẫn đến suy thoái, khủng hoảng kinh tế và từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách từ
góc nhìn của lý thuyết kinh tế trường phái Áo. Dựa trên kinh nghiệm cảu cuộc Đại
khủng hoảng 1929-1932 và các diễn biến gần đây của kinh tế Mỹ.
Luận văn và khóa luận:
• Trương Công Long, “ Ảnh hưởng cảu suy thoái kinh tế đến việc tiêu thụ sản phẩm của
công ty cổ phần may Nhà Bè”.– khóa luận/ luận văn – Trường Đại Học Thương Mại.
Nội dung: Luận văn đã đưa ra những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến việc
tiêu thụ sản phẩm may mặc của công ty, những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và gải
pháp của công ty cổ phần may Nhà Bè.
• Trịnh Thị Huyền, “ Một số giải pháp kích cầu nhằm hạn chế ảnh hưởng của suy thoái
kinh tế đến hoạt động kinh doanh thiết bị văn phòng trên địa bàn Hà Nội”, khóa luận/
luận văn – Trường Đại Học Thương Mại.
Nội dung: Nghiên cứu về các vấn đề lý luận của suy thoái kinh tế, các tác động
cảu suy thoái kinh tế đến tình hình kinh doanh cảu mặt hàng thiết bị văn phòng trên
8
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
địa bàn Hà Nội, qua đó đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản
phẩm.
• Nguyễn Thúy Quỳnh, “ Một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế tới kinh doanh xuất khẩu gạch ngói của công ty cổ phần Viglacera Hạ Long sang thị
trường các nước châu Á”, khóa luận/ luận văn – Trường Đại Học Thương Mại.
Nội dung: Tập trung nghiên cứu các ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đến
hoạt động xuất khẩu sản phẩm gạch ngói của công ty Viglacera Hạ Long và đưa ra các
giải pháp để hạn chế ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động xuất khẩu.
• Nguyễn Thế Cung, “ Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến xuất khẩu sản phẩm nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, khóa luận/ luận văn – Trường Đại Học Thương
Mại.
Nội dung: Nghiên cứu các ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động xuất
khẩu sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa và đưa ra các giải pháp hạn
chế ảnh hưởng cảu suy thoái.
• Hồ Thị Thơ, “ Phân tích ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới kết quả hoạt động kinh
doanh cảu công ty cổ phần thực phẩm Đức Việt”, khóa luận/ luận văn – Trường Đại
Học Thương Mại.
Nội dung: Nghiên cứu những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới kết quả kinh
doanh của công ty cổ phần thực phẩm Đức Việt, từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp
nhằm khắc phục, ngăn chặn những ảnh hưởng đó.
Khóa luận kế thừa ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu năm trước do có
một số điểm chung như: lý thuyết về suy thoái kinh tế, suy thoái kinh tế toàn cầu, mô
hình nghiên cứu,… Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ nghiên cứu những tác động
của cuộc suy thoái kinh tế đến hoạt động xuất khẩu mặt hàng của các doanh nghiệp
hay là chỉ ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các công ty, chưa có công
trình nào nghiên cứu về ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ sản
phẩm máy uốn sắt. Vì thế, đây là điểm mới và khác biệt so với những công trình trước.
3. Xác lập và tuyên bố vần đề trong đề tài
Trong tình hình bối cảnh thế giới đang lâm vào suy thoái nghiêm trọng và tác
động của suy thoái kinh tế cũng đã ảnh hưởng đến Việt Nam, cụ thể là ảnh hưởng tới
thị trường tiêu thụ sản phẩm của các mặt hàng Việt Nam nói chung và ảnh hưởng trực
tiếp đến thị trường tiêu thụ sản phẩm máy uốn sắt nghệ thuật của công ty TNHH Âu
Việt nói riêng. Qua quá trình thực tập tại công ty TNHH Âu Việt em đã tìm ra phương
hướng cho đề tài khóa luận cuối khóa của mình là “ Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
đến thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty TNHH Âu Việt”.
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
• Mục tiêu chung:
9
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Mục địch nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu sâu hơn về ảnh hưởng cảu suy
thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp máy uốn sắt nói chung
và của công ty TNHH Âu Việt nói riêng. Từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm
hạn chế ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ sản phẩm máy uốn sắt
nghệ thuật nói chung và của công ty TNHH Âu Việt nói riêng.
• Mục tiêu cụ thể:
Phân tích tác động của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ sản phẩm máy
uốn sắt nghệ thuật của công ty TNHH Âu Việt, qua đó ảnh hưởng đến doanh thu và lợi
nhuận như thế nào.
Phân tích ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến các hoạt động sản xuất kih doanh
khác của công ty.
Từ các phân tích đưa ra các khó khăn và các kiến nghị cũng như chính sách kinh
doanh hiệu quả, giảm thiểu tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế.
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về suy thoái kinh tế, các vấn đề của suy thoái kinh tế
đến thị trường tiêu thụ sản phẩm máy uốn sắt nghệ thuật của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu:
• Về không gian: đề tài phân tích tình hình suy thoái kinh tế trong nước và trên thế giới
đồng thời phân tích ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ sản phẩm
của công ty TNHH Âu Việt trên thị trường trong, ngoài nước.
• Về thời gian: tập trung phân tích tình hình ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị
trường tiêu thụ sản phẩm cảu doanh nghiệp từ năm 2010 đến năm 2014.
• Về nội dung ngiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
đến thị trường tiêu thụ mặt hàng máy uốn sắt nghệ thuật của doanh nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu.
Thu thập dữ liệu là công việc quan trọng cần thiết cho bất kì công trình nghiên
cứu nào. Đây là nguồn kiến thức quan trọng được tích lũy qua quá trình nghiên cứu
mang tính chất lịch sử lâu dài. Phương pháp thu thập dữ liệu áp dụng các phương
pháp: phương pháp điều tra trắc nghiệm, phương pháp phỏng vấn và thu thập dữ liệu
qua các nguồn thứ cấp.
Dữ liệu gồm hai loại dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Trong đề tài em chỉ sử
dụng đến dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu thứ cấp là những dữ liệu đã qua xử lý nhằm phục vụ
cho mục đích nghiên cứu. Có nhiều phương pháp thu thập dữ liệu, khi tiến hành thu
thập dữ liệu thường phải sự dụng phối hợp nhiều phương pháp với nhau để đạt mong
muốn. Sau đây là các phương pháp thu thập số liệu mà em đã dùng:
• Phương pháp quan sát:
10
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Quan sát là phương pháp ghi lại có kiểm soát các sự kiện hoặc các hành vi ứng
xử cảu con người. Phương pháp này thường được dùng kết hợp với các phương pháp
khác để kiểm tra chéo độ chính xác của dữ liệu thu thập được. Có thể chia ra: quan sát
trực tiếp là tiến hành quan sát khi sự việc đang diễn ra và quan sát gián tiếp là quan sát
kết quả hay tác động của hành vi, chứ không trực tiếp quan sát hành vi.
Phương pháp quan sát được em sử dụng nhiều nhất trong quá trình nghiên cứu về
đề tài tại công ty TNHH Âu Việt, quan hoạt động kinh doanh sản phẩm máy uốn sắt
nghệ thuật, thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty trong giai đoạn hiện nay, căn cứ
vòa đó đê đưa ra nhận định chung về thị trường tiêu thụ, thực trạng tiêu thụ, những
thành công và những mặt hạn chế.
• Phương pháp thu thập dữ liệu qua các nguồn thứ cấp.
Mục đích: nhằm thu thập các số liệu liên quan đến vấn đề thị trường tiêu thụ sản
phẩm máy uốn sắt nghệ thuật cũng như thu thập ý kiến của các chuyên gia về vấn đề
nghiên cứu qua các nguồn từ các đơn vị khảo sát và từ các phương tiện thông tin đại
chúng.
Trong bài khóa luận em đã sử dụng phương pháp này trong phần phân tích thực
trạng thương mại sản phẩm cũng như tổng quan về thị trường tiêu thụ sản phẩm máy
uốn sắt nghệ thuật trên thị trường nội địa giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
Thông tin sau khi đã thu thập được cần phải chọn lọc và xử lý các thông tin đó
cho phù hợp với mục tiêu mà mình hướng tới. Sau khi các thông tin, dữ liệu đã được
chọn lọc và xử lí thì cần được phân tích để phục vụ cho việc nghiên cứu. Trong đề tài,
em đã sử dụng một số phương pháp phân tích thông tin như:
• Phương pháp tổng hợp thống kê:
Gồm 4 bước cơ bản là thu thập dữ liệu và thiết kế các nghiên cứu định lượng,
tóm tắt thông tin, đưa ra các kết luận dựa trên các số liệu và cuối cùng là định lượng
kết quả hiện tại hoặc dự báo tương lai.
• Phương pháp đối chiếu so sánh:
Phương pháp này giúp cho việc so sánh dữ liệu giữa các thời kì khác nhau để có
những đánh giá khách quan về thị trường tiêu thụ của công ty Âu Việt.
Các phương pháp này được em sử dụng nhiều nhất trong phần 2.1 và 2.2, ngoài
ra còn được sử dụng để đưa ra kết luận trong phần 2.3.1
• Phương pháp khác
Ngoài các phương pháp đã nêu trên, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp
khác như phương pháp chỉ số, sử dụng phần mềm trong việc vẽ các biểu đồ phục vụ
cho việc phân tích các dữ liệu thứ cấp.
6. Kết cấu khóa luận
11
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Ngoài phần tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ,
hình vẽ, danh mục từ viết tắt, tài liệu tham khảo và các phụ lục thì khóa luận có kết
cấu như sau:
Chương 1. Một số lý luận cơ bản về ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị
trường tiêu thụ của doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ của công ty.
Chương 3. Các đề xuất và kiến nghị nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của suy thoái
kinh tế thị trường tiêu thụ của công ty.
12
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA SUY
THOÁI TỚI THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm về suy thoái kinh tế.
Khái niệm suy thoái kinh tế (Economic downturn)
• Theo kinh tế học vĩ mô: “Suy thoái kinh tế là sự suy giảm sản lượng GDP của một
quốc gia, hoặc tăng trưởng âm, trong vòng từ hai quý liên tiếp trở lên trong một năm”.
• Suy thoái kinh tế cũng có thể liên quan với giảm phát hoặc lạm phát trầm trọng. suy
thoái kinh tế có thể bao gồm những suy giảm ngẫu nhiên trong các thước đo của các
hoạt động kinh tế nói chung như tỷ lệ thất nghiệp, đầu tư, và lợi nhuận cảu doanh
nghiệp.
• Theo quan điểm của NBER (NBER là một tổ chức phi lợi nhuận của các nhà kinh tế
hàng đầu từ các hang nghiên cứu, trường đại học và một số cơ quan khác) đưa ra định
nghĩa về suy thoái kinh tế “ là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước kéo dài
nhiều tháng”.
Khái niệm suy thoái kinh tế toàn cầu (Global economic downturn)
Suy thoái kinh tế toàn cầu là sự suy giảm sản lượng GDP của toàn thế giới, hoặc
tăng trưởng âm từ hai quý liên tiếp trở lên trong một năm. Hay nói cách khác, suy
thoái kinh tế toàn cầu là sự suy giảm mức dộ tăng trưởng của nhiều quốc gia trong hai
quý liên tiếp. Đồng thời khiến cho tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát,… gia tăng trên toàn thế
giới.
1.1.2. Khái niệm về thị trường tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ hàng hóa của một doanh nghiệp là thị trường đầu ra của
doanh nghiệp, như ta đã biết thị trường của doanh nghiệp bao gồm thị trường đầu vào
và thị trường đầu ra (thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp), một doanh
nghiệp muốn tồn tại thì việc làm tốt hai công tác đầu vào và đầu ra giữ vai trò vô cùng
quan trọng.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là nơi diễn ra hoạt động mua bán
hàng hóa giữa doanh nghiệp và người mua hàng hóa ở đó doanh nghiệp đóng vai trò là
người bán.
Như vậy ta có thể định nghĩa thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như
sau: thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là một quá trình, trong đó người
bán là doanh nghiệp và người mua là khách hàng của doanh nghiệp tác động qua lại
với nhau để xác định giá cả và số lượng sản phẩm, là nơi diễn ra các hoạt động mua
bán bằng tiền giữa doanh nghiệp và người mua sản phẩm của doanh nghiệp trong một
thời gian nhất định.
13
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là
yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là thực
hiện mục đích của sản xuất hàng hoá, là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu
dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất và
phân phối và một bên là tiêu dùng. Như vậy thị trường tiêu thụ sẽ là nơi mà diễn ra
hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Thị trường tiêu thụ quyết định sản lượng mà mỗi doanh
nghiệp muốn tiêu thụ sản phẩm của mình và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tiêu
thụ sản phẩm của công ty.
Xét theo góc độ của doanh nghiệp thì thị trường tiêu thụ hay còn gọi là thị trường
đầu ra: là thị trường liên quan trực tiếp đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp. Bất cứ một yếu tố nào dù rất nhỏ của thị trường này đều có thể ảnh hưởng ở
những mức độ khác nhau đến khả năng thành công hay thất bại trong tiêu thụ là cơ sở
để doanh nghiệp hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược, sách lược, công cụ
điều khiển tiêu thụ.
1.2. Một số lý thuyết về vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết về suy thoái kinh tế
Suy thoái kinh tế là một pha của chu kỳ kinh tế (suy thoái, phục hồi và hưng
thịnh).
Nguyên nhân của suy thoái kinh tế.
Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế là đối tượng tranh luận sôi
nổi giữa các nhà lý thuyết và những người làm chính sách mặc dù đa số thống nhất
rằng các kỳ suy thoái kinh tế gây ra bởi sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh)
theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh). Ví dụ, những nhà kinh tế học chủ
nghĩa Keynes và những lý thuyết gia theo lí thuyết chu kì kinh tế thực sẽ bất đồng về
nguyên nhân của chu kỳ kinh tế, nhưng sẽ thống nhất cao rằng các yếu tố ngoại sinh
như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất
thời, hoặc ngược lại, tăng trưởng kinh tế ngắn hạn.
Trường phái kinh tế học Áo giữ quan điểm rằng, lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra
suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kì suy thoái đó là động lực tích cực. Theo nghĩa
chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng
không hiệu quả trong giai đoạn “tăng trưởng” hoặc lạm phát. Phần lớn học giả theo
thuyết tiền tệ tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên
nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời kì suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu
kém.
Đặc điểm của suy thoái kinh tế:
- Suy thoái kinh tế khiến GDP trong nước giảm, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
trong tiêu thụ đầu ra do tiêu dùng giảm mạnh, dẫn tới hàng tồn kho của các lợi hàng
14
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến, việc này dẫn đến nhà sản
xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và
kết quả thực tế là GDP giảm sút.
- Từ đặc điểm trên làm cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn, sản xuất đình đốn, hàng không tiêu thụ được, doanh nghiệp bị lỗ, các chi phí
tăng lên…. Do đó cầu về lao động giảm, các doanh nghiệp cắt giảm công nhân và tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao.
- Suy thoái kinh tế là cho các sản lượng của doanh nghiệp giảm, giá cả đầu vào sản xuât
giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém, những yếu tố đó làm cho lạm phát chậm lại.
- Các chi phí là một gánh nặng của các doanh nghiệp trong khi doanh thu giảm xuống
trầm trọng, từ đó lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán
thường giảm theo khi các nhà đầu từ thường cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ
kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuổng trong thời kì suy
thoái.
Các kiểu suy thoái kinh tế.
Các nhà kinh tế học hay miêu tả kiểu suy thoái kinh tế theo hình dáng của đồ thị
tăng trưởng theo quý. Có các kiểu suy thoái kinh tế được nhắc đến:
• Suy thoái hình chữ V:
Hình 1.1: suy thoái kinh tế hình chữ V
Đây là kiểu suy thoái mà pha suy thoái ngắn, tốc đ suy thoái lớn, đồng thời pha
phục hồi cũng ngắn và tốc độ phục hồi nhanh; điểm đổi chiều giữa hai pha này rõ
ràng. Đây là kiểu suy thoái thường thấy. Suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ năm 1953 chính
là kiểu suy thoái hình chữ V này.
• Suy thoái hình chữ U
Hình 1.2: suy thoái kinh tế hình chữ U
15
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Đây là kiểu suy thoái mà pha phục hồi xuất hiện rất chậm. nền kinh tế sau một
thời kì suy thoái mạnh tiến sang thời kì vất vả để thoát khỏi suy thoái. Trong thời kì
thoát khỏi suy thoái, có thể có các quý tăng trưởng dương và tăng trưởng âm xem kẽ
nhau. Trong các năm 1973-1975, nền kinh tế của Hoa Kỳ đã rơi vào tình trạng suy
thoái này.
• Suy thoái hình chữ W
Hình 1.3: suy thoái kinh tế hình chữ W
Đây là kiểu suy thoái liên tiếp. nền kinh tế vừa thoát khỏi suy thoái được một
thời gian ngắn lại tiếp tục rơi vào tình trạng suy thoái. Cụ thể là nền kinh tế Hoa Kỳ
năm 1980.
• Suy thoái hình chữ L
16
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Hình 1.4: suy thoái kinh tế hình chữ L
Đây là kiểu suy thoái mà nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng rồi suốt một
thời gian dài không thoát khỏi suy thoái. Một số nhà kinh tế gọi tình trạng suy thoái
không lối thoát này là khủng hoảng kinh tế, như trường hợp thập kỷ mất mát ( Nhật
Bản).
Chu kỳ kinh tế:
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế
theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hổi và hưng thịnh (bùng nổ).
Hình 1.5: chu kỳ kinh tế
- Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Trong đồ thị thì nó là pha đầu tiên của
chu kỳ kinh tế, ban đầu nền kinh tế đang ở một mức GDP cao nhất, sau đó giảm dần
xuống. cho tới khi GDP giảm tới đáy có nghĩa là không thể giảm được nữa thì kết thúc
pha suy thoái kinh tế. trong quãng thời gian suy thoái các doanh nghiệp và cả nền kinh
tế đều bị thu hẹp về sản xuất kinh doanh. ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng,
khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới dfoij
là suy thoái.
- Phục hồi là pha sau pha suy thoái, trong đó GDP thực tế quay trở lại bằng mức trước
suy thoái. Trong pha này nền kinh tế bắt đầu được hồi phục, các khó khăn về tiêu thụ,
17
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
thị trường, các yếu tố đầu vào, tài chính và cầu được ổn định. Điểm ngoặt giữa hai pha
này là đáy của chu kỳ kinh tế, pha phục hồi là tiền thân của pha hưng thịnh.
- Hưng thịnh là khi GDP thực tế tăng liên tục, ổn định và lớn hơn mức ngay trước lúc
suy thoái. Trong hình 1.5 cho thấy pha hưng thịnh là pha cuối của chu kỳ kinh tế. Kết
thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang
pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
1.2.2. Lý thuyết về thị trường tiêu thụ sản phẩm
Theo Mc Carthy “Thị trường có thể được hiểu là các nhóm khách hàng tiềm năng
với những nhu cầu tương tự (giống nhau) và những người bán đưa ra các sản phẩm
khác nhau với các cách thức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đó”. Đặc điểm và tính
chất của thị trường tiêu thụ là cơ sở để doanh nghiệp hoạch định và tổ chức thực hiện
các chiến lược, sách lược, công cụ điều khiển tiêu thụ.
Theo quan điểm của marketing thương mại, xác định thị trường tiêu thụ của
doanh nghiệp dựa trên một số tiêu thức sau.
Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức sản phẩm:
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp thường xác định thị trường theo ngành hàng
(dòng sản phẩm) hay nhóm hàng mà họ kinh doanh và bán ra trên thị trường. Tuỳ theo
mức độ nghiên cứu người ta có thể mô tả ở mức độ khái quát cao hay cụ thể.
Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức địa lý:
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp thường xác định thị trường theo phạm vi khu
vực địa lý mà họ có thể vươn tới để kinh doanh. Tùy theo mức độ rộng hẹp có tính
toàn cầu khu vực hay lãnh thổ có thể xác định thị trường của doanh nghiệp:
- Thị trường ngoài nước
- Thị trường trong nước.
Theo tiêu thức khách hàng với nhu cầu của họ.
Theo tiêu thức này, doanh nghiệp mô tả thị trường của mình theo các nhóm
khách hàng mà họ hướng tới để thoả mãn, bao gồm cả khách hàng hiện tại và khách
hàng tiềm năng. Về lý thuyết, tất cả những người mua trên thị trường đều có thể trở
thành khách hàng của doanh nghiệp và hình thành nên thị trường của doanh nghiệp.
Nhưng trong thực tế thì không phải vậy: nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, họ cần
đến những sản phẩm khác nhau để thoả mãn nhu cầu, trong khi doanh nghiệp chỉ có
thể đưa ra thoả mãn họ một hoặc một số sản phẩm nào đó. Để thoả mãn nhu cầu,
khách hàng có thể có nhiều cách thức mua sắm khác nhau trong khi doanh nghiệp chỉ
có thể lựa chọn và đáp ứng tốt một hoặc một số yêu cầu về cách thức mua sắm và sử
dụng nào đó của khách hàng. Điều đó dẫn tới một thực tế là hình thành nên thị trường
- những nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có thể chinh phục.
18
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Cuối cùng, để kết hợp cả ba tiêu thức trên doanh nghiệp cần xác định được thị
trường tiêu thụ trọng điểm cho doanh nghiệp mình: Xác định thị trường trọng điểm là
quá trình phân tích thị trường từ khái quát đến cụ thể nhằm xác định được các nhóm
khách hàng với nhu cầu cụ thể về sản phẩm và cách thức thoả mãn nhu cầu của họ.
Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp có thể thực hiện những bước đi
khác nhau để đạt đến thị trường trọng điểm, nhưng về nguyên tắc có một số bước đi cơ
bản khi xác định thị trường trọng điểm như sau:
- Nghiên cứu thị trường rộng
- Phân tích thị trường sản phẩm chung
- Phân tích thị trường sản phẩm
- Phân đoạn thị trường, xác định thị trường thành phần- xác định các nhóm khách
hàng có nhu cầu khác biệt trên thị trường và thái độ của họ đối với sản phẩm cơ bản.
- Quyết định thị trường trọng điểm và cách tiếp cận: Sau khi đã có kết quả phân
đoạn- xác định được các nhóm khách hàng có nhu cầu khác biệt trên thị trường, doanh
nghiệp cần xác định thị trường mục tiêu của mình. Thị trường mục tiêu có thể là một
hay một số các phân đoạn thị trường đã xác định được. Số phân đoạn thị trường được
chọn làm thị trường mục tiêu phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và hợp
thành thị trường thích hợp của doanh nghiệp. Trên cơ sở đặc trưng nhu cầu của các
khách hàng trong từng thị trường mục tiêu, doanh nghiệp có thể lựa chọn, chế tạo sản
phẩm hoàn thiện và cách thức phù hợp để đưa ra đáp ứng nhu cầu của khách hàng
trọng điểm. Để thực hiện nội dung này, có thể sử dụng một trong ba cách tiếp cận thị
trường trọng điểm sau:
+ Tiếp cận thị trường trọng điểm đơn giản: Chọn một trong các thị trường thành
phần làm thị trường mục tiêu và xây dựng marketing hỗn hợp cho riêng thị trường này.
+ Tiếp cận thị trường trọng điểm phức tạp: Chọn 2 hoặc nhiều hơn trong số các
thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu. Xây dựng marketing hỗn hợp cho từng
thị trường mục tiêu đã lựa chọn.
+ Tiếp cận thị trường trọng điểm chấp nhận được: Chọn 2 hoặc nhiều hơn trong
số các thị trường thành phần làm thị trường mục tiêu. Ghép các thị trường thành phần
đã lựa chọn thành một thị trường tương đối đồng nhất. Xây dựng marketing hỗn hợp
chung cho thị trường ghép.
* Tầm quan trọng của thị trường tiêu thụ:
Đối với doanh nghiệp, thị trường luôn ở vị trí trung tâm. Thị trường có sức ảnh
hưởng mạnh mẽ đến từng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thị
trường là mục tiêu của những người kinh doanh và cũng là môi trường của hoạt động
19
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
kinh doanh hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các doanh
nghiệp được tự do lựa chọn lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, song điều quan trọng là
họ có tìm được một chỗ đứng cho mình trên thị trường hay không. Đặc biệt là đối với
các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá, làm ra sản phẩm. Các sản phẩm phải được
người tiêu dùng chấp nhận, đựoc tiêu dùng rộng rãi và ngày càng phổ biển trên thị
trường. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp phải làm công tác phát triển và mở
rộng thị trường.
- Thị trường tiêu thụ quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Thông qua hoạt
động mua bán trên thị trường, các doanh nghiệp đạt được mục tiêu chính của mình là
tìm kiếm lợi nhuận. Với các doanh nghiệp thương mại, đơn vị kinh doanh chuyên
nghiệp trong lưu thông mua bán hàng hoá để kiếm lời thì thị trường là nhân tố luôn
cần tìm kiếm. Thị trường càng lớn thì hàng hoá tiêu thụ càng nhiều, còn thị trường bị
thu hẹp hay doanh nghiệp bị mất thị trường thì doanh nghiệp sẽ bị suy thoái, không thể
tồn tại lâu. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với những tiến bộ khoa học mới làm
biến chuyển công nghệ sản xuất, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc
liệt. Nhu cầu tiêu dùng cũng vì thế ngày một nâng cao. Bất kỳ doanh nghiệp nào cho
dù đang đứng trên đỉnh cao của sự thành đạt cũng có thể bị lùi lại phía sau nếu không
nắm bắt được thị trường một cách kịp thời. Ngược lại, cho dù doanh nghiệp đang đứng
trên bờ vực của sự phá sản cũng có thể vươn lên chiếm lĩnh và làm chủ thị trường nếu
họ nhạy bén, phát hiện ra xu thế của thị trường hay những kẽ hở thị trường mà mình
có thể len vào được. Do vậy, thị trường phản ánh tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh, ở đó người bán, người
mua, người trung gian gặp nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Chính vì thế tình
hình kinh doanh hàng hoá đều được phản ánh trên thị trường. Nhìn vào thị trường sẽ
thấy được tốc độ, mức độ tham gia vào thị trường của doanh nghiệp cũng như quy mô
của sản xuất kinh doanh.
- Thị trường quyết định lợi nhuận của doanh nghiệp. Thị trường điều tiết, hướng
dẫn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Trong cơ chế thị trường, việc quyết định
sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai không phải do doanh nghiệp tự quyết định theo ý
muốn chủ quan của mình mà phải do nhu cầu của người tiêu dùng. Vì mục đích của
nhà sản xuất kinh doanh là thu lợi nhuận thông qua việc đem bán, kinh doanh những
sản phẩm, dịch vụ mà khách hàng cần chứ không phải kinh doanh cái mà doanh
nghiệp có nên họ luôn cố gắng xác định nhu cầu của khách hàng qua các yếu tố của thị
trường như cung, cầu, giá cả…thị trường luôn tồn tại khách quan, các doanh nghiệp
muốn đạt được thành công đều phải thích ứng cùng với thị trường để đạt được mục
20
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận. Có nhiều cách để gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp
như nâng giá trong điều kiện bán ra không đổi nhưng những cách đó rất khó thực
hiện khi nhiều sản phẩm cạnh tranh nhau trên thị trường. Do đó muốn gia tăng lợi
nhuận thì cách tốt nhất là doanh nghiệp phải tiêu thụ được thêm nhiều hàng hoá, nghĩa
là phải mở rộng được thị trường, thu hút được thêm nhiều khách hàng mua và tiêu
dùng sản phẩm của doanh nghiệp. Hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp có
thể thực hiện theo hai hướng: thâm nhập sâu hơn vào thị trường (mở rộng theo chiều
sâu) hoặc mở rộng và thâm nhập vào thị trường mới (mở rộng theo chiều rộng).
- Mở rộng thị trường giúp doanh nghiệp phát triển ổn định, tăng thị phần nâng
cao vị thế của mình trên thị trường trong nước và trên thế giới. Trong nền kinh tế thị
trường ngày nay, thị trường trong nước, khu vực, và thế giới có nhiều biến động như
hiện nay, các doanh nghiệp trong nước luôn phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh
tầm cỡ trong nước cũng như trên thế giới. Do vậy, muốn tồn tại và phát triển thì các
doanh nghiệp phải không ngừng củng cố và phát triển thị trường của mình. Khi sản
phẩm của doanh nghiệp được nhiều người tiêu dùng lựa chọn thì uy tín của doanh
nghiệp sẽ ngày càng tăng và càng tạo thuận lợi cho sự phát triển doanh nghiệp.
1.3. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp
1.3.1. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Một cuộc suy thoái đều có tác động nhất định tới các lĩnh vực của đời sống, kinh
tế, chính trị, xã hội…. Ảnh hưởng của nó được xét dưới hai mặt trực tiếp và gián tiếp
như sau:
• Ảnh hưởng trực tiếp
Ảnh hưởng trực tiếp dễ nhận thấy nhất của các cuộc suy thoái kinh tế tới hoạt
động tiêu thụ sản phẩm là sự suy giảm của sản lượng sản xuất toàn cầu. Dù khủng
hoảng kinh tế xảy ra do nguyên nhân nào thì tăng trưởng kinh tế thế giới trong thời kì
này đều giảm sút nghiêm trọng. Hầu hết các hoạt động sản xuất đều bị đình trệ, sản
phẩm làm ra không tiêu thụ được, các nhà sản xuất lâm vào tình trạng khó khăn.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng không nằm ngoài những tác động đó, thị
trường tiêu thụ bị thu hẹp, số lượng các đơn đặt hàng giảm mạnh, nguồn vốn bị thâm
hụt nghiêm trọng. Nguyên do sâu xa của việc này là cầu giảm mạnh, sức tiêu dùng của
người dân giảm sút trầm trọng. Điều này dễ hiểu bởi trong giai đoạn suy thoái các
Chính phủ, Quốc gia thắt chặt chi tiêu dẫn tới việc tiêu dùng của người dân cũng giảm
sút theo. Họ chỉ chi cho các khoản nhu yếu phẩm là chủ yếu. Chính bởi lí do đó, hoạt
động tiêu thụ cùng như nhiều hoạt động sản xuất khác trong thời kì này đều bị ảnh
hưởng nghiêm trọng.
21
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
• Ảnh hưởng gián tiếp
Ngoài ảnh hưởng trực tiếp nêu trên, hoạt động tiêu thụ sản phẩm còn bị tác động
bởi các yếu tố gián tiếp như nhu cầu tiêu thụ, tỷ giá hối đoái, giá cả hàng hóa và đầu tư
Trước hết, do tác động của cuộc khủng hoảng, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu
khiến cầu tiêu dùng giảm mạnh. Họ cắt giảm các khoản chỉ không cần thiết, chỉ chi
cho các khoản thiết yếu. Do đó, đầu ra của hoạt động tiêu thụ sản phẩm bị ngưng trệ,
khó khăn là điều tất yếu.
Thứ hai, sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường cũng tác động tiêu cực
đến tiêu thụ hàng hóa. Cán cân thanh toàn quốc gia bị thâm hụt nặng nề khiến tiền bị
mất giá, các doanh nghiệp dù bán được hàng nhưng cũng bị rơi vào tình trạng lãi giả lỗ
thực. Đồng tiền các quốc gia mất giá trầm trọng. Các khoản thu từ hoạt động tiêu thụ
sản phẩm có được thì tính ra cũng không bù đắp được khoản mà doanh nghiệp đã bỏ ra.
Thứ ba, do sức ép của hàng hóa bị tồn đọng nhiều khiến cho giá cả hàng hóa hạ
thấp xuống mức thấp nhất có thể. Thường thì các doanh nghiệp không thể có lượng
hàng đáp ứng tức thì của các đơn đặt hàng, chính vì vậy nên họ phải trữ hàng. Và thời
điểm trữ hàng thì họ mua nó với giá khác nhưng khi bán đi thì trong giai đoạn suy
thoái hầu hết các mặt hàng đều bị hạ giá. Tình cảnh này khiến cho nhà sản xuất bán
được hàng nhưng cũng không có lãi thậm chí là lỗ.
Tác động cuối cùng là đầu tư: hoạt động tiêu thụ sản phẩm nhiều khi phụ thuộc
vào nguồn vốn của những nhà tài trợ. Khi gặp khó khăn, trong khi hoạt động kinh
doanh cần thêm vốn thì các nhà đầu tư lại tìm mọi cách để rút vốn về vì chính họ cũng
đang gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của họ. Việc này dẫn đến việc các
doanh nghiệp thiếu vốn để tái sản xuất kinh doanh, bù đắp những khoản lỗ do suy
thoái. Trong giai đoạn này, sự đình trệ, phá sản của hoạt động tiêu thụ sản phẩm là
điều khó tránh khỏi nếu không có các biện pháp thích hợp và linh hoạt.
Tóm lại, khi toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ thì việc tiêu thụ sản phẩm vào thị
trường càng trở nên dễ dàng hơn nhưng những ảnh hưởng của nó ngược lại cũng
không nhỏ. Một khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã xảy ra thì chính hoạt động tiêu
thụ sản phẩm phải gánh chịu tác động nặng nề nhất.
1.3.2. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ trong nước
Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, sức mua của khu vực tư nhân giảm, nhà nước
cũng cắt giảm chi tiêu, khiến thị trường của doanh nghiệp ngày càng thu hẹp. Người
dân giảm bớt nhu cầu tiêu dùng hàng hóa cũng như nhu cầu đầu tư do mất niềm tin, và
hậu quả là tổng cầu giảm sút; tồn kho của nền kinh tế tăng cao, các doanh nghiệp
không tiêu thụ được đầu ra, hoạt động kinh doanh bị ngưng trệ. Đối với vấn đề này,
doanh nghiệp cần áp dụng các chính sách đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị
trường để duy trì sản lượng tiêu thụ.
22
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Tình hình trong nước cũng sẽ bị thu hẹp do suy thoái kinh tế. Hầu hết nguyên
nhân của sự thu hẹp và sụt giảm này chính là do cầu tiêu dùng giảm mạnh. Điều này
suất phát từ hai hướng: cầu tư nhân và cầu của chính phủ.
Thứ nhất: cầu của đầu tư và tiêu dùng tư nhân
Do suy thoái các doanh nghiệp trong nước đều gặp khó khăn từ quá trình vốn sản
xuất tới khâu chuẩn bị nguyên vật liệu. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhỏ yếu
đều bị phá sản, các doanh nghiệp còn bám trụ lại thì chỉ sản xuất cầm chừng do đó mà
nhu cầu về nguồn hàng là các nguyên vật liệu bị giảm sút. Lượng đầu tư vốn bị hạn
hẹp, chính vì vậy mà khó mở rộng thị trường vì không có chi phí, cho nên thị trường
tiêu thụ bị ảnh hưởng rất nặng nề từ suy thoái kinh tế.
Thứ hai: hướng cầu nữa cũng giảm mạnh do suy thoái kinh tế là lĩnh vực đầu tư
của chính phủ. Theo số liệu thống kê hiện nay thì cơ cấu tổng cầu trong đó phần trăm
của đầu tư công đang giảm dần do tác động của suy thoái kinh tế, dẫn đến chính phủ sẽ
cắt giảm chi tiêu và từ đó thị phần của doanh nghiệp sẽ giảm mạnh. Từ đó thị trường
tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ bị suy giảm trầm trọng.
Tóm lại, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế làm cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, kinh doanh không tốt, một số đối tác xóa bỏ hợp
đồng. Chính vì lí do đó đã tác động mạnh mẽ tới thị trường tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp, thị trường tiêu thụ bị hạn hẹp lại, quy mô phân bố không được đồng
nhất. Ảnh hưởng của suy thoái đến thị trường tiêu thụ là rất lớn, đó là tiên đề để đánh
giá sự thành công hay không thành công của một doanh nghiệp.
1.3.3. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến doanh thu, chi phí và lợi nhuận
Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến doanh thu
Khi mà doanh số bán hàng giảm, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp tất yếu sẽ dẫn đến
tổng doanh thu của doanh nghiệp sẽ giảm, điều này tác động trực tiếp đến quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp, hiện tại cũng như tương lai của doanh nghiệp
Suy thoái kinh tế là cho GDP giảm dẫn tới thu nhập bình quân đầu người giảm
theo, công nhân sa thải, đời sống cũng như thu nhập của người tiêu dùng giảm mạnh,
do đó họ sẽ thắt chặt chi tiêu, cầu giảm dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp sẽ bị
giảm.
Khi cầu giảm hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được làm cho hàng loạt các
công ty, nhà máy bị ngừng hoạt động hay sản xuất cầm chừng, sản xuất với quy mô
nhỏ, do đó doanh thu cũng bị giảm theo.
Suy thoái kinh tế tác động tới tất cả các doanh nghiệp, đo đó thị trường đầu ra nói
chung đều bị hạn chế. Các doanh nghiệp và cá nhân người tiêu dùng đều thắt chặt chi
tiêu đo đó doanh thu sẽ bị giảm mạnh kể cả đối với các mặt hàng nhu yếu phẩm hàng
ngày.
Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến chi phí:
23
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
Từ khái niệm cho thấy các thời kì suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm
phát), hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kì định lạm.
Giá cả một số mặt hàng tăng do sản xuất đình đốn sản lượng giảm, nguồn thu
thấp trong khi các chi phí cố định như thue mặt bằng, các tài sản đi thuê, giá điện
xăng…. Có xu hướng tăng do đó để bù đắp chi phí thì giá cả sản phẩm sẽ tăng lên.
Tuy nhiên không phải tất cả các mặt hàng đầu vào đều tăng giá, một lý luận là
khi tình hình kinh tế khó khăn trong thời kì suy thoái thì tiêu thụ sẽ giảm xuống do nhu
cầu tiêu dùng giảm, các doanh nghiệp bị ứ đọng hàng tồn kho do đó giá sẽ được bán ra
rẻ hơn để kích cầu và để bán được hàng.
Các loại chi phí cho sản xuất như giá nhân công, giá thuê mặt bằng kinh doanh,
giá các dịch vụ liên quan…. Cũng có xu hướng giảm. khi sản xuất và tiêu thụ khó
khăn thì hầu hết các công ty đều chọn cho mình một con đường đi chung đó là cắt
giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất, giảm giá thành….do đó, các chi phí cho nhân
công được giảm bớt bằng cách sa thải, cắt giảm nhân công, tăng ca, giờ làm việc, đồng
thời giảm giá thành sản phẩm dịch vụ. Thậm chí là sản xuất kinh doanh ở mức cầm
chừng.
Nếu suy thoái kinh tế xuất phát từ nguyên nhân tổng cung tăng sẽ dẫn đến sự sụt
giảm lượng và đẩy giá lên cao. Đặc biệt là ngành máy uốn sắt nghệ thuật khá nhiều
khó khăn khi giá nhập khẩu các nguyên phụ liệu tăng. Trong khi để duy trì sản lượng
bán, doanh nghiệp có thể tăng giá khi sức mua ngày càng sụt giảm.
Bên cạnh đó giá điện, giá xăng dầu, giá nhập khẩu máy móc…đều tăng khiến chi
phí hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng tăng nhanh hơn giá thành sản phẩm, làm cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không hiệu quả.
Giải quyết vấn đề chi phí thực sự là bài toán hóc bua với doanh nghiệp, các
doanh nghiệp thường chọn ra giải pháp thay đổi cơ cấu sản xuất, cắt giảm các chi phí
có thể để tập trung vào mục tiêu duy trì lợi nhuận.
Nếu suy thoái kinh tế xuất phát từ nguyên nhân tổng cầu giảm sẽ làm giảm giá
thành, tuy không phải luôn dẫn đến tăng chi phí nhưng lúc này nếu giá các yếu tố đầu
vào chỉ giảm ít thì doanh nghiệp phải đứng trước lựa chọn có nên giảm giá sản phẩm
đầu ra hay không và phải giảm bao nhiêu để vẫn đảm bảo tính cạnh tranh cho sản
phẩm.
Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến lợi nhuận.
Lợi nhuận thì bằng khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra. Vì vậy hai
yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận chính là doanh thu và chi phí.
Khi bị tác động của suy thoái kinh tế khiến cho giá các yếu tố đầu vào tăng cao,
từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuât hay giá thành sản phẩm đầu ra. Giá
thành sản phẩm, dịch vụ đầu ra tăng lên làm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ, khả năng
24
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Kinh tế - luật
làm giảm doanh thu tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ là rất lớn. Lạm phát làm cho giá trị thực
của các tài sản khấu hao nhiều hơn, phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cao hơn
khiến lợi nhuận giảm sút.
Như vậy là khi bị tác động của suy thoái kinh tế thì chi phí sản xuất, chi phí cho
các yếu tố đầu vào thì tăng lên trong khi doanh thu không tăng hoặc tốc độ tăng không
bằng với tốc độ tăng của chi phí bỏ ra dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp giảm
xuống.
Cũng như các phân tích trên thì khi suy thoái kinh tế làm cho doanh thu giảm do
đó lợi nhuận cũng giảm theo. Một mặt khác nữa là khi chi phí cho các nguyên vật liệu
đầu vào, chi phí cho bảo quản hàng tồn kho tăng cũng dẫn tới lợi nhuận giảm.
Mặt khác do sức ép của hàng tồn kho nhiều khiến cho giá cả hạ xuống mức thấp
nhất có thể. Thường thì các doanh nghiệp không đủ hàng để đáp ứng các đơn hàng tức
thì nên họ phải dự trữ hàng. Và thời điểm trữ hàng thì họ mua với giá khác, nhưng khi
bán đi thì trong giai đoạn suy thoái hầu hết các mặt hàng đều bị hạ giá. Tình cảnh này
khiến cho doanh nghiệp không có lãi, thậm chí còn bị lỗ.
Tóm lại, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đã tác động rất mạnh mẽ hoạt động tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp. để từ đó thị trường tiêu thụ cũng bị tác động không
nhỏ. Quy mô hay mở rộng thị trường không phát triển, không đồng đều, uy tín bị suy
giảm dẫn đến doanh thu, chi phí và lợi nhuận của công ty giảm sút một cách trầm
trọng và cần phải tìm ra những cách giải hợp lý nhất để hoạt động của doanh nghiệp
phát triển tốt.
25
GVHD: ThS. Lê Mai Trang SVTH: Nguyễn Thị Lĩnh