Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

luận văn kỹ thuật môi trường Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường đối với ngành thuỷ sản.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.67 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
Chương I. Thực trạng phát triển ngành thủy sản và các vấn đề môi trường.
1. Thực trạng phát triển ngành thủy sản
2. Các vấn đề môi trường trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
3. Mục tiêu phát triển ngành thuỷ sản và dự báo các vấn đề môi trường chính
Chương II. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với
ngành thuỷ sản.
1. Các quy định về môi trường trong hệ thống pháp luật liên quan đến nuôi
trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản.
2. Các quy định của Luật và hệ thống các văn bản dưới Luật BVMT đối với
lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản.
3. Phân tích tính thống nhất, mối quan hệ của các quy định này với các quy
định của Luật bảo vệ môi trường và hệ thống các văn bản dưới luật bảo vệ
môi trường.
Chương III. Tổ chức thực hiện luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm về bảo vệ môi trường trong
ngành thủy sản.
2. Thực trạng tuân thủ Luật bảo vệ môi trường trong khai thác, nuôi trồng và
chế biến thủy sản.
Chương IV. Kiến nghị hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi
trường ngành thuỷ sản.
1. Hoàn thiện pháp luật về ngành thuỷ sản theo hướng lồng ghép các quy
phạm về bảo vệ môi trường
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường
đối với ngành thuỷ sản.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Mở đầu
Thời gian qua, cùng với sự tăng tốc của nền kinh tế, ngành thủy sản


cũng đã phát triển mạnh trên các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế biến.
Những thành công trên đã nâng cao vị thế của ngành trong nền kinh tế quốc
dân, dần trở thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu chủ chốt của nước ta
trong thời gian tới. Tuy nhiên, mặt trái của nó là tác động tiêu cực đến môi
trường đang để lại hậu quả lớn cho môi trường và con người.
Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã
thông qua Luật bảo vệ môi trường. Cũng như các bộ/ngành khác trong cả
nước, ngành thủy sản cũng đã tích cực triển khai thực hiện Luật bảo vệ môi
trường. Các kết quả đạt được đã góp phần giảm bớt các tác động nhiều mặt
của các hoạt động nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản đến môi trường
và con người. Để có bức tranh tổng quan về thực trạng thi hành Luật bảo vệ
môi trường trong ngành thủy sản, nhiệm vụ "Đánh giá việc thực hiện Luật bảo
vệ môi trường trong ngành thủy sản và đề xuất hướng hoàn thiện trong thời
gian tới" đặt ra nội dung nghiên cứu các vấn đề môi trường trong các lĩnh vực
nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản, tình hình thực hiện Luật bảo vệ
môi trường trong ngành và hướng hoàn thiện trong thời gian tới. Báo cáo tổng
kết nhiệm vụ gồm các nội dung sau:
1. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản và các vấn đề môi trường.
2. Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với
ngành thủy sản.
3. Tổ chức thực hiện Luật bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản.
4. Kiến nghị hướng bổ sung, hoàn thiện pháp luật về Bảo vệ môi trường
ngành thủy sản.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhóm nghiên cứu đã nhận được sự
giúp đỡ và tạo điều kiện của Vụ Khoa học và công nghệ, Viện nghiên cứu
kinh tế và quy hoạch thủy sản (Bộ Thủy sản), các bạn đồng nghiệp trong Cục
Môi trường. Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ và hỗ
trợ kịp thời đó.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do hạn chế về mặt thời gian và nguồn
lực tổ chức thực hiện, báo cáo chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết và hạn chế.

Rất mong nhận được ý kiến góp ý để báo cáo được hoàn thiện hơn.
Chương I.
Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản và các vấn đề môi trường.
1. Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản
Thời gian qua, nhờ có các chủ trương và biện pháp lớn phù hợp với cơ
chế thị trường, ngành thủy sản phát triển mạnh trên tất cả các lĩnh vực nuôi
trồng, khai thác và chế biến, đã và đang đóng góp tích cực cho nền kinh tế
quốc dân.
1.1. Nuôi trồng thủy sản
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành thuỷ sản, nuôi
trồng thủy sản (NTTS) ở nước ta có bước tiến khá dài với mức tăng bình quân
hàng năm 4 - 5% về diện tích nuôi trồng và hơn 9% về sản lượng. Đến hết
năm 1998, đã có 626.330 ha mặt nước được đưa vào sử dụng NTTS, trong đó
335,890 ha mặt nước ngọt (ao, hồ, hồ chứa, ruộng trũng) và 290.440ha mặt
nước lợ, mặn (vùng triều, eo vinh, đầm phá ven biển) với nhiều đối tượng
nuôi phong phú như tôm cá nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nuôi lồng trên
sông, ngoài biển, nuôi trong đầm nước lợ, rừng ngập mặn, đem lại sản lượng
537.870 tấn, chiếm 32% tổng sản lượng thủy sản cả nước. Bên cạnh đó, với
354 trại cá giống sản xuất khoảng 7 tỉ cá bột, về cơ bản đã cung cấp đủ giống
nhân tạo thoả mãn nhu cầu giống nuôi ở các loại hình mặt nước và các vùng
sinh thái khác nhau. Trong quá trình bước đầu chuyển sang phương thức nuôi
bán thâm canh và thâm canh đã quan tâm đến việc chế biến và sử dụng thức
ăn công nghiệp. Với 24 cơ sở sản xuất thức ăn, năm 1998 đã sản xuất 20.000
tấn thức ăn nuôi tôm cá, đáp ứng một phần nhu cầu của các khu vực nuôi
trồng thủy sản.
Thực hiện Nghị quyết 09/2000/NQ-CP của Chính phủ về một số chủ
trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp, nhân dân ở hầu khắp các tỉnh ven biển đã tiến hành chuyển đổi vùng
đất nhiễm mặn trồng lúa, trồng cói, làm muối hiệu quả thấp sang nuôi trồng
thủy sản, mà chủ yếu là nuôi tôm. Năm 2001, tổng diện tích chuyển đổi ở

vùng ven biển đã lên tới trên 220 nghìn hecta, trong đó riêng Cà Mau đã có
tới hơn 132 nghìn ha. Diện tích chuyển đổi này đã góp phần quan trọng trong
số xấp xỉ 60 nghìn tấn tôm nuôi tăng thêm, nâng tổng sản lượng tôm nuôi lên
gần 160 nghìn tấn, cao gấp rưỡi so với năm 2000. Đặc biệt, mô hình nuôi luân
canh tôm lúa đã đem lại hiệu quả cao và bền vững ở các tỉnh vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Trong các vùng nước ngọt, tuy không sôi động như vùng ven
biển nhưng quá trình chuyển dịch cũng diễn ra với qui mô không kém, với
việc sử dụng các diện tích mặt nước hồ chứa, sông, ao hồ nhỏ, ruộng lúa để
nuôi tôm càng xanh, cá chim trắng và nhiều loài cá có giá trị cao khác nhau.
Không những góp phần quan trọng tạo sản phẩm xuất khẩu, nuôi trồng thủy
sản đã có đóng góp to lớn cho cải thiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
1.2. Chế biến thủy sản.
Trước năm 1975 công nghiệp chế biến thủy sản ở nước ta phát triển
chậm, chủ yếu tập trung vào các sản phẩm truyền thống như các loại sản
phẩm khô, mắm và nước mắm. Toàn miền Bắc chỉ có nhà máy đồ hộp Hạ
Long (thành lập năm 1957) là cơ sở chế biến thủy sản công nghiệp phục vụ
chủ yếu cho thị trường nội địa và một số Ýt nhà máy ở miền Nam chế biến
thủy sản đông lạnh.
Sau năm 1975, ở các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang đã
được đầu tư, xây dựng thêm một số cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh bằng
nguồn vốn ngân sách và viện trợ không hoàn lại. Đến năm 1980 đã xây dựng
thêm 16 xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh, đưa tổng số nhà máy chế biến
thủy sản trong cả nước lên 40 với tổng cộng cấp đông là 172T/ngày.
Đến cuối năm 1990, số cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh đạt tới con sè
102 cơ sở với tổng sản lượng đông lạnh là 60.200T. Ngoài ra, các cơ sở chế
biến nước mắm, chế biến hàng khô, bột cá cũng phát triển mạnh. Cả nước có
73 cơ sở chế biến nước mắm quốc doanh và hàng chục cơ sở chế biến tư nhân
với công suất khoảng 105 triệu lít/năm. Sản lượng bột cá chế biến hàng năm
trên 10.000tấn. Sản lượng thủy sản khô các loại trong năm 1990 khoảng
7.700T.

Từ năm 1991 đến nay, công nghiệp chế biến thủy sản phát triển vượt
bậc không chỉ số lượng mà cả về chất lượng. Nhờ sự giúp đỡ, tư vấn của các
chuyên gia dự án US/VIE.9./058 và dự án Cải thiện chất lượng và xuất khẩu
do DANIDA tài trợ, các xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh đã từng bước
nâng cấp điều kiện sản xuất và xây dựng chương trình quản lý sản xuất theo
HACCP để sản xuất các sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh và có chất lượng
nhiều xí nghiệp được xây mới, cải tạo. Đến cuối năm 1998 đã có 186 xí
nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu với sản lượng sản phẩm thủy
sản đông lạnh đạt khoảng 150.000T/năm; sản phẩm khô là 15.000T; nước
mắm 170 triệu lít và 9.000T bột cá. Ngoài công ty Cổ phần đồ hộp Hạ Long,
chóng ta đã xây thêm 2 cơ sở sản xuất đồ hộp ở Kiên Giang và Thành phố Hồ
Chí Minh, đưa khối lượng sản phẩm đồ hộp năm 1998 lên 3.480T.
1.3. Khai thác thủy sản
Trong khoảng 15 năm trở lại đây, sản lượng khai thác thủy sản của
Việt Nam đã tăng trưởng liên tục với mức bình quân năm là 6,9%. Lao động
trực tiếp khai thác hải sản cũng tăng và đạt gần 627.000 lao động (1997). Tuy
nhiên sản lượng cá khai thác ở vùng gần bờ chiếm tỷ lệ chủ yếu (trên 800.000
tấn, khoảng 80% tổng sản lượng cá đã khai thác được). Hiện tại mức khai thác
ở vùng này chỉ cho phép đạt 700.000tấn. Trong khi đó tiềm năng nguồn lợi
vùng biển xa bờ còn Ýt được khai thác, năng suất lao động thấp, tăng trưởng
về sản lượng khai thác chậm hơn so với tăng số lượng tàu thuyền và công suất
máy.
Đội tàu khai thác cá biển có trang bị động lực của Việt Nam hiện nay
đã lên đến 71.500 chiếc, với tổng công suất máy 1.850.000CV. Nhưng phần
lớn tàu thuyền có công suất máy nhỏ, loại lắp máy trên 90 CV chỉ chiếm 25%.
Do đó rất hạn chế đi khai thác cá vùng biển xa bê.
Phần lớn tàu thuyền khai thác hải sản đều kiêm nghề. Ở phía Bắc có số
tàu thuyền khai thác cá đáy chiếm khoảng 35%, cá tầng khoảng 65%. Trong
khi đó, số lượng tàu thuyền nói trên ở miền Trung phân biệt là 28% và 72%,
còn ở Nam Bộ tỷ lệ đó bằng nhau.

Những năm gần đây, được Chính phủ cho phép, Bộ Thủy sản đang thực
hiện chương trình khai thác cá xa bờ, số tàu thuyền có công suất máy lớn đã
tăng lên. Trong tổng sản lượng hải sản 1,35 triệu tấn khai thác năm 2001, đã
có 456 nghìn tấn được đánh bắt trong vùng biển xa bờ, chiếm 33% tổng số,
trong đó sản phẩm làm nguyên liệu xuất khẩu chiếm 30%. Đó chính là kết quả
hoạt động của đội tàu cá xa bờ chỉ chiếm khoảng 26% tổng số tàu.
Năm 2001 cũng là lần đầu Việt Nam thử nghiệm thuê tàu trần và
chuyên gia của nước ngoài để tham gia khai thác trên biển. Và mặc dù còn rất
nhỏ bé, một đội tàu cá đầu tiên của Việt Nam đã lên đường đi khai thác ở
vùng biển nước ngoài theo thoả thuận song phương, rút kinh nghiệm để mở
hoạt động cho những năm sau.
1.4. Đánh giá chung
Những thành tựu trong hoạt động khai thác và nuôi trồng, cộng với sự
chuyển mình mạnh mẽ của các doanh nghiệp chế biến thủy sản đã tạo nên
thành tích to lớn trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, đạt giá trị 1,7 tỷ
USD/năm, chiếm gần 40% kim ngạch xuất khẩu của cả khối nông nghiệp và
trên 12% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, đứng thứ 3 sau ngành dầu khí và
dệt may.
Bên cạnh các kết quả trên, quá trình liên hợp hóa, hợp tác hoá trong lực
lượng sản xuất như đòi hỏi của tự thân nó trong sự phát triển cũng đang diễn
ra với nhịp độ nhanh chóng, với nhiều cấp độ, qui mô và hình thức. Đến nay,
trong khai thác hải sản đã có 450 hợp tác xã (trên 15 nghìn lao động) và 4.300
tổ hợp với khoảng 21 nghìn lao động. Trong nuôi trồng thuỷ sản đã có 34
HTX và trên 3.400 tổ hợp. Các HTX và tổ hợp đã đóng góp vai trò tích cực
trong các khâu tổ chức sản xuất, dịch vụ nguyên nhiên liệu, song đó là những
nhân tố cần thiết trên con đường phát triển lực lượng sản xuất theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
Một sè con số của năm 2001:
- Tổng sản lượng: 2.226.900T
- Sản lượng khai thác: 1.347.800T

- Sản lượng nuôi và khai thác nội địa: 879.100T
- Diện tích mặt nước sử dụng để nuôi thủy sản: 887.500 ha
- Kim ngạch xuất khẩu: 1,7 tỷ USD
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: 5.013 tỷ đồng
- Nộp ngân sách nhà nước: 1.350 tỷ đồng
2. Các vấn đề môi trường trong nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy
sản.
2.1. Trong nuôi trồng thủy sản
Bên cạnh phát triển mạnh, nuôi trồng thủy sản của Việt Nam bộc lộ
nhiều vấn đề bất cập liên quan đến các điều kiện môi trường và kinh tế - xã
hội trong phạm vi từng vùng, từng tỉnh, cũng như trong các hệ sinh thái đặc
thù. Việc thiếu qui hoạch một số loại hình nuôi trồng thủy sản đã gây hại đến
môi trường, đặc biệt ở các vùng ven biển, như chặt cây của rừng ngập mặn và
xây dựng đê ở các vùng triều để nuôi tôm quảng canh, thiếu các công trình kỹ
thuật cần thiết để làm thoái hoá môi trường, sinh thái vùng ven biển, làm giảm
năng suất sinh học của thủy vực, giảm lượng thức ăn tự nhiên, phá hoại các
điều kiện tự nhiên thích hợp cho sự phát triển của Êu thể thuỷ sản khác nhau.
Một số tác động chính đến môi trường có thể thống kê như sau:
- Việc phá các rừng ngập mặn hoặc đắp bờ khoanh vùng rừng ngập
mặn để nuôi tôm quảng canh thô sơ đã gây ra những tác động có hại đến tài
nguyên và môi trường.
Hầu hết các đầm nuôi ven biển phía Bắc Việt Nam là rừng ngập mặn có
nhiều loài cây, nhiều xác cây, lá và các bộ phận khác của cây. Các đầm nuôi
chỉ sử dụng được một thời gian ngắn, sản lượng cá tôm chỉ đạt trung bình 80
- 100kg/ha/năm. Sau vài năm đất trong đầm thoái hoá phải bỏ hoang, gây ra
lãng phí rất lớn về tài nguyên thiên nhiên. Khi xây dựng các đầm người ta
thường phá thảm thực vật ở trong đầm, có khi phá cả các cây ở ngoài bờ đầm,
do đó mất hàng rào bảo vệ chống xói lở đã làm mất nơi ở, nơi cung cấp thức
ăn cho nhiều loài hải sản và nhiều sinh vật khác là thức ăn của chúng.
- Quá trình ôxy hoá trầm tích và hình thành môi trường chua mặn trong

các đầm nuôi. Ở một số đầm chất lượng đất và nước còn tương đối tốt, nhưng
do mặt bờ và sườn bờ không có cỏ, cây trao đổi nước làm cho độ pH giảm
nhanh. Nhiều động vật trong đầm không thích nghi kịp nên bị sốc và chết.
Ở trong các đầm có nhiều chất hữu cơ, chúng phát triển rất mạnh tạo
thành lớp tảo bám ở đáy cản trở hoạt động của tôm, tiêu hao nhiều O2 vào
ban đêm. Khi chúng chết, bị phân hủy yếm khí tạo ra H
2
S trong đầm gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II còng
cho thấy các đầm nuôi tôm quang cảnh thô sơ ở Bến Tre qua một số năm sử
dụng, môi trường đã thoái hoá rõ rệt. Nhiệt độ nước trong đầm nuôi tôm
thường khá cao (có khi tới 36 - 37
0
C) do mất đi độ che phủ của cây rừng. Phù
sa bồi lắng làm mương tôm rất cạn (0,3 - 0,5m) độ đục khá cao (5 - 15cm),
hạn chế sự phát triển của tảo và thuỷ sản sinh vật.
- Tác động của việc xây dựng các đầm nuôi tôm quang cảnh đến sự
xâm nhập mặn. Trong những năm gần đây, việc đắp bờ xây dựng hàng loạt
các đầm tôm lớn dọc bờ biển của sông và ven sông đã làm giảm đáng kể diện
tích phân phối nước triều, nhất là vào thời kỳ triều cường.
Một số địa phương trước đây đã quai đê để trồng lúa nhưng do đất chua
mặn, năng suất thấp đã chuyển một phần diện tích sang nuôi tôm, cua, cá
nước lợ ở trong đê như Uông Bí, Yên Hưng (Quảng Ninh), Kiến Thụy, Tiên
Lãng (Hải Phòng). Nhưng do không quan tâm đến việc ngăn chặn suy thoái
môi trường nên năng suất thủy sản giảm. Một số sinh vật chết dần khiến cho
quá trình khoáng hoá các phần hữu cơ bón cho lúa bị cản trở hoặc hạn chế.
- Tác động của việc đắp các đầm tôm quảng canh đến quá trình xói lở
ven biển, ven sông. Bên cạnh việc quai đê lấn biển lấy đất trồng lúa, việc đắp
đê để nuôi tôm đã lấp các nhanh sông nhỏ đổ ra biển, khiến cho đất phù sa bồi

tụ dồn vào cửa sông lớn của hệ sông Hồng hoặc ứ đọng phía trong đê. Ở các
cửa sông nhỏ, không còn đất bồi nên bị sóng làm xói lở mạnh. Điển hình là
đoạn bờ dọc từ Giao Hải đến Văn Lý (tỉnh Nam Hà). Trên một đoàn bờ biển
dài 20km không còn bãi triều lầy và đang bị xói lở mạnh. Cách đây khoảng
gần một thế kỷ, một nhánh cửa sông Hóòng đã đổ ra đây, nhưng nay chỉ còn
một nhánh sông Sò với dòng chảy yếu ớt.
Một số nơi nhân dân lại sử dụng các vùng đất bồi lắng đang trong quá
trình hình thành bãi triều có rừng ngập mặn để đắp đầm nuôi tôm (Thái Thụy,
Tiền Hải, Xuân Thủy, Kim Sơn, Nam Hoàng Hóa, Nam cửa Lạch ghép). Do
tác động của gió, bão nên nhiều đầm bị vỡ hoặc bị xói lở vì nền đáy là bùn
non, thành phần cơ giới thường là cá bột, cát nhỏ thiếu chất dính kết, gây ra
lãng phí lớn.
- Tác động của việc nuôi tôm, cá đến sự ô nhiễm nguồn nước. So với
các ngành công nghiệp, nông nghiệp thì sự ô nhiễm môi trường nước do nuôi
tôm, cá quảng canh thô sơ như hiện nay không lớn. Tuy nhiên do nhốt lâu
ngày trong đầm, thay nước Ýt nên môi trường trong đầm bị ô nhiễm mạnh do
sự hình thành H
2
S và NH
4
phân hủy các xác cây bị ngập mặn. Một hiện tượng
khá phổ biến trong các đầm nuôi tôm quảng canh thô sơ ở cả miền Bắc và
miền Nam là có nhiều tảo dao động như oscillatoria subbervis, O.limota. Các
loài tảo này thường phát triển thành lớp nhờn dày, màu lục, chúng chết sẽ làm
cho nước trong đầm bị thối, lượng ôxy hoà tan giảm, làm cho chất lượng đầm
thoái hoá nhanh. Khi tháo đầm đánh bắt tôm cá, nước có tác chất độc hại trên
chảy ra sông rạch làm ô nhiễm vùng xunh quanh.
Ở một số địa phương, nhất là ở ven biển Nam Bé, trong những năm gần
đây người nuôi tôm đã quan tâm đến việc diệt cá trong các đầm nuôi. Thuốc
diệt cá chủ yếu là cây ruốc cá hoặc bã chè. Thường người ta rắc nước thuốc

vào đầm cho cá chết và để cho cá chết thối làm thức ăn cho tôm. Do vậy nước
trong đầm bị ô nhiễm nặng và ảnh hưởng đến các đầm lân cận và kênh rạch,
tiêu diệt nhiều sinh vật ở đó. Không những thế mùi hôi thối nồng nặc đã ảnh
hưởng đến sức khoẻ của con người.
- Tác động của việc nuôi tôm tới môi trường và sinh thái vùng biển.
Chỉ tính riêng Quảng Ninh với 10.286 ha đầm nuôi tôm được xây dựng đã
làm giảm tới 40% tổng diện tích vùng triều giảm 43% diện tích rừng ngập
mặn. Các địa phương khác cũng có hiện tượng tương tự.
Việc đắp bờ đầm, nhất là những đầm nằm sâu trong sông đã ảnh hưởng
tới việc lưu thông nước của thủy lực, nhất là về mùa mưa, gây ảnh hưởng tới
nông nghiệp và giao thông đường thủy.
2.2. Trong chế biến thủy sản.
Tác động môi trường của ngành chế biến thủy sản thể hiện từ góc độ
chất thải là chính, trong đó nước thải đang là vấn đề lớn nhất. Ở Việt Nam, do
không chú trọng đến môi trường ngay từ khâu thiết kế và xây dựng cơ sở hạ
tầng, nên nhiều cơ sở chế biến thủy sản gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến môi trường, sinh vật và cộng đồng xung quanh. Một số
khía cạnh môi trường đặc trưng của ngành chế biến thủy sản có thể kể đến
như sau:
a. Nước thải
Nước thải chế biến thủy sản đặc trưng bởi các thông số ô nhiễm như
màu, mùi, chất rắn không hoà tan, chất rắn lơ lửng, các vi sinh vật, chỉ số
BOD, COD, pH, nhiệt độ v.v
Màu trong nước thải thủy sản do các chất hữu cơ bị phân rã; một số
chất ở dạng keo và dạng hoà tan.
Trong nước thải từ các cơ sở chế biến thủy sản có chứa các chất rắn
không hoà tan; các mảnh vụn thủy sản do quá trình chế biến tạo ra như:
xương cá, vẩy, đầu tôm các chất này gây cản trở cho quá trình xử lý, vì vậy
cần tách, lắng chúng trước khi đưa nước thải vào các hệ thống xử lý sinh học.
Trong nước thải thủy sản có rất nhiều loại vi sinh vật, các vi sinh vật

này có sẵn trong nguyên liệu thủy sản (ruột, da, mang) hoặc từ môi trường
bên ngoài. Nhóm vi sinh vật chỉ thị Colifrom và Ecoli được sử dụng để xác
định vi khuẩn gây bệnh đường ruột trong nước.
Chỉ sè BOD (Biochemical oxygen Demand) là hàm lượng ôxy hoà tan
(thể hiện bằng gam hoặc miligam ôxy theo đơn vị thể tích) phản ánh được
lượng các chất hữu cơ dễ bị phân huỷ trong mẫu nước.
Chỉ sè COD (Chemical Oxygen Demand) là lượng ôxy hoá học (thể
hiện bằng găm hoặc miligam theo đơn vị thể tích) cần thiết để ôxy hoá chất
hữu cơ. COD thể hiện toàn bộ các chất hữu cơ có thể bị ôxy hoá bằng tác
nhân hoá học.
Giá trị pH ảnh hưởng lớn đến hoạt động của vi sinh vật. Đối với đa số
vi sinh vật khoảng pH tối ưu là 6,5 - 8,5.
Chỉ sè SS (Suspended Solid) biểu diễn hàm lượng chất rắn lơ lửng
trong một đơn vị thể tích.
Nhiệt độ nước thải ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoạt động của vi
sinh vật. Đối với đa số vi sinh vật, nhiệt độ tối ưu khoảng 20
0
C - 37
0
C.
Ngoài ra trong nước thải thủy sản còn nhiều hợp chất nitơ, sunfat và
phốt phát.
Thực trạng nước thải của một số loại hình chế biến thủy sản đặc trưng
như sau:
Nước thải trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh, hàng
khô gồm 3 loại: nước thải trong quá trình sản xuất, nước thải trong vệ sinh
công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Ngoài ra kể đến nước mưa, nước thải từ
bộ phận sản xuất nước đá.
Nước thải trong quá trình sản xuất bao gồm: nước rửa nguyên liệu,
nước rửa bán thành phẩm và nước làm mát sản phẩm sau khi luộc (đối với các

xí nghiệp sản xuất sản phẩm chín đông lạnh, cá cơm khô và tôm khô). Tùy
từng công đoạn mà thành phần nước thải có khác nhau. Nước thải này bao
gồm máu, nhớt, thịt vụn, tạp chất, với hàm lượng chất hữu cơ cao, mức độ ô
nhiễm cao nên cần thiết có biện pháp xử lý kịp thời.
Nước thải vệ sinh công nghiệp: Đây là lượng nước cần dùng cho việc
vệ sinh nhà xưởng, các thiết bị, vệ sinh kho lạnh, thiết bị cấp đông. Nước thải
này bao gồm các chất hữu cơ giàu đạm của nguyên liệu thủy sản và các hoá
chất tảy rửa được sử dụng.
Nước thải sinh hoạt từ các nguồn: nước thải từ khu nhà ăn tập thể: nước
thải từ khu nhà tắm, nhà vệ sinh công cộng; nước rửa tay của công nhân. Đây
cũng là lượng nước thải đáng kể vì trong các xí nghiệp chế biến thủy sản ở
Việt Nam có lượng công nhân khá đông, nhu cầu nước cho sinh hoạt lớn.
Kết quả điều tra cho thấy, nói chung, nước thải của các xí nghiệp chế
biến thủy sản vượt quá nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép (từ 5 - 10 lần về
chỉ số BOD và COD, gấp 7 - 15 lần về chỉ tiêu nitơ hữu cơ). Đặc biệt như xí
nghiệp Danifood, sản xuất mặt hàng Surimi, trong nước thải khi chưa xử lý
đạt tới 3120mg/l về BOD và 4.890mg/l về COD. Xí nghiệp AGIFISH sản
xuất cá Basa phi lê đông lạnh, có hàm lượng li pit trong nước thải rất cao.
Ngoài ra chỉ số về lưu lượng nước thải trên một đơn vị sản phẩm của các nhà
máy loại này cũng rất lớn. Chính vì vậy, tải trọng ô nhiễm do các xí nghiệp
này gây ra là rất lớn.
Nước thải từ các xí nghiệp chế biến thủy sản nếu không được xử lý triệt
để làm tăng ô nhiễm môi trường nước trên các dòng sông, làm xấu đi chất
lượng nguồn nước mặt, nước ngầm, không khí tại các khu đô thị và khu dân
cư.
Nhìn chung, nước thải chứa nhiều hợp chất hữu cơ, đặc biệt là các hợp
chất chứa Nitơ và phốt pho. Vì vậy, việc xử lý nước thải hết sức cần thiết và
là vấn đề cấp bách của doanh nghiệp chế biến thủy sản.
Theo số liệu điều tra, trong các doanh nghiệp chế biến sản phẩm thủy
sản đông lạnh, lượng nước thải dao động từ 30m3/T đến 78m3/T. Như vậy,

tổng lượng nước thải trên phạm vi cả nước khoảng ừ 4.500.000m3/năm đến
11.700.000m3/năm.
Lượng nước thải sản xuất trong chế biến sản phẩm khô khoảng
372,278m3/năm.
Nước thải trong chế biến đồ hộp gồm nước thải ra trong quá trình xử
lý: nước rửa nguyên liệu, nước rửa bán thành phẩm, nước hấp cá và nước rửa
dụng cụ, nước ngưng tụ từ hơi do rửa và khử trùng vỏ hộp, do thanh trừng.
Nước thải trong quá trình xử lý nguyên liệu có tính chất giống như nước thải
trong các xí nghiệp chế biến đông lạnh.
Nhìn chung nước thải trong chế biến sản phẩm đồ hộp chứa nhiều các
chất hữu cơ đặc biệt là chất chứa nitơ và phốt pho. Ngoài ra, nước thải còn
chứa lipid, các hoá chất sử dụng.
Lượng nước thải trong xí nghiệp chế biến đồ hộp trong 1 năm khoảng
104.400m3/năm đến 271.440m3/năm.
Kết quả điều tra cho thấy nhiều xí nghiệp chế biến đồ hộp chưa có hệ
thống xử lý nước thải và đang là một trong các đối tượng gây ô nhiễm các
nguồn nước.
Lượng nước thải trong quá trình sản xuất agar rất lớn, khoảng
240.000m3/năm, có chứa bã rong vụn, các hoá chất dư trong quá trình chế
biến. Nước thải có chứa các hoá chất nguy hại, nếu thải trực tiếp ra sông, hồ,
ruộng đồng sẽ gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Hiện nay các cơ sở
sản xuất agar đều chưa có hệ thống xử lý nước thải. Thực trạng này đang đặt
ra thách thức lớn đối với các nhà quản lý môi trường và thuỷ sản.
Nước thải trong chế biến bột cá có chứa máu, nhớt của cá và tạp chất.
Nước Ðp cá sau khi hấp sẽ chứa thịt vụn của cá, độ đạm cao, nên nước Ðp
này có thể tận dụng lại, nhưng dùng làm thức ăn cho gia súc hoặc làm nước
mắm. Thành phần của chất khí gây mùi hôi tanh chủ yếu là mùi của các hợp
chất hữu cơ metyl amin, dimetylamin, trimetylamin, putrescin, cadverin, và
các sản phẩm phân giải của proten tạo ra H
2

S, NH
3
.
b. Mùi và phát tán các hoá chất.
Mức độ mùi tanh hôi có trong xí nghiệp chế biến đông lạnh, xí nghiệp
chế biến hàng khô, xí nghiệp chế biến nước mắm, xí nghiệp chế biến đồ hộp,
xí nghiệp chế biến bột cá có khác nhau. Mùi hôi tanh nặng nhất là trong xí
nghiệp chế biến bột cá vì nguyên liệu dùng để chế biến bột cá là loại cá kém
chất lượng, các phế thải từ các quá trình chế biến các sản phẩm thủy sản khác
như đầu, xương, vảy, vây, nội tạng cá, không được bảo quản tốt, trong quá
trình xử lý nhiệt gây ra mùi hôi rất khó chịu.
Mùi tanh hôi thường phát ra ở những khu vực có xử lý thuỷ sản, đặc
biệt ở những khu vực chứa đựng phế thải, các dụng cụ không được vệ sinh kỹ,
từ hệ thống nước thải.
Hơi của cholorine từ các khâu vệ sinh, khử trùng trong sản xuất.
Chlorine sẽ khuếch tán trong không khí ngay tại khu làm việc với nồng độ
khác nhau tuỳ theo nồng độ và lượng nước sử dụng, mức độ thông gió của
khu vực sản xuất, điều này có phần nào ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao
động. Chlorine thường được sử dụng trong các xí nghiệp chế biến đông lạnh,
xí nghiệp chế biến hàng khô, xí nghiệp chế biến đồ hộp.
Các môi chất lạnh bị rò rỉ ngoài môi trường từ các hệ thống máy lạnh
chạy tủ đông, băng chuyền IQF, hầm đông, máy đá cây, máy đã vảy, kho
lạnh. Trong xí nghiệp chế biến sản phẩm đông lạnh, các môi chất lạnh thường
được sử dụng: NH
3
, Freon 22, Freon 12, Freon 502. Việc sử dụng các hợp
chất CFC gây ảnh hưởng lớn đến môi trường, trên thế giới việc sử dụng các
hợp chất này đang bị cấm, nên các xí nghiệp chế biến đông lạnh cần thay thế
các chất khí CFV bằng NH
3

. Theo điều tra, lượng môi chất bị rò rỉ hàng năm
tại các xí nghiệp chế biến thủy sản không nhiều, do các doanh nghiệp đã chú
ý tới việc bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị lạnh, tránh để gas lạnh bị rò rỉ.
c. Chất thải rắn
Lượng chất thải rắn trong các xí nghiệp chế biến thuỷ sản bao gồm chất
thải rắn từ nguyên liệu thủy sản (phế thải) trong quá trình sản xuất và chất thải
rắn trong sinh hoạt.
Lượng chất thải rắn (phế thải) trong quá trình chế biến thủy sản đông
lạnh đối với: Tôm đông lạnh (0,75 tấn phế thải/1 tấn thành phẩm); Cá đông
lạnh (0,6tấn phế thải/1 tấn thành phẩm); Nhuyễn thể chân đầu (0,45 tấn phế
thải/1 tấn thành phẩm); Giáp xác đông lạnh (0,5 - 0,6 tấn phế thải/1 tấn thành
phẩm); Nhuyễn thể hai mảnh vỏ đông lạnh (4 tấn phế thải/ 1 tấn thành
phẩm).
Lượng bã thải trong sản xuất nước mắm ước tính 0,2 tấn/1000 lít nước
mắm loại 1 (15g/lit).
Lượng chất thải rắn của sản phẩm khô đối với: Tôm khô (0,43 tấn phế
liệu/1 tấn nguyên liệu); cá khô (0,38 tấn phế liệu/1 tấn nguyên liệu); Mực ống
khô (0,17 tấn phế liệu/1 tấn nguyên liệu).
Lượng chất thải rắn của các sản phẩm thuỷ sản hộp (chủ yếu là cá hộp)
là 1,7 tấn phế liệu/1 tấn thành phẩm.
Lượng chất thải rắn trong sản xuất agar lfa 6 tấn phế thải/1 tấn thành
phẩm.
2.3. Trong khai thác thủy sản
Khai thác nguồn lợi thủy sản được loài người tiến hành từ bao đời nay,
song tập trung cao nhất khoảng 4 thập kỷ gần đây và hậu quả là nhiều nước
trên thế giới phải đối mặt với vấn đề cạn kiệt tài nguyên, suy giảm chất lượng
môi trường. Hiểm họa trên tiếp tục đe doạ, khi mà dân số thế giới, nhu cầu
thực phẩm, nhu cầu công ăn việc làm ngày càng tăng. Việt Nam không là một
ngoại lệ, đặc biệt từ khi thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986. Trong xu
hướng phát triển chung của đất nước, thủy sản được xếp vào một trong những

ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, sản lượng thuỷ
sản, kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Tăng trưởng cao là
điều mừng, song cũng là nỗi lo đối với các nhà quản lý tài nguyên môi
trường, thể hiện qua những con sè:
- Sản lượng khai thác thủy sản ở một số vùng biển có độ sâu dưới 30m
nước đã vượt qua giới hạn cho phép 10 - 12%.
- 135 loài thủy sản quí hiếm, có giá trị kinh tế bị đe doạ so với 14 loài
công bố năm 1989.
- Tỷ lệ thủy sản chưa trưởng thành chiếm 25 - 40% sản lượng khai thác
của một mẻ lưới (tỷ lệ cho phép 15%).
- Năng suất một số nghề khai thác (vây, mành đèn, chà, vó kết hợp ánh
sáng) giảm 30 - 60% so với trước 1986.
- Năng suất thủy sản nước ngọt tự nhiên ở các thuỷ vực thuộc các tỉnh
phía Bắc và miền Trung hầu như cạn kiệt; đối với Nam Bộ sản lượng khai
thác hàng năm chỉ bằng 50% so với trước năm 1975.
- Diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp khoảng 40 - 45% so với trước
năm 1954.
- Tỷ lệ rạn san hô giảm từ 35% xuống còn 5 - 7%.
- Ô nhiễm môi trường biển và ven biển: 11/34 thông số vượt quá giới
hạn cho phép 2 lần, đo được ở 3/6 điểm thuộc các tỉnh phía Bắc, 8/34 thông
số vượt quá giới hạn cho phép 2,5 làn, đo được ở 3/8 điểm thuộc các tỉnh
Nam Bộ và 7/34 thông số vượt quá giới hạn cho phép 1,6 lần, đo được ở 2/5
điểm thuộc các tỉnh miền Trung.
3. Mục tiêu phát triển ngành thủy sản và dự báo các vấn đề môi trường
chính.
Chiến lược phát triển ngành thuỷ sản đặt ra mục tiêu phấn đấu đến năm
2010 như sau:
- Nâng cao sản lượng cá để bảo đảm đạt 10kg/người/năm vào năm
2005 và cao hơn vào những năm tiếp theo.
- Duy trì sự đóng góp của nghề cá cho GDP ở mức 3%/năm.

- Tăng sản lượng nghề cá đạt 1,9 triệu tấn vào năm 2005 và 2,4 triệu
tấn vào năm 2010. Trong 2,4 triệu tấn sản phẩm thủy sản, một nửa là sản
lượng nuôi thuỷ sản.
- Giá trị xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 đạt 2,5 tỷ USD.
- Tăng việc làm cho cư dân.
Để đạt được các mục tiêu trên ngành thuỷ sản cần phải đồng bộ đẩy
mạnh cả ba mặt trận: Nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản. Bức tranh
tổng quan về phát triển và các vấn đề môi trường đối với 3 lĩnh vực nói trên là
rất quan trọng và là cơ sở để định hướng các chính sách và luật pháp phù hợp
để phát triển bền vững ngành thuỷ sản nhiều tiềm năng của nước ta.
Đối với khai thác hải sản: Khai thác hải sản đang cung cấp tỷ lệ lớn đối
với ngành thuỷ sản và trong tương lai, khi nước ta đẩy mạnh khai thác xa bờ,
sản lượng khai thác triển vọng sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, khai thác thủy sản
với tốc độ lớn, thiếu chọn lọc sẽ dẫn đến suy giảm nguồn lợi, ảnh hưởng đến
sự phát triển của nghề cá trong tương lai. Bên cạnh đó, việc đánh bắt, khai
thác thủy sản bằng các biện pháp hủy diệt hàng loạt như nổ mìn, xung điện,
hoá chất, lưới quét không đạt tiêu chuẩn v.v. không những làm suy giảm
nguồn lợi thuỷ sản mà còn làm suy thoái đa dạng sinh học, gây ô nhiễm và
suy thoái môi trường biển, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển trong tương
lai của nghề cá. Ngoài ra, sự rò rỉ đầu ra biển, sự xả thải nước xúc rửa tàu,
nước thải sinh hoạt và sự tích tụ chất thải từ nhiều hoạt động khác trên biển và
từ nội địa đổ ra biển sẽ làm cho biển quá tải, vượt quá khả năng tự làm sạch,
hậu quả sẽ là không lường trước được. Để giải quyết được các vấn đề trên,
bên cạnh tuyên truyền, vận động toàn dân, đặc biệt là cư dân nghề cá có ý
thức trong việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cũng như bảo vệ môi
trường để duy trì và phát triển nguồn lợi thủy sản, cần phải sớm xây dựng
đồng bộ các quy phạm pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thủy sản kết hợp bảo vệ
môi trường biển và các vùng nước đang bị khai thác mạnh, đồng thời áp dụng
các biện pháp cưỡng chế mạnh buộc các đối tượng thường xuyên vi phạm
phải tuân thủ nghiêm các quy định của nhà nước về bảo vệ nguồn lợi thủy

sản.
Nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam trong thời gian qua phát triển tương
đối nhanh và tiếp tục sẽ phát triển nhanh trong các năm tới, có tác dụng tích
cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều vùng nông thôn, nhất là
nông thôn ven biển. Tuy nhiên, đi đôi với những con số trên là vấn đề môi
trường. Rừng ngập mặn, các hệ sinh thái ven biển, các vùng nước tiếp tục sẽ
bị tàn phá với tốc độ nhanh, nhiều vấn đề môi trường khác là hậu quả của
nuôi trồng thủy sản như đã nêu ở trên sẽ trực tiếp tác động tiêu cực đến chính
lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Nguyên nhân chính là do phát triển thiếu quy
hoạch, phương thức nuôi chưa thân thiện với môi trường, chưa kiểm soát
được hoá chất sử dụng trong nuôi trồng, thức ăn dư thừa, tích tụ dưới đầy ao
làm ô nhiễm vùng nước v.v. Để phát triển bền vững lĩnh vực này, cần phải
đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng, xây dựng quy hoạch nuôi
trồng hợp lý, có các biện pháp kiểm soát việc chặt phá rừng, các hệ sinh thái
đất ngập nước để nuôi trồng thủy sản v.v. cũng như hình thành hệ thống các
quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản, làm căn
cứ để cưỡng chế đối với các tổ chức cá nhân không chú trọng công tác bảo vệ
môi trường gây ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của ngành.
Chế biến thủy sản cũng đang là thế mạnh của Việt Nam. Việc tăng
nhanh số lượng và quy mô các cơ sở chế biến thủy sản không song hành với
chú trọng đầu tư bảo vệ môi trường sẽ là gánh nặng cho môi trường và chính
ngành thuỷ sản trong tương lai. Chế biến thủy sản là lĩnh vực mà vấn đề môi
trường, vệ sinh an toàn thực phẩm được đăt lên hàng đầu trong thương mại
quốc tế. Vì vậy, nếu ngành thuỷ sản không chủ động đầu tư khắc phục các
vấn đề môi trường tồn đọng nêu trên sẽ ảnh hưởng lớn, thậm chí tạo nguy cơ
đối với sự phát triển của ngành trong tương lai. Để khắc phục được tình trạng
đó, việc giám sát, kiểm tra, thanh tra buộc các cơ sở chế biến thủy sản phải
tuân thủ Luật bảo vệ môi trường, cần phải xây dựng và phát triển các quy
định trong việc bảo vệ môi trường riêng cho lĩnh vực. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp chế biến thuỷ sản cần phải nhanh chóng tìm hiểu và áp dụng các hệ

thống quản lý chất lượng, môi trường theo các tiêu chuẩn quốc tế (ISO),
HACCP,v.v để có thể quản lý chất lượng, môi trường, vệ sinh an toàn
thực phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện và cơ hội tham gia
rộng hơn thị trường quốc tế.
Chương II
Tổng quan về các quy định pháp luật bảo vệ môi trường đối với ngành
thuỷ sản.
1. Các quy định về môi trường trong hệ thống pháp luật liên quan đến
nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản.
Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản và các văn bản
hướng dẫn mới tập trung vào:
Bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sản, bao gồm:
- Điều 8, Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản qui định
nghiêm cấm các hành vi:
* Xả, thải, để rò rỉ các chất độc hại có nồng độ vượt quá giới hạn qui
định (được thể hiện cụ thể bằng 2 bảng 1A và 1B trong Thông tư số
01/2000/TT- BTS ngày 28/4/2000 về sửa đổi, bổ sung một số điểm trong
Thông tư số 04/TS - TT ngày 30/8/1990 của Bộ Thủy sản về việc hướng dẫn
thực hiện Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
* Phá các hệ sinh thái như rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, các rạn san
hô và các bãi thực vật ngầm và các sinh cảnh đặc biệt khác (trừ trường hợp
được phép của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
* Xây mới phá dỡ, thay đổi các công trình liên quan đến vùng nước và
môi trường sống làm thiệt hại lớn đến nguồn lợi thủy sản (trừ trường hợp
được phép của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
- Điều 4, Nghị định 48 - CP ngày 12/8/1996, qui định mức xử phạt đối
với các hành vi vi phạm về bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản.
- Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000đồng, tịch thu tang vật đối
với các hành vi vi phạm: phá bãi đá ngầm, bãi san hô, bãi thực vật ngầm; phá
hoặc xây dựng trái phép các công trình nổi, công trình ngầm ở các vùng nước.

- Phạt tiền từ 2.000.0000 đồng đến 5.000.000đồng, nếu gây ô nhiễm
đến 1ha vùng nước.
- Phạt tiền 5.000.000đồng/1ha, nếu gây ô nhiễm trên 1ha vùng nước.
- Đối với hành vi gây ô nhiễm vùng nước, ngoài mức phạt tiền qui định
tại (b,c), người vi phạm còn bị buộc thực hiện các biện pháp khắc phục ô
nhiễm.
Bảo vệ các loài thủy sản:
- Điều 9, Pháp lệnh BV & PTNLTS qui định cấm khai thác và cấm khai
thác có thời hạn ở các khu vực bãi đẻ, nơi sinh sống tập trung của các loài
thủy sản thời kỳ còn bé, có sức bổ sung lớn cho nguồn lợi thủy sản. Các khu
vực cụ thể đã được qui định tại bảng 10 của Thông tư 01/2000/TT - BTS.
- Điều 10, pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản qui định:
Bộ thủy sản qui định mức sản lượng (bảng 5 và 6 Thông tư 04/TS - TT) các
đối tượng cấm khai thác (bảng 7A), cấm khai thác có thời hạn (bảng 8A) và
kích thước khai thác (9A) trong Thông tư số 01/2000/TT - BTS.
- Điều 11, pháp lệnh qui định: Bộ Thuỷ sản qui định các nghề và
phương tiện khai thác phải đăng ký (trừ các nghề qui định tại bảng 2A, thông
tư 01/2000/TT - BTS), phân vùng phân tuyến sản xuất.
- Điều 12, pháp lệnh qui định: cấm đánh bắt, tổ chức tiêu thụ các loài
thủy sản có giá trị kinh tế cao, quí hiếm hoặc có nguy cơ tuyệt chủng trong
danh mục các đối tượng được bảo vệ.
- Điều 5, Nghị định 48 - CP qui định mức xử phạt đối với những hành
vi vi phạm về bảo vệ các loài thủy sản.
- Các loại thuỷ sản có kích thước nhỏ hơn kích thước cho phép khai
thác, phạt tiền từ 10.000đồng đến 20.000đồng/1kg thủy sản nếu khai thác và
từ 5.000đồng đến 10.000đồng/1kg nếu vận chuyển, tiêu thụ.
- Đối với các loài thủy sản đó trong thời gian cấm khai thác, phạt tiền
từ 20.000đồng đến 50.000đồng/1kg thủy sản nếu khai thác và từ 10.000đồng
đến 20.000đồng/1kg thủy sản, nếu vận chuyển, tiêu thụ.
- Đối với các loài thủy sản trong danh mục cấm khai thác phạt tiền từ

50.000đồng đến 100.000đồng/1kg thủy sản đối với người khai thác và
20.000đồng đến 30.000đồng/1kg đối với người vận chuyển, tiêu thụ.
- Ngoài mức phạt tiền như a, b, c người vi phạm còn buộc thả động vật,
thuỷ sản trở lại môi trường nước nếu còn sống hoặc bị tịch thu nếu đã chết.
- Điều 6, Nghị định 48 - CP qui định các mức độ xử phạt đối với các
hành vi gây thiệt hại đến các loài thủy sản, cụ thể:
- Phạt tiền từ 200.000đồng đến 1.000.000đồng đối với hành vi khai
thác thủy sản không có giấy phép hoạt động nghề cá do cơ quan có thẩm
quyền cấp.
- Phạt tiền từ 100.000đồng đến 200.000đồng đối với hành vi khai thác
thủy sản không có giấy phép di chuyển, ở các ngư trường quy định phải có
giấy phép di chuyển.
- Phạt tiền từ 200.000đồng đến 500.000đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:

×