Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Cơ sở sư phạm của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 143 trang )



















371(V)
GD-98
511/67 - 98 Mã số: PKK 04B8


MỞ ĐẦU
Khi xem xét con người, chủ nghĩa Mác đã khẳng định
là trong mọi hình thái kinh tế, mọi trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, con người luôn luôn là nhân tổ quyết
đỉnh. Với ý nghĩa đó, đã từ lâu, con người đã trở thành đối
tượng nghiên cứu của nhiều khoa học : sinh học, y học,
kinh tế, nghệ thuật, triết học Khoa học giáo dục nghiên
cứu con người dưới gốc độ nhận thức những quy luật hình


thành và phát triển nhân cách, đặc biệt là đối với lớp trẻ
thanh thiếu niên. Sự hình thành và phát triển nhân cách này
luôn được đặt trong mối quan hệ mật thiết với các hình thái
kinh tế xã hội, nhằm chuẩn bị cho xã hội một lực lượng lao
động trẻ tương ứng với trình độ phát triển của xã hội đó.
Mỗi cá nhân hình thành và phát triển không chỉ tuân
theo những bàn trạng di truyền sẵn có mà chủ yếu theo sự
phát triển của văn hóa, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Nhận
cách con người hình thành trong hoạt động có ý thức vã cố
tình sáng tạo theo nhu cầu của minh. Nội dung của thế giới
nội tâm và chỉ thể cuộc sống từng con người không thể chỉ
là từ những gì tự nhiên trực tiếp đưa lại mà chủ yếu là từ kỹ
thuật đến kinh tế ; từ kinh nghiệm, lòng tin đến khoa học ;
từ văn hoá dân tộc đến giao lưu nhân loại.
Nhân cách con người chỉ được hình thành trong các
mối quan hệ xã hội, trong hoạt động lao động (trí óc, chân
tay). Các Mác viết : "Con người được phân biệt với súc vật
ngay từ khi người ta bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình" (1, tr. 286).
Trong hoạt động thực tiễn, con người chuyển hóa sức
mạnh tự nhiên thành sức mạnh của chính mình trắc lượng
sản xuất và các quan hệ giữa người với người). Những
quan hệ này không chỉ biểu hiện ở phương thức hoạt động
bên ngoài mà còn bao hàm cả thế giới nội tâm của con
người.
Xã hội càng văn minh, sản xuất xã hội càng phát triển
thì thế giới nội tâm của con người càng phong phú, bởi vì
tiêu chuẩn khách quan, phổ biến và cao nhất của tiến bộ xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó ban
gồm sự phát triển của bàn thân con người. Trước hết là sự

phát triển phong phú của bản tính con người với tư cách là
mục đích tự thân (1, tr. 158). Như vây, tiến bộ xã hội gắn
liền với việc giải phóng con người, tạo ra những điều kiện
hữu hiệu để phát triển toàn diện và hài hòa cá nhân, tạo cho
con người được làm chủ quá trình lịch sử của chính mình.
Đó không chỉ là mục đích cần đạt tới của chủ nghĩa nhân
đạo Mácxít chân chính mà còn là mục đích mang tính chiến
lược lâu dài của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân .
Nhà trường các cấp của chúng ta hiện nay có nhiệm
vụ hình thành và phát triển nhân cách cho thanh thiếu niên
thông qua các nội dung giáo dục hết sức đa dạng và phong
phú. Đó là giáo dục đức dục, trí dục, thể dục, thẩm mỹ, lao
động sàn xuất và hướng nghiệp bằng nhiều con đường như
dạy học trong nhà trường, tham gia thực tiễn ngoài xã hội,
giáo dục trong gia định và các đoàn thể, các cộng đồng xã
hội giáo dục bằng các phương tiện thông tin đại chúng và
các phương tiện kỹ thuật
Nhà trường phổ thông được coi là bộ phận cực kỳ
quan trọng của hệ thống giao dục quốc dân, tác động một
cách có tổ chức, khoa học đến quá trình hình thành nhân
cách của thanh thiếu niên. Với mục đích giáo dục tương
ứng với từng lứa tuổi, từng trình độ nhận thức, giáo dục
phổ thông sẽ tạo ra .tiền đề cần thiết về mặt trí tuệ và thể
chất cho những giai đoạn phát triển tiếp theo của mỗi con
người.
Nếu như mục đích của việc hình thành nhân cách cho
thanh thiếu niên trong chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta là
tạo cho họ khả năng tham gia tích cực, sáng tạo vào lao
động xã hội, thì hướng nghiệp, phần nội dung gắn bó hữu
cơ trong giáo dục toàn diện của nhà trường phổ thông, sẽ

thực hiện nhiệm vụ phát triển nhận thức của tuổi trề đối với
hoạt động tương lai của họ, sao cho phù hợp với những nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của đất nước
trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Công tác hướng nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục ở
Việt Nam nói chung và nhà trường phổ thông nói riêng là
một phạm trù còn rất mới mẻ cả về mặt lý thuyết và hoạt
động thực tiễn. Thời gian trước đây, những vấn đề có liên
quan tới công tác hướng nghiệp, tùy thuộc vào điều kiện cụ
thể của tường giai đoạn lịch sử, đã được nhiều tác giả đã đề
cập tới ở góc độ này hay góc độ khác. Vào những năm 80
phải kể tới sự đóng góp của các tác giả như : Phạm Hoàng
Gia, Lê Sơn, Phạm Tất Dong đã nêu ra một số cơ sở tâm lý,
nội dung của công tác hướng nghiệp (3 ; 7 ; 8) . Đặc biệt
bằng luận văn phó tiến sĩ của mình, tác giả Phạm Tất Dong
là người đầu tiên đặt nền móng cho việc thiết lập những cơ
sở lý thuyết về hướng nghiệp vào những năm 80, nhất là
những năm cuối của thập kỷ này. Cùng với chiến thắng của
dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, công
cuộc xây dựng CNXH đặt ra cho sự nghiệp giáo dục những
nhiệm vụ mới, trong đó nổi lên vấn đề hướng nghiệp cho
tuổi trề. Nhiều văn bản chỉ thị của Nhà nước, của ngành
giáo dục và nhiều bài viết của không ít tác giả đã đưa ra
chương trình, nội dung, cách thức tổ chức công tác hướng
nghiệp trong nhà trường phổ thông (6 ; 11). Trên thực tế,
trong khoảng thời gian 10 năm từ 1980-1990, công tác
hướng nghiệt đã được triển khai đối với hệ thống giáo dục
phổ thông theo kế hoạch, chương trình và nội dung của Bộ
GD và ĐT hoạch định (4) nhằm làm tốt việc phân hướng
học sinh tốt nghiệp các cấp PTCS và PTTH sau khi tốt

nghiệp ra trường. Mặc dù mới chỉ
là những bước đi đấu tiên của nhà trường phổ thông vào
lĩnh vực hướng nghiệp, nhiều khó khăn xuất hiện (hệ thống
nội dung, chương trình hướng nghiệp, hình thức tổ chức
hướng nghiệp, hệ thống tư vấn. nghệ cho học sinh, cơ sở
vật chất phục vụ chợ . côn gtác này, đội. ngũ cán bộ
chuyên môn về hướng nghiệp côn quá thiếu thốn và non
yếu), song ớ một mức độ nào đô, thông qua kết quả việc
triển khai các chỉ thị của Nhà nước và của ngành về hướng
nghiệp, chúng ta cũng thấy được sự cố gắng của hệ thống
giáo dục khi triển khai công tác mới mè này. Bên cạnh việc
hình thành được một nội dung công việc hoàn toàn không
có trước 'đây trong công tác giáo dục toàn diện của nhà
trường, tăng cường vai trò xã hội của mỗi trường khi thực
hiện mục đích giáo dục, xây dựng được một số tài liệu làm
cơ sở chỉ đạo cho việc thực hiện chương trình, nội dung
hướng nghiệp ; chúng ta đã thiết lập được một số mạng lưới
các trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp (KTTH) và
hướng nghiệp ở các tỉnh và một số thành phố, đô thị lớn
của cả nước. Cho dù hiện nay tên gọi của các trung tâm này
có thể đã thay đổi, nội dung các phần việc của nó mang
tính "kinh te hơn, nhưng xét về chức năng cơ bản, đây vẫn
là những cơ sở trụ cột của công tác hướng nghiệp ở các địa
phương. Mặc dù những mầm mống, những yếu tố của
hướng nghiệp đã tổn tại trong hoạt động giáo dục của nhà
trường như là những nội dung chính khóa, nhưng lý giải nó
như một hệ thống tất yếu, khoa học để tác động vào sự hình
thành nhân cách người học sinh như thế nào thì chúng ta
vẫn đang ở những bước khởi đầu. Hơn 10 năm đã qua, kể
từ ngày Chính phủ ban hành quyết định 126/CP (10-03-

1981) về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và
việc sử dụng hợp lý học sinh các cấp phổ thông cơ sở và
phổ thông trung học tốt nghiệp ra trường và Thông tư
31/TT của Bộ Giáo dục hướng dẫn việc thực hiện quyết
định cho các cơ quan quản lý giáo dục, trường phổ thông
các cấp và các cơ quan liên ngành, cùng với sự biến đối lớn
lao của xã hội, giáo dục phổ thông và những vấn đề có liên
quan tới vấn đề hướng nghiệp cũng có những thay đổi cần
được nhận thức sâu sắc và thực tiễn hơn.
Trước hết phải thấy rằng, mấy năm trở lại đây, một số
định hướng về giá trị nghề nghiệp đối với thanh thiếu niên
bi đảo lộn. Trước đây, chúng ta thường lấy sức mạnh tư
tưởng để động viên thanh niên đi vào những lĩnh vực có
nhiều gian khổ như nông nghiệp, dạy học ở những vùng núi
cao, vùng xa xôi hẻo lánh, lâm nghiệp, giao thông, duy tu
đường bộ đường sắt, nghề mỏ, cơ khí kèm theo đó là
phân luồng học sinh theo chỉ tiêu Nhà nước mà không tính
tới năng lực, nhu cầu, sở thích của mỗi cá nhân. Ai được
đào tạo ra cũng có việc làm và như người ta nói - trở thành
cái đinh vít trong một cơ chế đã được định vị sản của nền
kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp. Thời
xưa đi học và làm quan là con đường và mục đích phấn đấu
của mỗi . sĩ tử thì thời bao cấp, đi học và làm cán bộ là
những khái 'niệm dẫn xuất tất yếu của mỗi học sinh. Sống
dưới lý tưởng và sự "bao dung" của cơ chế kinh tế cũ, hầu
như mọi giá trị nghề nghiệp được sắp sẵn mà không cần có
sự phán xét, cân nhắc của cá nhân.
Năm học 1988-1989, điều tra trên 308 sinh viên năm
thứ 4 các khoa toán, lý, văn, sinh, địa Trường Đại học sư
phạm Việt Bắc với câu hồi : "Vào thời điểm hiện nay nếu

cho chuyển đổi nghề thì anh (chị) có suy nghỉ gì ?". Trên
các phần kín, với 3 cách trả lời định sản : ở lại nghề dạy
học ( 1 ) ; đi sang nghề khác (2) ; và còn lưỡng lự (3) chúng
tôi đã được kết quả sau :


Câu t
r
ả lời

(
l
)
(
2
)
(
3
)

Toán (106 SV)
Lý (52 SV)
Văn (84 SV)
Sinh (36 SV)
Địa (30 SV)
48
27
21
13
2

41
18
43
21
26
17
7
20
3
2
Từ kết quả điều tra cho ta thấy, mặc dù đã qua 4 năm
học tập số sinh viên không muốn theo nghề được đào tạo
vẫn chiếm tỷ trọng lớn : 48,3%. Tỷ lệ này tăng lên đối với
sinh viên ở các khoa có chiều hướng khó kiếm việc làm sau
khi tốt nghiệp : văn 51%, sinh 58%, địa 86%. Số sinh viên
có nguyện vọng chuyển nghề này tuy thế, vẫn sẽ phải làm
việc suốt đời trong nghề dạy học, đó là mâu thuẫn tất yếu
nảy sinh trong việc phân lượng học sinh theo kiểu kế
hoạch, bao cấp trước đây. Tình hình biến đổi hiện nay trong
công tác tuyển sinh đã cho phép học sinh phổ thông sự lựa
chọn nghề theo năng lực của bản thân, nhưng đó mới chỉ là
điều kiện khách quan, vấn đề là phải tạo cho người học sinh
có năng lực tận dụng điều kiện khách quan này. Đây quả
thực là một quá trình hết sức phức tạp, do nền kinh tế thị
trường hiện nay tạo ra cách nhìn cho môi người trong xã
hội đối với việc làm của họ theo quy luật lợi ích nhiều hơn
là lý tưởng. Nói cách khác, khi tìm một việc làm, mỗi cá
nhân sẽ xác định trước tiên những công việc đem lại cho họ
lợi ích kinh tế lớn hơn. Nghề nào đem lại tiền lương cao,
nghề đó thu hút nguyện vọng của nhiều người trong xã hội.

Việc xóa bao cấp trong các doanh nghiệp Nhà nước và sự
xuất hiện doanh nghiệp tư nhân làm cho việc tuyển chọn
cán bộ vào làm việc tại các cơ sở trở nên kỹ càng và thận
trọng hơn. Những doanh nghiệp trả lương cho cán bộ công
nhân ở mức cao là những xí nghiệp có quá trình công nghệ
tiến tiến, bộ máy quản lý năng động, hợp lý và tại những
doanh nghiệp này công tác tuyển chọn người càng khắt khe
hơn. Người học sinh nhiều khi không thấy tất cả những yếu
tố đó trong việc tuyển chọn cán bộ của nền kinh tế thị
trường mà chỉ thấy nổi bật lên yếu tố đồng tiền để đua chen
nhau trong các kỳ thi tuyển vàn một số trường, đệ đơn vào
các doanh nghiệp một cách tự phát Để lập lại trật tự để có
sự định hướng đúng cho tuổi trề, mà phải chăng do lỗi tại
chúng ta đã để tình trạng giáo dục xuống cấp trong bước đi
ban đầu vào kinh tế thị trường, đã quá coi nhẹ mảng công
tác hướng nghiệp (nếu không nói là lãng quên) trong giáo
dục toàn diện hiện nay của các trường phổ thông ; chúng ta
cần tính tới việc xây dựng lại từ đầu cái hào khí làm hướng
nghiệp cách đây mười mấy năm và đưa vào cho nó một
sinh lực mới, một cách nhìn mới phù hợp với cuộc sống
hiện nay.
Xuất phát từ những lý giải trên, chúng tôi thấy để có
bước đi ban đấu vào công tác hướng nghiệp một cách khoa
học, cần thiết phải xây dựng một hệ thống lý thuyết về
hướng nghiệp có cơ sở khoa học phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội hiện nay của đất nước, đó cũng chính là mục
đích cơ bản của cuốn sách nay. Do điều kiện thời gian và
không gian, trong quá trình nghiên cứu và đề xuất hệ thống
hướng nghiệp nay, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc khảo sát
trên địa bàn thực ' tế của một số tỉnh miền núi phía Bắc.

Nội dung cuốn sách nhằm giải quyết những nhiệm vụ
sau :
1. Xây dựng một số khái niệm cơ bản về hướng
nghiệp.
2. Hình thành hệ thống hướng nghiệp theo quan điểm
hệ thống.
3. Thiết lập một số hình thức tổ chức hướng nghiệp
theo chương trình do Bộ GD và ĐT ban hành.
Toàn bộ nội dung cuốn sách được chia làm 4 phần
chính :
- Mở đầu.
- Phần thứ nhất : Những cơ sở lý luận chung của công
tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông.
- Phấn thứ hai : Tổ chức thực hiện công tác hướng
nghiệp trong trường phổ thông.
- Phần thứ ba : Sự tham gia của các tổ chức và lực
lượng xã hội vào công tác hướng nghiệp.
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA
CÔNG TÁC HƯỚNG NGHIỆP TRONG
TRƯỜNG PHổ THÔNG .
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU VỀ CÔNG
TÁC HƯỚNG NGHIỆP
1. Hướng nghiệp là gì ?
Trong cuộc sống của mỗi người, tuổi thanh niên là
thời điểm có nhiều xáo trộn, khi ở họ cần thiết phải suy
nghĩ đến cuộc sống tương lai của họ. Không ít các câu hỏi
đại loại như : mình xe làm gì ?", "Mình chọn nghề gì .",
"Nghề nào hay nhất ?"
Đối với một số học Binh cuối cấp phổ thông, việc tim

ra câu trả lời cho những đắn đo trên là không khó khăn lắm
(tất nhiên số này rất hiếm). Đa số còn lại, những câu hỏi đặt
ra cho các em nhiều suy nghĩ, buộc các em phải tìm kiếm
lâu dài, bởi có biết bao nghề đáng yêu, đăng gửi gắm "số
phận" của mình, có biết bao con đường để đạt tới mục đích:
của cuộc sống riêng.
Song, việc xác định cho mình một hướng đi, một nghề
nghiệp chỉ cố thể có được ờ những cá nhân cố khả năng
nhận thức và nhận thức một cách tự do các đối tượng bền
ngoài, có khả năng xem xét, so sánh, đánh giá những dạng
khác nhau của
hoạt động lao động để đi tới một quyết định cho bản
thân. Tất nhiên, sự tự lựa chọn này không bao giờ được coi
là tuyệt đối, bởi vì nó còn bị giới hạn bởi nhiều điều kiện :
kinh tế, chính trị, xã hội, năng lực bản thân . . .
Như vậy, lựa chọn nghề là một quá trình biểu hiện
tính năng động của chủ thể, nó không chỉ liên quan tới nội
dung hay hình thức của đối tượng lựa chọn mà còn chịu sự
chi phối của chính tính năng động ấy. Điều chỉnh, hướng
dẫn và phát triển tính năng động này cho mỗi cá nhân là
trọng trách của công tác hướng nghiệp, nó tham gia vào hệ
thống khách quan điều chỉnh các .điều kiện chủ quan, giúp
các cá nhân đi tới nghề nghiệp một cách khoa học và đúng
đắn.
Vậy có thể hiểu như thế nào về khái niệm "Hướng
nghiệp" ? Tháng 10/1980, Hội nghị lần thứ 9 những người
đứng đầu cơ quan giáo dục nghề nghiệp các nước XHCN
họp tại La Habana thủ đô Cuba đã thống nhất về khái niệm
hướng nghiệp như sau : "Hướng nghiệp là hệ thống những
biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, y học và

nhiều khoa học khác để giúp đỡ học sinh chọn nghề phù
hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời thỏa mãn tối đa nguyện
vọng thích hợp với những năng lực, sở trường và điều kiện
tâm sinh lý cá nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử
dụng có hiệu quả nhất lực lượng dự trữ có sẵn của đất
nước".
Khái niệm nêu trên Về hướng nghiệp là sự kết hợp
tương đối hài hòa nhu cầu của mỗi cá nhân và nhu cầu xã
hội. Khái niệm đặt nhiệm vụ đào tạo con người cho xã hội
làm nhiệm vụ trung tâm, trước tiên, đồng thời luôn đảm
bảo tính cá thể trong sự phát triển tự do của mỗi nhân cách.
Khái niệm trên cũng đê cập có tới tính chất phức tạp của
công tác hướng nghiệp, đòi hỏi phải có sự tham gia đồng
bộ của nhiều bộ phận xã hội nhằm giải quyết hợp lý lực
lượng lao động dự trữ có Bản của đất nước: Khái niệm trên
đây là đầy đủ vì nó bao gồm trong đó nội dung, cấu trúc,
đặc trưng cơ bản, phương pháp tiến hành và mục đích
hướng nghiệp.
Nói một cách ngắn gọn, dưới góc độ giáo dục phổ
thông, hướng nghiệp là sự tác động của một tổ hợp các lực
lượng xã hội vào thế hệ trê, lấy sự chỉ đạo của một hệ thống
sư phạm làm trung tâm giúp cho các em quen biết với một
số ngành nghề phổ biến để khi tốt nghiệp ra trường có thể
lựa chọn cho mình một cách có ý thức nghề nghiệp tương
lai.
Hiện nay, việc thống kê nghề và chuyên môn là vô
cùng khó khăn do tính chất phức tạp của bản thân mỗi nghề
(chẳng hạn chỉ riêng những nghề có liên quan tới kỹ thuật
điện đã có thể tới trẽn 500 nghề như : điện lạnh, điện nguội,
điện lắp ráp, điện máy nổ, điện chiếu sáng, điện dân

dụng ) cũng như sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật,
công nghệ. Theo các sách báo, trên thế giới có khoảng
6500 nghề và trong mỗi nghề tại gồm nhiều chuyên môn và
trong mỗi chuyên môn lại phân nhánh thành những phạm vi
hẹp hơn nữa (ví dụ nghề dạy học có thầy dạy toán, có thầy
dạy lý, dạy văn Trong dạy toán lại có thầy chuyên dạy
toán cao cấp, toán sơ cấp, toán ứng dụng. ). Ở nước ta,
theo danh mục nghề do Viện Khoa học dạy nghề thiết lập
có khoảng 400 nghề đang được đào lạo tại các trường lớp
dạy nghề, còn những.nghề mang tính truyền thống và phổ
thông (nghề làm nón, xe hương, làm nước chấm, đánh giầy,
bán báo rong ) thì chưa có số liệu nào thống kê cho hết.
Tất nhiên để đi tới việc phân loại nghề một cách
tương đối đầy đủ và khoa học, chúng ta có thể xem xét một
số khái niệm công cụ mở đầu như : nghề nghiệp và việc
làm.
2. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp theo chữ La tinh Professio có nghĩa là
công việc chuyên môn được hình thành một cách chính
thống, là dạng lao động đòi hỏi một trình độ học vấn nào
đó, là cơ sở hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Theo tác giả E.A.Klimov thì : "Nghề nghiệp là một
lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con
người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự
phân công lao động xã hội mà có), nó tạo cho con người
khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những
phương tiện cắn thiết cho việc tớn tại và phát triển (2).
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm nghề là "công việc
chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội" (10, tr.
670). Từ một số khái niệm nêu trên, chúng ta có thể hiểu

nghề nghiệp như một dạng lao động vừa mang tính xã hội
(sự phân công xã hội), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản
thân), trong đố con người với tư cách là chủ thể hoạt động
đòi hỏi để thỏa mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và
cá nhân. Như vậy nới tới nghề nghiệp trước hết phải nói tới
những khách quan do xã hội đặt ra : khi xã hội chưa có
những đòi hỏi phải trồng trọt và chăn nuôi thi chưa có cái
gọi là nghề trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng bản thân nhu
cầu về trồng trọt và chăn nuôi của xã hội khi không thỏa
mãn những đòi hỏi kiếm sống của mỗi cá nhân thi những
dạng lao động trên chỉ được coi như là đối tượng trong sự
tìm kiếm chứ chưa thể là nghề của cá nhân đó.
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong nô một
hệ thống giá trị : tri thức nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề,
truyền thống nghề, hiệu quả do nghề mang lại. Những giá
trị này có thể được hình thành theo con đường tự phát (tức
là do tích lũy kinh nghiệm trong quá trình sống với cộng
đồng mà có) hoặc theo con đường tự giác (do được đào tạo
trong các cơ sở trường, lớp dài hạn hay ngắn hạn) .
Hoạt động trong bất kỳ nghề nghiệp nào, mỗi cá nhân
phải tiều tốn một số lượng vật chất (thể xác) và tinh thần
(trí tuệ) nhất định. Cá nhân sống bằng nghề nào thì lượng
tiêu háo về thể xác và tinh thần của mỗi người đó cho dạng
lao động này là lớn nhất. Chính vì thế, nghề được coi như
đối tượng hoạt động cơ bản, chí ít cũng là trong một giai
đoạn nào đó của đời sống cá nhân, và trong đa số các
trường hợp, nó gắn bó với cả cuộc đời con người, hoặc giả
còn truyền từ đời này sang đời khác. Nghề luôn luôn là cơ
sở giúp cho con người có nghiệp (việc làm) và từ đó tạo ra
sản phẩm thỏa mãn nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu xã

hội. Còn nếu như chỉ có nghệ mà không có nghiệp, đó là sự
thất nghiệp. Bất cứ việc làm nào cũng gần với một nghề cụ
thể (hoặc một chuyên môn cụ thể), song không thể đóng
nghìn việc làm với với nghề. Việc làm là một hoạt động cụ
thể nhằm biến đổi đối tượng phục vụ cho lợi ích của bản
thân. Như vậy, việc làm có thể có cơ sở từ nghề được đào
tạo và cũng có thể là những công việc nhất thời đáp ứng kế
sinh nhai của chủ thể.
Đôi khi người ta nhầm lẫn giữa nghề nghiệp với việc
làm cũng xuất phát từ quan niệm về những kỹ năng của
một hoặc nhiêu nghề được cá nhân sử dụng trong quá trình
lao động. Nếu việc làm diễn ra trong một thời gian dài, có
cơ sở từ nghề được đào tạo có thu nhập ổn định, trong quá
trình lao động cá nhân thường xuyên sử dụng một hệ thống
tri thức và các kỹ năng được huấn luyện (tay nghề) khi đó
cá nhân không chỉ có nghề mà có cả nghiệp.
Nói tóm gọn, nghề nghiệp là một dạng lao động đòi
hỏi ở con người một quá trình đào tạo \chuyên biệt, có
những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nhất đính.
Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo
ra săn phẩm thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân và xã
hội.
Ví dụ như nghề tiện là một dạng hoạt động gắn liền
với quá tình gia công kim loại trên máy tiện và đòi hỏi
nhiều kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo lao động riêng. Người thợ
tiện phải biết cấu tạo của công cụ cắt gọi, biết tính chất và
các phương thức gia công nguyên liệu trên máy. Người thợ
tiện đồng thời phải biết điều kiện (vận hành) một số máy
tiện cơ bản, bảo dưỡng máy, mài lưỡi dao tiện, đọc các bản
vẽ cũng như nhận biết các tài liệu công nghệ

Nghề nghiệp cũng được xuất hiện dưới ảnh hưởng của
sự phân công lao động xã hội. Những nghề đầu tiên xuất
hiện vào giai đoạn nảy sinh chế độ công xã nguyên thủy :
săn bán, hái lượm. Sự phân công lao động diễn ra trong giai
đoạn này mang tính tự phát, nhằm bảo tồn cuộc sống. Với
Bự phát triển của sức sản xuất, bóng quá trình hoàn thiện
công cụ lao động, một số bộ lạc chuyển từ hình thức hái
lượm trước đây sang trồng trọt, còn một số bộ lạc khác từ
săn bắn chuyển sang chăn nuôi. Chính việc phân chia này
làm nảy sinh những nghề đấu tiên đó là chăn nuôi và trồng
trọt Người ta gọi đó cuộc đại phân công lẩn thứ nhất. Cuộc
đại phân công lần thứ hai tách lao động thủ công khỏi lĩnh
vực trồng trọt. Kết quả của cuộc đại phân công lẩn này là
sự ra đời của hàng loạt nghề mới : rèn, mộc, đổ gốm, thuộc
da, dệt vải, may mặc Theo đà phát triển của sản xuất,
công cụ ngày một hoàn thiện, máy móc xuất hiện dẫn tới sự
biến đổi từ phương thức sản Xuất thủ công đơn chiếc sang
đại công trường thủ công sản xuất theo dây truyền và rồi
tiến lên cơ giới hóa, điện khí hóa, tự động hóa. Kèm theo
sự biến đổi này là quá trình xuất hiện của hàng nghìn nghề
mới trong danh mục các nghề nghiệp có trong xã hội.
Ngày nay, gắn liền với nhịp điệu phát triển nhanh
chóng của khoa học kỹ t.luật, thường xuyên diễn ra quá
trình biến mất của một số nghề và xuất hiện một số nghề
khác.
Ví dụ, trong công nghiệp khai thác than và quặng mỏ,
các nghệ cuốc lò thủ công, chuyên chở than và quặng bằng
mang vác đã bị xóa bỏ, đồng thời có những nghề mới xuất
hiện như thợ lái máy liên hợp khai thác mỏ, thợ tải băng
truyền, thợ khoan lò Mặc khác, từ hàng loạt những nghề

cũ lại có sự phân nhánh thành những nghề mới tương ứng
với quá trình công nghiệp hiện đại. Chẳng hạn bên cạnh
nghề quét sơn thủ công lại có thợ sơn bóng và sơn phủ
bằng máy ; bên cạnh thợ giặt là thủ công lại có những
người thợ là bằng máy nén hơi hay máy cán ép
số nghề như ta thấy, hiện nay lên tới hàng chục nghìn,
vậy thì sự khác nhau giữa các nghề là ở chỗ nào ? có nhiều
cách phân loại nghề và mỗi cách như chúng tôi trình bày
dưới đây chỉ thâu tóm được những đặc trưng cơ bản nhất
của nghề theo một bình diện nào đó. Tuy nhiên, trên cơ sở
của sự phân loại, nó cho phép chúng ta phân biệt được giữa
các nghề (hay nhóm nghề) theo dấu hiệu bản chất chưa
nghề (hay nhóm nghề) đó với các nghề (hay nhóm nghề)
khác.
2.1. Cách phân loại thứ nhất
Theo cách phân loại này người ta nhận thấy các nghề
theo bốn dấu hiệu cơ bản sau :
1. Đối tượng lao động
Đó là một hệ thống những thuộc tính phản ánh mặt
hình thức, nội dung của nghề và các mối quan hệ giữa
những thuộc tính này trong đối tượng.
Ví dụ đối với người làm vườn thì đối tượng lao động
là cây trồng và những hiện tượng sinh học có liên quan ;
đối tượng của người bác sĩ là người bệnh và những hiện
tượng bệnh lý sinh lý người
Trong đối tượng lao động, chúng ta cần đặc biệt lưu ý
tới nguyên liệu có trong đối tượng. Chẳng hạn, người thợ
nguội có quan hệ đối tượng thông qua việc tiếp xúc với các
nguyên liệu như kim loại, hợp kim.
Căn cứ trên đối tượng lao động, các nghề được phân

thành các dạng :
- Nghề có đối tượng là thiên nhiên (trồng trọt, chăn
nuôi ) ;
- Nghề có đối tượng là con người (dạy học, chữa bệnh
; Nghề có đối tượng là các dấu hiệu (đánh máy chữ, sắp
chữ in, kế toán ) ;
Nghề có đối tượng chụp ảnh, soạn nhạc viết văn !
2. Mục đích lao động
Đó là kết quả cần đạt được trong mỗi nghề do xã hội
đòi hỏi ở cá nhân.
Trong mục đích lao động, chúng ta cần lưu ý tới
những đòi hỏi về số lượng đảm ra bao nhiêu sân phẩm, thời
hạn tiêu phí ) và chất lượng (tốt hay xấu), đồng thời cũng
cần chú ý tới công dụng của sản phẩm do quá tình lao động
tạo ra (làm cho ai, sử dụng chúng vào những công việc gì).
Căn cứ trên mục đích lan động, người ta chia thêm
thành 2 dạng nghề nữa :
- Nghề có mục đích nhận thức (điều tra các vụ án,
thanh tra ) ;
- Nghề có mục đích tìm tòi sáng tạo (nghiên cứu khoa
học, sáng tác lai tạo giống mới )
3. Công cụ và phương tiện tao động
Công cụ và phương tiện lao động không chỉ bao gồm
những dụng cụ, thiết bị máy gia công nhằm biến đổi đối
tượng lao động mà còn bao gồm cả những phương tiện giúp
cho quá trình nhận thức của con người đạt được kết quả dễ
dàng, giảm nhẹ sức lực căng thẳng về bắp thịt và thần kinh
ở mức tối đa. Công cụ lao động có thể là thủ công hay máy
móc. Để sử dụng các công cụ và phương tiện lao động, con
người phải có kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo tương ứng, phải

có ý thức cải tiến và hoàn thiện công cụ lao động, song như
vậy không có nghĩa là tất cả các phương tiện và công cụ thủ
công đá bị loại bỏ. Các công việc như tháo lắp, sử chữa,
điều chỉnh các công cụ và phương tiện lao động cần đến
"bàn tay vàng" của lao động thủ công. Kỹ thuật càng phức
tạp thỉ giá trị sáng tạo, hoạt động trí lực của con người càng
được phát . huy cao độ, tay nghề về mọi phương diện của
người thợ càng phải tính thông.
Căn cứ vào công cụ lao động, người ta chia các nghề
thành 4 dạng :
- Lao động chân tay (sửa chữa xe đạp, thợ thủ công
truyền thống ) ;
- Lao động bên máy (tiện, phay, bào ) ;
- Lao động bên máy tự động (thợ máy tính điện tử,
thợ điều khiển các trạm máy tự động ) ;
- Lao động bằng công cụ đặc biệt là ngôn ngữ (dạy
học, ca hát, phát thanh viên . . . ) .
4. Điều kiện lao động
Đó là hoàn cảnh xung quanh (con người và tự nhiên)
mà trong đó công việc lao động của con người diễn ra.
Trong tất cả những điều kiện lao động thì các điều
kiện xã hội, khí hậu và vệ sinh môi trường được đặc biệt
lưu ý. Dựa trẽn điều kiện lao động, người ta chia nghề
thành 4 dạng :
- Nghề có môi trường đạo đức - chính trị (tòa án,
chính trị) ;
- Nghề có môi trường vật lý đặc biệt (du hành vũ trụ,
thợ hầm lò, thợ lặn ) ;
- Nghề làm trong điều kiện không gian bình thường
(kế toán, thư viện ) ;

- Nghề làm trong không gian khoáng đạt (trong rừng,
chăn nuôi trên đồng cỏ. ).
Trong mỗi nghề, mặc dù có khác nhau về 4 dấu hiệu
trên đây nhưng đều được bao gồm 3 dạng công việc thành
phần sau :
Công việc cơ bản : diễn ra trong một thời gian dài và
để thực hiện công việc, con người cần được đào tạo đặc
biệt ;
- Công việc hỗ trợ, giúp cho công việc cơ bạn tiến
hành thuận lợi (điều chỉnh, gá lắp ) ;
- Công việc chuẩn bị và kết thúc (chuẩn bị đó nghề và
chỗ làm việc, lau chùi máy móc, bảo quản bán thành
phẩm ).
2.2. Cách phân loại thứ hai
Thao tác này người ta phân loại nghề theo đối tượng
lao động và thao tác lao động.
Cách phân loại thứ hai này khác cách phân loại thứ
nhất ở chỗ người ta đã thay thế dấu hiệu "mục đích lao
động" bằng dấu hiệu "thao tác lao động cơ bản". Với cách
phân loại thứ hai, các nghệ được nhóm họp theo những
dạng sản xuất (đơn rất tổ hợp, phổ biến) hay là những loại
sản xuất (tổng hợp, chuyên ngành hẹp và chuyên ngành
rộng). Dưới đây chúng ta điểm quà vài nết về những dạng
sản xuất đó.
1. Nghề diện rộng
Là những nghệ có liên quan tới một phạm vi rộng các
công việc chẳng hạn như nghề bảo dưỡng máy, lắp ráp
máy, sửa chữa máy, thợ máy kéo, thợ máy nổ . . .
2. Nghề chuyên ngành rộng
Đố là những nghề phục vụ trong một lĩnh vực chuyên

ngành, thực hiện một công việc xác định (ví dụ nghề sửa
chữa điện trong ngành điện, thợ máy ủi trong ngành giao
thông, thợ hàn khuôn trong nghệ đúc ).
3. Nghề chuyên ngành hẹp
Đó là những nghề chỉ đòi hỏi một nhóm thao tác nhỏ
nhất định trong toàn bộ quy trình làm ra sản phẩm (ví dụ :
thợ đóng gạch trong sản xuất gạch, thợ đốt lò trong nghề lái
tàu hỏa ).
Cũng với cách phân loại thứ hai, các nghề còn được
phân chia theo các dạng công cụ lao động, hoặc là theo các
thuộc
tính của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc
dân (ví dụ các nghề trong công nghiệp dệt, công nghiệp
thực phẩm, hoặc là các nghề trong một tổ hợp các lĩnh
vực như thợ nguội, sửa chữa điện , thường cố mặt trong
nhiều linh vực của nền kinh tế quốc dân) .
3. Hệ thống hướng nghiệp và cấu trúc của hệ thống
3.1. Tiếp cận hệ thống trong khi xây dựng hệ thống
hướng nghiệp
Trong ba thập niên trở lại đây, tiếp cận hệ thống trong
nghiên cứu khoa học được nhiều tác giả coi như quan điểm
cơ bản có tính phương pháp' luận cơ bản (5).
Quan điểm tiếp cận hệ thống giúp chúng ta khả năng
xem xét toàn diện các hiện tượng nghiên cứu, phát hiện các
cấu trúc và sự phát triển trong mối liên hệ giữa các thành
phần cấu trúc của hệ thống. Chính vì lẽ đó, tiếp cận hệ
thống không chỉ cho ta biết những dấu hiệu bên ngoài mà
cả những dấu hiệu bản chất bên trong của hiện tượng cần
nghiên cứu. Với ưu thế như vậy, quan điểm tiếp cận hệ
thống đã được vận dụng vào việc nghiên cứu các linh vực

của hoa học tự nhiên cũng như những lĩnh vực khác nhau
của khoa học xã hội, trong đó có vấn để hướng nghiệp.
- Hướng nghiệp xét dưới tư cách là một hệ thống giáo
dục xã hội, mặc dù mang tính độc lập tương đối về mặt lý
luận, song nó được hình thành ở gianh giới của các khoa
học : giáo dục học, tâm lý học, xã hội học, kinh tế học, triết
học và y tế học. Dựa trên quan điểm tiếp cận hệ thống,
chúng ta sẽ nhìn nhận hướng nghiệp trong mối quan hệ hữu
cơ giữa nó (hệ thống hướng nghiệp) với giáo dục học
(hướng nghiệp trong quá trình giáo dục), với tâm lý học
(phát hiện, bồi dưỡng và điều chỉnh nhu cầu, hứng thú và
năng lực nghề nghiệp của thanh thiếu niên), với kinh tế học
(hiệu quả kinh tế của công tác hướng nghiệp), xã hội học
(điều chinh, phân lượng nguồn lao động dự trữ của đất
nước), y học (xem xét và điều chỉnh năng lực thích ứng của
cá nhân với nhu cầu đòi hỏi về mặt sinh học của nghề
nghiệp) và triết học (sự phát triển biện chứng về nhận thức
nghề của tuổi trẻ với các quy luật tồn tại khách quan của xã
hội) v.v với quan điểm tiếp cận hệ thống, vấn đề xây dựng
lý luận hướng nghiệp và tổ chức công tác hướng nghiệp
phải được xem xét toàn diện từ mục đích chung, mục đích
riêng của một thành phần chức năng và cấu trúc của toàn hệ
thống, nội dung và hình thức tổ chức các hoạt động hướng
nghiệp. dưới đây, chúng ta sẽ xem xét những vần để cơ bản
nhất có trong hệ thống hướng nghiệp.
Nói tới công tác hướng nghiệp là nói tới uá triìndẫn
dắt sự phát triển nhân cách chia từng con nghẹườiheo
những mô hạnìnnhân cách nghề nghiệp 'c thể. Trên đểthếiới
cố óàng nghìn nghé,ềbao gớmồhàng chục nghìn chuyên mở
ônhác nhau. Những nghệ ềhác nhau về nội dung, hình thức,

tính chất điều kiện lao động. Nhân cách con nóngườiao giờ
cũng là một chỉnh thể với một cấu trúc tâm ~ lýác định. Sự
phát triển nhân cách một cách toàn diện, hiểu theo một ý
nghĩa nào đó, là phát triển các mặt khác nhau của nhân
cách. Môi nhân cách có thể ' bao gồm 4 cấu trúc nhỏ là xu
hướng ; kinh nghiệm ; đặc điểm của các quả trình phân ánh
tâm lý ; đặc điểm về khí chất giới tính, qua tuổi và bệnh lý.
Sự phù hợp của một con người cụ thể bao giờ cũng thể
hiện. sự phù hợp, đồng bộ những đặc điểm trong cơ 4 cấu
trúc nói trên của nhân cách với yêu cầu của một nghề nào
đó. Tuy nhiên cần phải thấy rằng không phải bao giờ cũng
có Bự phù hợp giữa những cấu trúc này của cá nhân với
nhu cầu xã hội. Giữa chúng ta có thể diễn ra xung đột tạm
thời và bản thân mới thành phần của mối quan hệ luôn luôn
có sự biến đối, phát triển dưới tác động của cách mạng xã
hội, của giáo dục cũng như sự rèn luyện của bạn thân. Như
vậy, công tác hướng nghiệp không chỉ dựa vào sự phù hợp
ngẫu nhiên giữa các cấu tác nhân cách và nhu cẩu xã hội
(trong đó có nhu cầu nghề nghiệp) mà điều quan trọng hơn
là phải tạo ra được sự phù hợp nghề trên cơ sở giáo dục và
dạy học, mở ra các khả năng sử dụng hợp lý nguồn lao
động của đất nước. Chính vì thế công tác hướng nghiệp
phải được tiến hành liên tục và lâu dài. Tùy thuộc và đặc
trưng của từng giai đoạn phát triển cá nhân mà trong cả tiến
trình lâu dài, liên tục này. công tác hướng nghiệp bao hàm
trong đó những nội dung, biện pháp tiến hành khác nhau
nhằm đạt tới những mức độ xác định. Dựa trên cách hiểu
như vậy , căn cứ trên những giai đoạn phát triển của cá
nhân, ta có thể đề cập tới một số thành phấn chủ yếu tạo
nên cấu trúc của khái niệm hướng nghiệp như sau.

3.2. Giới thiệu và tuyên truyền nghề
Đây là nội dung nhằm giúp cho học sinh quen biết với
một số lượng nghề nhất đỉnh, tiêu biểu cho những linh vực
quan trọng nhất của hển kinh tế quốc dân và của địa
phương trong giai đoạn hiện nay. Nội dung của giới thiệu
và tuyên truyền không dừng lần ở hình thúc bẽn ngoài của
nghề nghiệp mà phải mang lại cho học sinh những hiểu biết
đặc trưng cơ bàn và những yêu cầu của nghề đối với con
người. Giới thiệu và tuyên uyển nghe còn có mục đích giáo
dục cho học sinh ý thức và hứng thú đối với lao động xã
hội nói chung và đối với một nghề, một lĩnh vực nói riêng.
1. Góp ý nghề (hoặc tư vấn nghề)
Để có thể giúp cho học sinh lựa chọn nghề một cách
hợp lý khoa học, cần thiết phải làm cho các em hiểu rõ
những đặc điểm khách quan và chủ quan mà nghề nghiệp
đòi hỏi.
Có liên quan tới những điều kiện khách quan đó là
nhu cầu phân bố lực lượng lao động dữ trữ của xã hội, của
từng địa phương theo từng lĩnh vực kinh tế ; đó là những
đòi hỏi của bạn thân nghề nghiệp đình lựa chọn đối với cá
nhân.
Còn những điều kiện chủ quan phải kể tới sở thích,
khuynh hướng, năng lực đối với một dạng lao động, một
nghề nào đó, đồng thời đó cũng là tình trạng sức khỏe, đặc
điểm giới tính
Do đó, khi tiến hành công tác hướng nghiệp, nhất
thiết phải nghiên cứu một cách cố hệ thống tất cả nhưng
điều kiện khách quan và chủ quan trên để cố thể chỉ cho
từng học sinh thấy rõ những cơ sở khoa học và hợp lý khi
chọn lựa nghề. Như vây góp ý nghề là hệ thống các biện

pháp y học, tâm lý sư phạm, nhằm phát triển chèn đoán và
đánh giá sự phắt triển chủ quan, khách quan của con người
và môi trường hoạt động của con người, nhằm giúp cho thế
hệ trẻ có cơ sở khoa học. Góp ý nghề là chỗ dựa của học
sinh, cho gia đình các em và các cơ quan tuyển chọn làm
tốt công tác hướng nghiệp.
2. Tuyển chọn nghề
Là xác đính sự phù hợp hay không phù hợp của con
người đối với một lĩnh vực lao động, một nghề hay một
chuyên môn nào đố. Trong quá trình tuyển chọn, con người
trở thành đối tượng xem xét của các cán bộ chuyên môn
theo các chỉ tiều cần thiết về y học, trình độ học vấn, giáo
dục, giới tính và những chỉ tiêu khác.
3. Thích ứng nghề
Đây là nội dung nằm trong giai đoạn cuối cùng và
cũng là giai đoạn cuối cùng của công tác hướng nghiệp.
Thích ứng nghề là quá trinh đưa dấn con người vào
lao động nghề nghiệp, là thời kỳ chuyển thanh niên sang
hình thái cán bộ hoặc công nhân có tay nghề. Sự chuyển
biến này diễn ra ở các mặt phát triển của cá nhân (thể lực,
tâm lý, tay nghề, kinh nghiệm sống, đạo đức ). Toàn bộ
quả trình thích ứng nghề được diễn ra theo thứ tự ứng với
các mức độ Bầu : - Thích ứng với môi trường dạy nghề
(thích ứng ban đầu). Ở mức độ này, ở học sinh xuất hiện sự
tự đánh giá để xem xét quyết đỉnh học nghề của mình có
đúng hay không, trên cơ sở đó mà hình thành thái độ han
đầu với nghề, với các hoạt động học tập, sinh hoá và sản
xuất của một trường nghề. Cũng trong giai đoạn này, học
sinh tự tìm cho mình sức hấp dẫn của nghề nghiệp, thử so
sánh giữa ước mơ cũ và hiện thức để xây dựng niêm tin.

Do tính chất mới mẻ này của sự phát triển tâm lý sức hấp
dẫn của nghề nghiệp phụ thuộc không nhỏ vào cách cư xử
ban đầu của cơ sở đào tạo nghề nghiệp hoặc là gây cho các
em những ấn tượng tốt đẹp, giúp các em có được một thích
ứng thuận chiều theo môi trường mới, hoặc là phá vỡ hy
vọng và niềm tin, buộc các em phải tìm tới một sự thích
ứng mới.
- Nắm vững nghề. Việc nắm vững nghề được thực
hiện thông qua quá trình tiếp xúc với các môn văn hóa kỹ
thuật cơ sở, chuyên môn và thực hành sản xuất. Mức độ
thích ứng này diễn ra lâu dài và chiếm một vai trò to lớn, ấn
tượng về nghề được biểu lộ cụ thể bằng kết quả học tập,
thử thách tay nghề. Chính kết quả cụ thể gây tác động trực
tiếp đến sự bồi đắp hay hao mòn lý tưởng nghề nghiệp.
- Nắm vững tay nghề trong môi trường sản xuất. Đây
là giai đoạn thử thách thực sự để có thể trở thành người sản'
xuất thực thụ. Từ thực tiễn sản xuất và thông qua mối quan
hệ qua lại giữa học sinh với cán bộ, công nhân làm việc tại
cơ sở sản xuất, các em tự đặt mình vào khuôn khổ, nỗ lực
về tay nghề, ảnh hưởng đậm nét về phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp của những người thợ xung quanh. Chính mối
quan hệ phức tạp này làm cho quá trình thích ứng trở nên lý
thú nhưng cũng không kém phần rắc rối, nó có thể gây nên
những biến đổi rõ rệt về lý tưởng nghề nghiệp.
Cả ba mức độ thích ứng chúng ta vừa xét có quan hệ
mật thiết với nhau, kết tiếp nhau, tạo thành một quá trình
thích ứng hoàn chỉnh tác động vào giai đoạn cuối cùng
trong công tác hướng nghiệp.
Trường phổ thông chúng ta đang dần từng bước
chuyển sang thành trường thống nhất, phổ thông, lao động,

kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và có phần dạy một số
nghề đơn giản, truyền thống của địa phương. Chính vì vậy

×