Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Luận văn Nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống của sinh viên trường đại học Hồng Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.91 KB, 33 trang )

I. MỞ ĐẦU
Sinh viên là lực lượng xã hội to lớn, là nguồn lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát
triển xã hội hiện tại và là người chủ tương lai của đất nước. Đây là giai đoạn mà mỗi
cá nhân đang bắt đầu quá trình chủ động, tích cực tham gia vào đời sống xã hội. Họ có
vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước.
Tuy nhiên phần lớn sinh viên hiện nay, do sự thay đổi môi trường sống từ
nông thôn lên thành thị, từ trường phổ thông lên đại học, từ cuộc sống gia đình
sang cuộc sống tự lập… nên các em gặp phải rất nhiều khó khăn: vấn đề thích nghi
với môi trường nhà trọ; sự thay đổi nội dung, phương pháp học tập; cách quản lý
thời gian, chi tiêu trong cuộc sống; giao tiếp với các bạn ngoài tỉnh; học cách từ
chối với các tệ nạn xã hội
Kĩ năng sống có vai trò rất quan trọng, là một trong những yếu tố góp phần
rèn luyện, hình thành cho sinh viên sống có trách nhiệm hơn và biết lựa chọn cách
ứng xử phù hợp trong cuộc sống; thúc đẩy hành vi mang tính xã hội, giảm bớt tỷ lệ
phạm pháp. Giáo dục kĩ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở, sự hứng
thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
Ở trường Đại học Hồng đức, sinh viên vẫn còn thiếu hụt những kĩ năng
sống cơ bản và các em luôn mong muốn được giáo dục kĩ năng sống để nâng
cao vốn KNS của bản thân. Tuy nhiên, trong trường Đại học Hồng Đức hiện nay
vẫn chưa có chương trình cũng như các khóa học chuyên sâu về kĩ năng sống
cho các em, do đó chưa đáp ứng được nhu cầu được giáo dục KNS của các em.
Với những lý do trên tôi quyết định chọn vấn đề “Nhu cầu được giáo dục kĩ năng
sống của sinh viên trường đại học Hồng Đức” để nghiên cứu.
II. NỘI DUNG
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Nhu cầu
1.1.1. Khái niệm nhu cầu
Vấn đề nhu cầu đã được nhiều nhà TLH nghiên cứu, và cho đến nay cũng có
rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhu cầu.
Theo Từ điển TLH của Nguyễn Khắc Viện thì nhu cầu là “Điều cần thiết để
bảo đảm tồn tại và phát triển. Được thỏa mãn thì dễ chịu, thiếu hụt thì khó chịu,


1
căng thẳng, ấm ức. Có nhu cầu của cá nhân, có nhu cầu chung của tập thể, khi hòa
hợp khi mâu thuẫn; có nhu cầu cơ bản, thiết yếu, có thứ yếu, giả tạo. Nhu cầu do
trình độ phát triển của XH mà biến đổi”.
Khi tìm hiểu về bản chất của nhu cầu con người, các nhà tâm lý học đều xem
xét nó với tư cách là nguồn gốc tích cực nhân cách. Vấn đề này đã gây tranh cãi sôi
nổi, gay gắt nhiều năm, đặc biệt vào đầu thế kỷ XX. Quan điểm về nguồn gốc tích
cực của nhân cách của con người đã gắn liền với hệ thống quan điểm của S.Frued –
nhà phân tâm người Áo ( 1850 – 1939).
Theo quan điểm của S.Frued nhu cầu của con người được coi như một sức
mạnh sinh học, sức mạnh tự nhiên, tương tự với các bản năng sinh vật. Chủ nghĩa
S.Frued mới ra đời nhấn mạnh sự phụ thuộc của cá nhân vào hoàn cảnh. Chính vì
thế họ không giải thích được những nguyên nhân xuất phát gây ra hoạt động của
con người trước hoàn cảnh đã được sinh ra như thế nào trong mối quan hệ tác động
qua lại giữa cá nhân và hoàn cảnh. Đây là điểm hạn chế trong quan điểm của các
nhà S.Frued mới về vấn đề nhu cầu.
Theo A.N. Leonchiev (1903 – 1979) thì nhu cầu là một trạng thái của con
người, cần một cái gì đó cho cơ thể nói riêng, con người nói chung sống và hoạt
động. Nhu cầu luôn có đối tượng, đối tượng của nhu cầu là vật chất hoặc tinh
thần, chứa đựng khả năng thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu có vai trò định hướng
đồng thời là động lực bên trong kích thích hoạt động của con người.
Theo Giáo sư – Viện sĩ Phạm Minh Hạc: “Nhu cầu bao giờ cũng là nhu
cầu về một cái gì đó. Nhu cầu chỉ có được chức năng hướng dẫn khi có sự gặp
gỡ giữa chủ thể và khách thể”. Nhu cầu là thành tố quan trọng tạo nên xu hướng
nhân cách của cá nhân, cùng với các thành tố khác như hứng thú, niềm tin, thế
giới quan, lý tưởng thì nhu cầu là sự bộc lộ ra bên ngoài của xu hướng.
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các khái niệm khác nhau về nhu cầu và trong
khuôn khổ của đề tài chúng tôi sử dụng định nghĩa của GS.TS. Nguyễn Quang
Uẩn: Nhu cầu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh,
là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển.

2
1.1.2. Đặc điểm của nhu cầu
- Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng: Khi chủ thể gặp đối tượng được ý thức
là có giá trị để thỏa mãn nhu cầu của mình và có điều kiện thực hiện phương thức
thỏa mãn thì nhu cầu đó trở thành động cơ thúc đẩy chủ thể hoạt động nhằm vào
đối tượng. Đối tượng của nhu cầu càng được xác định cụ thể, ý nghĩa của nhu cầu
đối với đời sống cá nhân và đời sống XH càng được nhận thức sâu sắc thì nhu cầu
càng nhanh chóng được nảy sinh, củng cố và phát triển. Đối tượng của nhu cầu
nằm ngoài chủ thể, đồng thời là cái chứa đựng khả năng thỏa mãn nhu cầu. Bản
thân đối tượng đáp ứng nhu cầu luôn tồn tại một cách khách quan và không tự bộc
lộ ra khi chủ thể tiến hành hoạt động. Khi đối tượng của nhu cầu được chủ thể ý
thức thì nhu cầu thực sự là một sức mạnh nội tại, sức mạnh tâm lý kích thích và
hướng dẫn hoạt động.
Tính đối tượng của nhu cầu được xuất hiện trong hoạt động có đối tượng của
chủ thể. Nhu cầu với tư cách là một năng lực hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động khi
được “đối tượng hóa” là điều kiện nảy sinh tâm thế. Với ý nghĩa đó, nhu cầu thực
sự là một cấp độ của phản ánh tâm lý, ở cấp độ này, nhu cầu được phát triển thông
qua sự phát triển nội dung đối tượng của nhu cầu. Đây chính là đặc điểm đặc trưng
của nhu cầu ở con người.
- Nhu cầu có tính ổn định: Trong xu thế vận động, nhu cầu có thể xuất hiện
lặp đi lặp lại (thông thường ở mức độ cao hơn) khi sự đòi hỏi gây ra nhu cầu tái
hiện. Tính ổn định của nhu cầu được thể hiện bởi tần số xuất hiện một cách thường
xuyên, liên tục. Tính ổn định của nhu cầu thể hiện ở cấp độ cao của nhu cầu: cấp độ
tâm lý, nhu cầu là một thuộc tính tâm lý. Nhu cầu càng phát triển ở mức độ cao thì
càng ổn định, càng bền vững.
- Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy
định. Kết quả nghiên cứu của Đacuyn cho thấy: Nếu chỉ dùng một loại lá cây để
nuôi một loại sâu thì sau này con sâu đó không ăn loại lá cây khác, mặc dù loại lá
cây đó rất thích hợp cho việc nuôi sống nó. Mọi nhu cầu đều là hình thức đặc biệt
của sự phản ánh những điều kiện sống bên ngoài.

Nội dung của nhu cầu còn phụ thuộc vào phương thức thỏa mãn nó. C. Mác
viết: “ Đói là cái đói song cái đói được thỏa mãn bằng thịt chín với cách dùng dao
3
và nĩa thì khác hẳn với cái đói bắt buộc phải nuốt bằng thịt sống với cách dùng tay,
móng và răng”.
- Nhu cầu có tính chu kì: khi một nhu cầu nào đó được thỏa mãn không có
nghĩa là nhu cầu ấy đã chấm dứt mà nó chỉ tạm thời lắng xuống sau một thời gian
lại tiếp tục tái diễn, nếu người ta vẫn còn sống và phát triển trong điều kiện và
phương thức sinh hoạt kiểu cũ, sự tái diễn đó thường có tính chất chu kì. Tính chất
chu kỳ này là do sự biến đổi có tính chất chu kỳ của hoàn cảnh xung quanh và của
cơ thể gây ra.
- Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật: nhu cầu
của người mang bản chất xã hội. Điều này được thể hiện ở đối tượng, phương thức
thỏa mãn nhu cầu, tính ý thức trong việc thỏa mãn nhu cầu.
1.1.3. Các mức độ của nhu cầu
Mức độ nhu cầu là độ gay gắt đòi hỏi về một đối tượng nào đó thể hiện ở
việc chủ thể ý thức được trạng thái thiếu thốn của chủ thể, đối tượng và phương
thức thỏa mãn nó.
Nhu cầu có thể tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau, mỗi tác giả lại có cách
phân chia mức độ nhu cầu khác nhau.
- Theo X.L. Rubinstein sự phát triển của nhu cầu trải qua ba mức độ: ý
hướng, ý muốn, ý định.
+ Ý hướng: là bước khởi đầu của nhu cầu. Ở mức độ này nhu cầu chưa được
phản ánh đầy đủ, rõ ràng vào trong ý thức của con người. Ở ý hướng, chủ thể mới ý
thức được trạng thái thiếu hụt của bản thân về một cái gì đó nhưng chưa ý thức
được nó là gì.
+ Ý muốn: ở mức độ ý muốn chủ thể đã ý thức được đối tượng chứa đựng khả
năng thỏa mãn nhu cầu. Mục đích của hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu, nghĩa là lúc
này chủ thể ý thức được đối tượng của nhu cầu và cả về mục đích động cơ hoạt động
nhằm thỏa mãn nhu cầu.

+ Ý định: là mức độ cao nhất của nhu cầu. Lúc này chủ thể đã ý thức đầy đủ
cả về đối tượng cũng như cách thức điều kiện nhằm thỏa mãn nhu cầu; xác định rõ
khuynh hướng của nhu cầu và sẵn sàng hành động. Ở mức độ ý định, nhu cầu đã có
hướng và đã được động cơ hóa, xuất hiện tâm thế sẵn sàng hành động.
4
- Căn cứ vào tính tích cực, nhu cầu biểu hiện ở ba mức độ: lòng ham muốn,
lòng say mê, đam mê.
Lòng mong muốn là mức thấp nhất, là nhu cầu có cường độ rất yếu ớt, chưa đủ
sức mạnh để thúc đẩy con người hoat động, hoặc có thì cũng rất mờ nhạt, dễ bỏ cuộc
giữa chừng. Nếu đó là những mong muốn đúng đắn thì chúng ta cần khơi gợi, khuyến
khích để nó nâng cao, trở nên mạnh hơn, rõ hơn. Nếu là những nhu cầu không lành
mạnh thì cần phải tìm cách ngăn chặn, chuyển hướng nó sang khía cạnh tích cực.
Lòng say mê là mức độ thứ hai với cường độ khá mãnh liệt của nhu cầu. Nó
có sức mạnh lớn lao thúc đẩy con người hoạt động tích cực, hăng hái, nhiệt tình.
Lúc này, nhu cầu đã chuyển hóa thanh tình cảm khá mãnh liệt, khiến cá nhân yêu
thích, say sưa với đối tượng của nhu cầu. Tuy nhiên, ở mức độ này, hoạt động vẫn
còn chịu sự chỉ huy sáng suốt của tư duy và lý trí vẫn kiểm soát được tình cảm.
Nếu là nhu cầu chân chính, ta nên khuyến khích, giúp đỡ để nhu cầu để thỏa mãn
và phát triển cao hơn. Ngược lại, với nhu cầu sai trái ta cần điều chỉnh, ngăn chặn.
Đam mê là nhu cầu ở mức độ rất cao, vượt ngưỡng và gắn bó với đối tượng
tới mức không thể thiếu, bất chấp ngoại cảnh, thậm chí mất đi sự soi sáng của lý trí.
1.1.4. Sự hình thành nhu cầu
Quan điểm về sự hình thành nhu cầu có điểm khác nhau giữa các nhà TLH
phương Tây và các nhà TLH Macxit.
Các nhà TLH phương Tây cho rằng nhu cầu sinh vật sẽ quyết định nhu cầu
XH. Nhu cầu sinh vật là cơ bản và có nguồn gốc bẩm sinh, con người không thể ý
thức và can thiệp được bằng ý chí.
A.N. Leonchiev và các nhà TLH Macxit khẳng định mối quan hệ chặt chẽ
giữa nhu cầu và hoạt động: “Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực của hoạt
động, nhưng bản thân nhu cầu lại được nảy sinh, hình thành và phát triển trong

hoạt động”.
A.N. Leonchiev đã đưa ra sơ đồ giải thích mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt
động: Hoạt động – Nhu cầu – Hoạt động. Ông giải thích như sau: “Thoạt đầu nhu
cầu chỉ xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Nhưng ngay khi
chủ thể bắt đầu hành động thì lập tức xảy ra sự biến hóa của nhu cầu và sẽ không
còn giống như khi nó tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nó” nữa. Sự phát triển
5
của hoạt động này đi xa bao nhiêu thì cái tiền đề này của hoạt động (tức là nhu cầu)
cũng chuyển hóa bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động”.
Ông cho rằng bởi vì bản thân thế giới đối tượng đã hàm chứa tiềm tàng
những nhu cầu, nên trong quá trình chủ thể hoạt động tích cực, tất yếu sẽ nhận thức
được những yêu cầu, đòi hỏi phải được đáp ứng để tồn tại và phát triển, tức là xuất hiện
nhu cầu mới. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, loài người một mặt thỏa mãn
nhu cầu hiện tại, đồng thời lại xuất hiện nhu cầu mới, vì thế con người không ngừng
tích cực hoạt động lao động sản xuất qua đó thúc đẩy XH phát triển. (Leonchiev,
1989).
Để kích thích nhu cầu hình thành ở một đối tượng nào đó, chúng ta phải làm
cho chủ thể có cơ hội làm quen với đối tượng, thực hiện hoạt động với đối tượng,
chính trong quá trình trải nghiệm đó chủ thể sẽ có cơ hội và điều kiện để thấy được
vai trò, ý nghĩa của đối tượng đối với cuộc sống của bản thân, từ đó mà hình thành
mong muốn về đối tượng và nhu cầu sẽ dần dần xuất hiện.
1.1.5. Vai trò của nhu cầu
Nhu cầu có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của con người. Con
người không thể tồn tại mà thiếu nhu cầu, trước hết là những nhu cầu vật chất
tối thiểu như ăn, mặc, ở. C. Mác viết: “ Người ta phải có khả năng sống đã rồi
mới làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được trước hết phải có thức ăn, thức
uống, nhà ở, quần áo”. Sự thỏa mãn nhu cầu là động lực thúc đẩy hoạt động
của mỗi cá nhân và tập thể. Nhu cầu quy định xu hướng lựa chọn ý nghĩ, tình
cảm và ý chí của con người. Mặt khác, nhu cầu quy định và tích cực hóa hoạt
động của con người.

Nhu cầu chính là nguồn gốc, động lực thúc đẩy hoạt động và là một trong những
động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chủ thể hoạt động nói chung và thực hiện các hành vi ý chí
nói riêng. Nhu cầu này được thỏa mãn, kích thích bị dập tắt, đồng thời xuất hiện nhu
cầu mới với những kích thích mới. Trong mỗi con người đều tồn tại một hệ thống nhu
cầu. Nhu cầu nào lớn hơn sẽ chi phối các nhu cầu khác và “đòi” con người phải đáp ứng
nhu cầu đó. Trong cùng một thời điểm, con người không thể thỏa mãn được đầy đủ các
nhu cầu. Nhu cầu bao gồm những thang bậc, trình độ khác nhau làm cơ sở cho sự tồn
tại, phát triển của con người. Có nhu cầu tích cực, thúc đẩy con người phát triển theo
6
hướng tích cực. Nhu cầu tiêu cực kìm hãm sự phát triển, đưa con người đến sự suy
thoái.
Nhu cầu thể hiện xu hướng có sự lựa chọn, các ý nghĩ, các rung cảm, và ý
chí của con người. Nó quy định các hoạt động XH của cá nhân và các nhóm XH.
Nhu cầu sống và phát triển của cá nhân và các nhóm XH là một tất yếu. Nhu cầu
xuất hiện, con người “đòi” phải được thỏa mãn. Quá trình “đòi” thỏa mãn nhu cầu
là quá trình thôi thúc con người hành động hướng tới sự phát triển toàn diện.
1.2. Khái niệm kĩ năng sống
Thuật ngữ KNS được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương trình của
UNICEF (1996) “GDKNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh
thiếu niên trong và ngoài trường”. Quan niệm về KNS trong chương trình này chỉ
bao gồm những KNS cốt lõi như: KN tự nhận thức, KNGT, KN xác định giá trị, KN
ra quyết định, KN kiên định, KN đặt mục tiêu … hướng vào các chủ đề GD.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về KNS, có thể kể tới một số quan niệm sau:
* Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc (viết tắt là
UNESCO) có quan niệm coi KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày, đồng thời coi KNS gắn với 4 trụ
cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know); Học để làm (Learning to
do); Học để chung sống với người khác (Learning to live together); Học để tự
khẳng định (Learning to be).
* Tổ chức y tế thế giới (viết tắt là WHO) từ góc độ sức khỏe xem KNS là

những KN thiết thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh.
Rộng hơn, KNS là những năng lực mang tính tâm lý xã hội và KN về GT để tương
tác hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình
huống của cuộc sống hàng ngày.
* Theo Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp
thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về
tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và KN.
Kế thừa các quan điểm của các tổ chức quốc tế, ở Việt Nam trong một số tài
liệu viết về KNS, một số tác giả quan niệm về KNS như sau:
* Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn, KNS là những KN tinh thần hay những KN
7
tâm lý, KN tâm lý xã hội cơ bản giúp cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống.
* Tác giả Nguyễn Thanh Bình (Viện Nghiên cứu sư phạm – ĐHSP Hà Nội)
quan niệm “KNS nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức – “cái chúng ta biết”
và thái độ, các giá trị - “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng” thành hành vi
thực tế - “làm cái gì và làm cách nào” một cách tích cực nhất và mang tính chất
xây dựng.
* Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn: “KNS là một tổ hợp phức tạp của một hệ
thống các KN nói lên năng lực sống của con người, giúp con người thực hiện công
việc và tham gia vào cuộc sống hàng ngày có kết quả trong những điều kiện xác
định của cuộc sống”
Trên cơ sở kế thừa một số quan niệm về KNS, chúng tôi quan niệm KNS như sau:
“KNS là những khả năng tâm lý – xã hội cơ bản và cần thiết được cá nhân
sử dụng để ứng phó hiệu quả trước những yêu cầu, thách thức của cuộc sống
hàng ngày nhằm đảm bảo cho cá nhân hòa nhập và có một cuộc sống thuận lợi,
có ý nghĩa”.
1.3. Giáo dục kĩ năng sống
1.3.1. Khái niệm giáo dục kĩ năng sống
GD KNS là GD cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những
hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi thói quen tiêu cực, trên cơ sở giúp

cho người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ, và các KN thích hợp GDKNS có
mục tiêu chính là làm thay đổi hành vi của người học từ thói quen thụ động, có thể
gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực, chuyển thành hành vi mang tính xây dựng
tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát
triển bền vững cho xã hội.
GDKNS cho người học thông qua 2 con đường cơ bản:
- Xây dựng và thực hiện các chương trình KN chuyên biệt ( hệ thống các chủ
đề) cho từng đối tượng với mục tiêu cụ thể.
- Tiếp cận KNS trong toàn bộ quá trình GD và đào tạo.
1.3.2. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho SV
- Giáo dục khả năng thích ứng của con người trước những thay đổi liên tục
của cuộc sống hàng ngày để họ chủ động và sáng tạo trong mọi hành động.
8
- Giáo dục năng lực tư duy sáng tạo, phê phán và năng lực tự đánh giá bản
thân, tự khẳng định mình.
- Giáo dục cách sống với người khác mình.
- Giáo dục về bảo vệ môi trường và sự an toàn của trái đất.
- Giáo dục về sức khỏe và phòng chống các tệ nạn xã hội.
- Giáo dục lối sống lạc quan yêu đời.
Việc xác định nội dung giáo dục kĩ năng sống căn cứ vào đặc điểm tâm sinh
lý của đối tượng, môi trường sống, nhu cầu giao tiếp, khẳng định bản thân, v.v…
1.4. Sinh viên và Nhu cầu giáo dục kĩ năng sống của sinh viên
1.4.1. Sinh viên và các đặc điểm tâm lý của sinh viên
Sinh viên là người đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng. Thuật ngữ
sinh viên có nguồn gốc từ tiếng La – tinh “Student” có nghĩa là người học tập, làm
việc tìm kiếm tri thức. Sinh viên là nhóm xã hội có vai trò, vị trí đặc biệt là nguồn bổ
sung lực lượng lao động có trình độ cao cho đất nước. Học đại học khác rất nhiều so
với học ở trường phổ thông. Vì vậy, tâm lý của người sinh viên đã có sự thay đổi.
* Đặc điểm nhận thức của sinh viên trong học tập
Lứa tuổi sinh viên nổi bật ở độ chín của những điều kiện tâm lí trong hoạt

động trí tuệ và nhận thức. Các em thể hiện tính độc lập và logic trong tư duy, các
lập luận, phân tích, so sánh và khái quát hóa cũng tương đối định hình, có định
hướng khá rõ nét. Sinh viên có kinh nghiệm nhận thức khá hệ thống nhờ đã trải qua
trường phổ thông và đang học tập ở trình độ cao tại cao đẳng. Về phương diện nhận
thức thuần túy, các em hoàn toàn tiếp nhận được và hiểu sâu sắc những vấn đề của
cuộc sống cá nhân và xã hội, trong đó có những vấn đề giá trị và lối sống, quan hệ
của đời sống cá nhân với đời sống kinh tế, chính trị, pháp luật, đạo đức và văn hóa
của cộng đồng.
Do có kinh nghiệm khá phong phú về giao tiếp nên nhận thức của sinh viên
không chỉ hạn hẹp ở hoạt động học tập cá nhân miệt mài, biệt lập, đọc và nghiên
cứu sách vở, mà còn diễn ra rất mạnh trong các hình thức hợp tác, chia sẻ, trao đổi
với bạn bè. Đây là điểm ưu thế của lứa tuổi. Tư duy phê phán cũng là nét đặc trưng
của lứa tuổi sinh viên, nhất là khi tiếp nhận những vấn đề xã hội như đạo đức, văn
hóa, chính trị, kinh tế và quan hệ bạn bè (nhất là tình yêu – quan hệ luyến ái), và
9
phần nào về những vấn đề học thuật, nghề nghiệp tương lai. Về nghề nghiệp với
nghĩa chuyên môn tuy các em chưa quan tâm sâu sắc, song việc làm và vị trí kinh
tế của nó luôn là vấn đề nóng bỏng trong ý thức và tình cảm của sinh viên hiện nay.
* Đặc điểm xã hội của sinh viên trong học tập
Sinh viên có sự phát triển tự ý thức rất cao trong quan hệ xã hội. Các em có khả
năng đánh giá được những mặt mạnh, mặt yếu của bản thân, khả năng tự điều chỉnh
bản thân theo hướng phù hợp với yêu cầu xã hội khá rõ nét. Sinh viên rất coi trọng cái
đẹp bên trong (tâm hồn) nhưng cũng rất ngưỡng mộ vẻ đẹp hình thức và những hành
vi xã hội thời thượng, sôi nổi, có tính công chúng, và những gì có liên quan đến sự nổi
tiếng, công danh, tình cảm, quan hệ xã hội rộng, các phong trào và sinh hoạt cộng
đồng. Một bộ phận không nhỏ sinh viên tỏ ra nhiệt thành với công tác xã hội, hoạt
động nhân đạo, từ thiện, hoạt động văn hóa-nghệ thuật và thể thao quần chúng.
Nhu cầu giao tiếp xã hội của sinh viên rất cao và đa dạng. Học tập là bổn
phận, nhưng giao tiếp với mọi người mới thực sự là nhu cầu nổi bật của các em.
Tuy về nhận thức khá đầy đủ, nhưng kĩ năng giao tiếp với người lớn tuổi hơn vẫn là

chỗ yếu của đa số sinh viên, chủ yếu là thái độ thiếu tự tin, cách ứng xử thiếu hài
hòa, ngôn ngữ thiếu mạch lạc và nhất là hành vi giao tiếp lúng túng.
Khát vọng muốn trở thành người thành đạt trong công việc là một nét đặc
trưng ở lứa tuổi này, song trong học tập rất nhiều sinh viên thực hiện thiếu kiên trì,
thiếu phương pháp nên kết quả chưa cao. Cố gắng học tập để có kết quả cao, sau
khi ra trường có việc làm ổn định và được ở gần nhà là đặc điểm chung của họ. Có
một vấn đề rất mừng nhưng rất lo là sinh viên rất trung thành với nghề mình đã
chọn, trong khi đó cơ hội có việc làm không phải là 100%. Các em đánh giá cao
những nghề và việc làm có ý nghĩa xã hội và có môi trường giao tiếp xã hội phong
phú, phong cách hiện đại.
* Những thách thức trong cuộc sống của sinh viên
Theo tác giả Dương Tự Đam, sinh viên ngày nay phải thường xuyên đối mặt
với cuộc cạnh tranh gay go, quyết liệt của kinh tế thị trường khu vực và toàn cầu,
mà thực chất là cạnh tranh về tài năng, trí tuệ, con người, trong khi đất nước chúng
ta đang còn ở điểm xuất phát rất thấp cả về cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng,
cả về năng lực khoa học công nghệ, kiến thức kĩ năng cơ bản và kinh nghiệm sản
10
xuất kinh doanh, quản lý nhà nước trong tình hình mới. Vị trí, vai trò ấy, sinh viên
và trí thức trẻ phải có trách nhiệm đảm nhận, để từng bước đưa đất nước tiến lên.
Những khó khăn tâm lý liên quan đến bản thân sinh viên như: chưa nhận
thức rõ ràng về giá trị sống, chưa xác định rõ mục đích và ý nghĩa các hoạt động
của bản thân, nên một số sinh viên có lối sống hưởng thụ, tha hóa đạo đức, lười
học, thiếu tu dưỡng,rèn luyện nhân cách…
Những khó khăn tâm lí liên quan đến các quan hệ với người khác, với xã hội
như: dụt dè, ngại giao tiếp, không xác định rõ lý tưởng của mình trong các mối
quan hệ xã hội.
Những khó khăn liên quan đến công việc như: khó tìm việc làm, hoặc làm
việc do thu nhập cao mà không quan tâm xem bản thân có đáp ứng được nhu cầu
công việc, do tâm lí lây lan của một số sinh viên khi ra trường đã gây tâm lí hoang
mang, lo lắng cho các sinh viên khác. Do vậy, cần giáo dục kĩ năng sống cho sinh

viên giúp các em xác định giá trị sống phù hợp.
1.4.2. Nhu cầu giáo dục kỹ năng sống của sinh viên
Hầu hết học sinh, sinh viên ngày nay đều có nhu cầu được trang bị những
kiến thức, kĩ năng cần thiết để tích cực, chủ động và linh hoạt hơn trong mọi hoạt
động của mình. Nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống càng được bộc lộ rõ rệt hơn
trong các mối quan hệ với thầy cô, bạn bè, cha mẹ, anh chị em. Vậy nhu cầu được
giáo dục kĩ năng sống là gì?
Theo chúng tôi quan niệm về nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống của sinh viên là:
“ Nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống là những đòi hỏi cần được giáo dục
kĩ năng sống cần thiết nhằm giúp sinh viên lĩnh hội hệ thống kĩ năng và cách thức
tiếp cận chúng. Trong quá trình thỏa mãn nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống,
sinh viên sẽ được hoàn thiện những năng lực sống của mình, giúp sinh viên thực
hiện một cách có hiệu quả công việc cũng như trong các mối quan hệ”.
Tóm lại, nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống ở sinh viên là nhu cầu được
giáo dục những kĩ năng sống cần thiết đối với lứa tuổi. Việc thỏa mãn nhu cầu được
giáo dục kĩ năng sống của sinh viên không chỉ đáp ứng yêu cầu về kĩ năng mà còn
đáp ứng yêu cầu về nhận thức cũng như thái độ của các em. Qua đó, giúp các em
11
hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực cần thiết để chủ động, linh
hoạt hơn trong cuộc sống. Vì vậy, cần có những biện pháp phù hợp, kịp thời để
kích thích được nhu cầu của các em.
* Biểu hiện của nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống ở sinh viên.
- Sinh viên có sự thiếu hụt về các kỹ năng trong hoạt động học tập, trong giao
tiếp, trong cuộc sống và các mối quan hệ khác trong cuộc sống cụ thể: khả năng giao
tiếp kém thiếu tính tự chủ, khả năng kiềm chế bản thân chưa tốt, thiếu tự tin…
- Cách thức sinh viên nâng cao KNS cho bản thân:
+ Sinh viên nghiên cứu các nội dung liên quan đến giáo dục kĩ năng sống
( có thể qua sách báo, tài liệu, ti vi, báo đài…) và xuất hiện nhu cầu được giáo dục
kĩ năng sống một cách toàn diện.
+ Sinh viên có tìm kiếm các lớp học, các chương trình giáo dục có liên quan

đến kĩ năng sống.
+ Tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa của nhà trường, trung tâm
giáo dục kĩ năng sống.
+ Sinh viên có mong muốn được học KNS ở mức độ cao, tuy nhiên nhu cầu
của các em vẫn chưa được đáp ứng một cách phù hợp.
1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu giáo dục kĩ năng sống cho sinh viên
a. Yếu tố chủ quan
* Yếu tố di truyền, bẩm sinh
Đây là một yếu tố có ảnh hưởng khá rõ đối với các em SV. Không phải đứa
trẻ nào khi sinh ra cũng được may mắn và đầy đủ các đặc điểm về mặt sinh học. Có
những trẻ sinh ra đã bị khuyết tật một bộ phận hay một chức năng nào đó ảnh
hưởng đến khả năng tự nhận thức của các em, đồng thời ảnh hưởng đến việc hình
thành và phát triển những KNS cơ bản cho các em, cần mất nhiều thời gian và kiên
trì hơn. Ngoài ra những yếu tố mang tính tư chất, kiểu thần kinh cũng ảnh hưởng tới
tính cách, khả năng chịu đựng, kiềm chế cảm xúc của các em.
* Năng lực nhận thức
Năng lực nhận thức ở mỗi cá nhân là khác nhau. Do vậy mới có sự chênh
lệch về học lực hay thành tích học tập giữa các HS. Năng lực nhận thức thể hiện
12
ở: khả năng tập trung chú ý, tri giác, năng lực ghi nhớ, thực hiện các thao tác tư
duy (so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa,…)
Năng lực nhận thức còn được thể hiện thông qua lực học của các em. Những em có
khả năng nhận thức tốt thì học lực sẽ cao hơn so với các em chỉ dừng ở mức trung bình.
* Sự phấn đấu, rèn luyện của bản thân:
Mỗi SV phải có sự tích cực, tự giác, chủ động phấn đấu rèn luyện KNS
cho bản thân nếu không mọi tác động sẽ không mang lại hiệu quả. Nếu sinh viên
nào có ý thức phấn đấu, học hỏi thầy cô, bạn bè và mọi người xung quanh thì em
đó có khả năng giải quyết các tình huống một cách tích cực và hiệu quả. Tuy
nhiên, không phải em nào cũng nhận thức được điều này mà nhà trường và gia
đình cần kết hợp giáo dục để các em nhận thức được điều đó.

b. Yếu tố khách quan
* Môi trường sống văn hóa xã hội
Mỗi vùng miền lại có những sắc thái văn hóa khác nhau, có những đặc
trưng riêng để từ đó tạo nên những khác biệt trong sinh hoạt, lao động, phát triển
cuộc sống. Mỗi dân tộc, vùng miền sẽ có những phong tục, tập quán riêng trong
sinh hoạt, trong phong cách giáo dục gia đình, Sự khác biệt văn hóa giữa các
vùng miền, giữa các dân tộc có ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển KNS
của các em.
* Giáo dục gia đình
Môi trường sống bao gồm cả môi trường sống trong gia đình, có thể nói môi
trường gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và cơ bản nhất đối với các em từ
lúc sinh ra tới khi trưởng thành. Những yếu tố có ảnh hưởng tới sự hình thành và
phát triển KNS của các em trong gia đình như : phong cách GD của cha mẹ tới con
cái, bầu không khí gia đình, mức sống, cách ứng xử giữa các thành viên trong gia
đình, tính cách của cha mẹ,…
*Nhà trường
Ở nhà trường có thể kể đến những yếu tố như: quan hệ giữa GV và SV, giữa
SV với SV, cách GD và quản lý SV, không khí lớp học, môi trường học
đường….Những yếu tố này có ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành và phát
triển KNS của các em.
13
* Bạn bè:
Quan hệ bạn bè ở lứa tuổi này hết sức quan trọng. Các em rất cần có bạn để
chia sẻ niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, qua bạn bè các em cảm thấy thoải mái,
tự tin khẳng định vị trí của mình. Những ưu, nhược điểm từ bạn bè dễ ảnh hưởng
đến các em, mọi yếu tố xã hội bên ngoài khi tác động vào các em đều bị khúc xạ
qua nhóm bạn đó mà phát huy tác dụng. Vì vậy, gia đình cần quan tâm GD và định
hướng cho các em trong việc lựa chọn bạn để chơi, không nên cấm đoán chuyện
quan hệ bạn bè của các em.
* Sự quan tâm của các tổ chức trong xã hội

Trong môi trường xã hội, SV được tham gia các hoạt động mang tính chất
cộng đồng như tham gia lao động công ích, các phong trào đoàn hội,…các em được
tham gia vào những mối quan hệ với nhiều kiểu người khác nhau sẽ ảnh hưởng tới
sự hình thành và phát triển KNS của các em. Môi trường xã hội vừa là nơi chứa
nhiều thuận lợi vừa là nơi chứa đựng những thách thức, tiềm ẩn những nguy cơ lớn
tác động tới nhận thức, tình cảm và hành vi của các em.
Hình thành và phát triển các KNS cho SV là một mục tiêu quan trọng và cần
được áp dụng vào trong các chương trình dạy học và GD ở trường học. Tuy nhiên
áp dụng và triển khai như thế nào thì cần có sự quan tâm, kết hợp của các tổ chức,
cá nhân liên quan. Đó là sự kết hợp giữa lực lượng GD gia đình và nhà trường, sự
hợp tác với các tổ chức quốc tế phi chính phủ để kêu gọi hợp tác, hỗ trợ từ các tổ
chức khác nhau.
2. Thực trạng nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống của sinh viên trường ĐHHĐ
2.1. Nhận thức của sinh viên trường ĐH Hồng Đức về kĩ năng sống
Để tìm hiểu quan niệm về KNS của SV trường ĐHHĐ, chúng tôi tiến hành
thu thập các ý kiến của sinh viên thông qua hình thức điều tra bằng phiếu hỏi, kết
quả thu được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.1. Quan niệm về KNS của sinh viên trường Đại học Hồng Đức
ST
T
Các quan niệm
Xã hội
Tự
nhiên
TLGD
KTQTKD Chung
S
L
%
S

L
%
S
L
% SL %
SL %
14
1
KNS là những KN nhằm bảo vệ
thiên nhiên, môi trường
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
2
KNS gồm các KN nhỏ khác
nhau cần thiết giúp con người
có cuộc sống an toàn, khỏe
mạnh
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
3
KNS là khả năng tự khẳng định mình,
trung thực với bản thân, tự tin, vượt quá
khó khăn
1 1.6 1 2.2 0 0 0 0 2 1
4
KNS là khả năng thích nghi và
hành vi tích cực cho phép cá
nhân có khả năng đối phó hiệu
quả với nhu cầu và thách thức
cuộc sống hàng ngày
4 6.7 5
11.

1
7
15.
6
0 0 16 8.1
5
KNS là tổ hợp các KN liên quan
đến thể chất – tinh thần của con
người nhằm giúp cá nhân hoàn
thiện và chung sống với mọi
người xung quanh
0 0 0 0 6
13.
3
0 0 6 3
6
KNS là những khả năng tâm lý –
xã hội cơ bản và cần thiết được cá
nhân sử dụng để ứng phó hiệu quả
trước những yêu cầu, thách thức
của cuộc sống hàng ngày nhằm
đảm bảo cho cá nhân hòa nhập và
có một cuộc sống thuận lợi, có ý
nghĩa
4
5
75
3
9
86.

7
3
0
66.
7
45 95.7 159 80.7
7
Các quan niệm khác 1
0
6.7 0 0 2 4.4 2 4.3 14 7.2
Tổng
6
0
10
0
4
5
100
4
5
100 47 100
197 100
Qua bảng 1 chúng tôi có nhận xét như sau:
Xu thế chung của sinh viên trường ĐHHĐ là quan niệm rằng: “KNS là
những khả năng tâm lý – xã hội cơ bản và cần thiết được cá nhân sử dụng để ứng
phó hiệu quả trước những yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày nhằm đảm
bảo cho cá nhân hòa nhập và có một cuộc sống thuận lợi, có ý nghĩa”. Thể hiện:
15
có 80.7% sinh viên lựa chọn quan niệm trên. Quan niệm được sinh viên lựa chọn
nhiều thứ 2 chiếm 8.1% là quan niệm: “KNS là khả năng thích nghi và hành vi tích

cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức
cuộc sống hàng ngày”. Trong khi đó thứ nhất và quan niệm thứ 2 không có sinh
viên nào lựa chọn.
Xét riêng từng khoa: Đối với quan niệm được sinh viên lựa chọn nhiều nhất
là quan niệm: “KNS là những khả năng tâm lý – xã hội cơ bản và cần thiết được cá
nhân sử dụng để ứng phó hiệu quả trước những yêu cầu, thách thức của cuộc sống
hàng ngày nhằm đảm bảo cho cá nhân hòa nhập và có một cuộc sống thuận lợi, có
ý nghĩa” có sự khác nhau về tỉ lệ % giữa các khoa. Cụ thể: khoa KTQTKD có tới
95.7% sinh viên; khoa Tự nhiên có 86.7% sinh viên; khoa Khoa học xã hội có 75%
sinh viên và 66.7% sinh viên khoa Tâm lý – Giáo dục lựa chọn quan niệm trên.
Quan niệm được sinh viên lựa chọn nhiều thứ 2 là quan niệm “KNS là khả
năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu
quả với nhu cầu và thách thức cuộc sống hàng ngày”. Thể hiện: có 6.7% sinh viên
khoa Khoa học xã hội, 11.1% sinh viên khoa Tự nhiên và 15.6% sinh viên Khoa
Tâm lý- Giáo dục chọn quan niệm này.
Một số quan niệm“KNS là những KN nhằm bảo vệ thiên nhiên, môi trường”
hoặc “KNS gồm các KN nhỏ khác nhau cần thiết giúp con người có cuộc sống an
toàn, khỏe mạnh” không có sinh viên nào lựa chọn.
Theo chúng tôi, quan niệm về KNS đúng nhất là quan niệm “KNS là những
khả năng tâm lý – xã hội cơ bản và cần thiết được cá nhân sử dụng để ứng phó
hiệu quả trước những yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày nhằm đảm bảo
cho cá nhân hòa nhập và có một cuộc sống thuận lợi, có ý nghĩa”. Bởi vì, đây là
quan niệm đã nói lên được bản chất của KNS cũng như vai trò của nó trong cuộc
sống hàng ngày.
Như vậy, phần lớn các em SV đã có những vốn hiểu biết sâu rộng và chính
xác về KNS chủ yếu dựa trên vai trò của nó trong cuộc sống. Trao đổi với các
em về quan niệm KNS, chúng tôi thấy đa số các em đều cho rằng KNS chính là
những khả năng giúp con người vượt qua những khó khăn, thách thức trong cuộc
sống, hòa thuận với anh chị em, bạn bè, học tập tốt hơn,…
16

Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều em có nhận thức chưa đầy đủ về bản chất của
KNS khi có tới 11.1% sinh viên khoa Tự nhiên và 15.6% khoa Tâm lý – Giáo dục
cho rằng: “KNS là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có
khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức cuộc sống hàng ngày”. Bên
cạnh đó có sinh viên đưa ra quan niệm khác nhau về KNS. Sinh viên N.T.A ( K15
khoa Tâm lý- giáo dục) cho rằng: “KNS là KN giao tiếp và ứng xử với mọi người:
bạn bè, thầy cô, xã hội, hài hòa lợi ích của bản thân và cộng đồng”. Sinh viên L.T.
H khoa Tự nhiên cho rằng: “KNS là KN giải quyết những khó khăn trong cuộc
sống của mình”. Như vậy, cùng một vấn đề song mỗi sinh viên ở mỗi khoa lại có
cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau, qua đó chúng ta đều nhận thấy các em đã có
những hiểu biết và nhận thức nhất định về KNS.
2.2. Nhận thức của sinh viên trường Đại học Hồng Đức về mức độ hiện có của
từng KNS đối với bản thân
Tìm hiểu về thực trạng hiện có KNS của sinh viên, trước hết chúng tôi tìm
hiểu về sự hài lòng của sinh viên với KNS hiện có của bản thân và kết quả thu được
ở bảng sau:
Bảng 2.2: Mức độ hài lòng với KNS hiện có của bản thân sinh viên
trường Đại học Hồng Đức
STT Các mức độ
XH TN TLGD KTQTKD Chung
SL % SL % SL % SL % SL %
1 Rất hài lòng 2 3.3 1 2.2 0 0 2 4.3 5 2.5
2 Hài lòng
16
26.
7
15
33.
3
18 40 15

31.
9
64 32.5
3 Chưa hài lòng
42 70 29
64.
5
27 60 30
63.
8
12
8
65
Tổng
60 100 45 100 45
10
0
47 100
19
7
100
Có thể biểu diễn kết quả nhận thức của SV trường ĐHHĐ về KNS ở bảng số
liệu trên qua biểu đồ 3.1
17
Biểu đồ 2.1. Mức độ hài lòng với KNS hiện có của bản thân sinh viên
trường Đại học Hồng Đức
Chú thích: 1. Rất hài lòng
2. Hài lòng
3.Chưa hài lòng
Kết quả ở bảng 3.2 cho thấy: xu hướng chung của sinh viên trường ĐHHĐ là

chưa hài lòng với KNS hiện có chiếm 65%; mức rất hài lòng chiếm tỉ lệ rất thấp chỉ
có 2.5% trong khi đó mức hài lòng chiếm 32.5%. Điều này chứng tỏ sinh viên hiện
nay vẫn chưa hài lòng với KNS hiện có của bản thân và luôn có nhu cầu được nâng
cao KNS cho bản thân.
Xét riêng từng khoa: phần lớn các em SV đều chưa hài lòng với KNS hiện có
của bản thân, thể hiện có tới 70% sinh viên khoa Khoa học xã hội, 64.5% sinh viên
khoa Tự nhiên; 63.8% sinh viên khoa KTQTKD và 60% sinh viên khoa Tâm lý –
Giáo dục lựa chọn mức độ chưa hài lòng với KNS của bản thân họ.
Mức độ hài lòng chiếm tỉ lệ cao thứ 2 với 26.7% sinh viên khoa Khoa học xã
hội, 33.3% sinh viên khoa Tự nhiên; 31.9% sinh viên khoa KTQTKD và 40% sinh viên
khoa Tâm lý – Giáo dục lựa chọn. Mức độ rất hài lòng chiếm tỉ lệ rất thấp trên cả 4
khoa chỉ có 4.3% sinh viên khoa KTQTKD; 3.3% sinh viên khoa Khoa học xã hội,
2.2% sinh viên khoa Tự nhiên và không có sinh viên nào khoa Tâm lý – Giáo dục lựa
chọn mức độ rất hài lòng. Điều này chứng tỏ, SV hiện nay thiếu hụt rất nhiều KNS cần
thiết cho bản thân, gây ảnh hưởng đến học tập, sinh hoạt của các em.
Tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đã phỏng vấn một số sinh viên và được biết sinh
viên khoa L.N.M ( k14 khoa KTQTKD) khẳng định: “do đặc thù của ngành học, các
18
em thường xuyên phải đi thực hành, thực tập môn học tại các doanh nghiệp, song em
nhận thấy KNS của bản thân còn rất hạn chế, nhiều khi em không tự tin vào bản thân,
không biết cách giải quyết tình huống và đưa ra những quyết định sai lầm”; một chia sẻ
của sinh viên khoa Xã hội cũng rất đáng quan tâm “ xã hội ngày càng phát triển hiện
đại, chúng em càng phải đối mặt với nhiều áp lực, căng thẳng như: cuộc sống tự lập,
tài chính, học tập, quan hệ với người khác giới…trước những áp lực đó em thấy mình
như bị bế tắc không có phương hướng, không có lối thoát, em rất mong được học các
khóa học về KNS để tự tin và biết cách giải quyết tình huống trong cuộc sống hàng
ngày”. Tất cả những nguyên nhân đó đều bắt nguồn từ việc thiếu hụt KNS của các em
sinh viên, do vậy để kích thích nhu cầu được giáo dục KNS của các em sinh viên nhằm
nâng cao KNS cho các em là điều rất cần thiết của thầy cô trường ĐHHĐ.
2.3. Thực trạng về nhu cầu được giáo dục về KNS của sinh viên trường ĐHHĐ

Bảng 2.3: Các mức độ nhu cầu được giáo dục KNS của sinh viên trường
Đại học Hồng Đức
T
T
Các mức độ
XH TN TLGD
KTQTK
D
Chung
S
L
%
S
L
%
S
L
% SL %
S
L
%
1 Rất mong muốn
4
8
80
4
0
88.
9
3

3
73.
3
45 95.7
16
6
84.
3
2 Mong muốn
1
2
20 5
11.
1
1
2
26.
7
2 4.3
31 15.
7
3 Không mong muốn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Tổng
6
0
10
0
4
5
10

0
4
5
10
0
47 100
19
7
10
0
Có thể minh họa kết quả của bảng trên bằng biểu đồ sau:
19
Biểu đồ 2.2. Mức độ nhu cầu được giáo dục KNS của sinh viên trường
Đại học Hồng Đức
Nhìn vào kết quả ở bảng trên chúng tôi thấy: Nhìn chung nhu cầu được giáo
dục KNS của sinh viên trường ĐHHĐ là rất cao. Thể hiện mức độ rất mong muốn
chiếm 84.3% và mức mong muốn chiếm 15.7% trong tổng số sinh viên.
Đối với các khoa nhu cầu được giáo dục kĩ năng sống có sự khác nhau. Mức
rất mong muốn có 80% sinh viên khoa Khoa học xã hội, 88.9% sinh viên khoa Tự
nhiên, 73.3% sinh viên khoa Tâm lý – giáo dục lựa chọn. Mức độ mong muốn có
20% sinh viên khoa Khoa học xã hội, 11.1% sinh viên khoa Tự nhiên và 26.7%
sinh viên khoa Tâm lý – giáo dục lựa chọn mức độ này; không có SV nào trả lời
không mong muốn được giáo dục KNS. Điều này, chứng tỏ vai trò của KNS đối với
các em SV là vô cùng quan trọng. Mặt khác, qua đó chúng ta thấy nhu cầu tham
vấn KNS của sinh viên là rất cao, các em luôn ý thức được việc trang bị kiến thức
KNS sẽ là hành trang giúp các em tự tin và trưởng thành hơn trong cuộc sống.
Để tìm hiểu rõ hơn, chúng tôi tổ chức buổi thảo luận để tìm hiểu sâu hơn vấn
đề nhu cầu tham vấn KNS của các em. Sinh viên khoa KTQTKD đã chia sẻ: “ em
rất mong muốn được tham gia các lớp học chuyên sâu về KNS hoặc các câu lạc bộ
có nhiều chủ đề gắn với KNS, bởi vì em nhận thấy KN giao tiếp, KH ứng phó với

căng thẳng của ban thân còn rất kém, việc học KNS sẽ giúp em tự tin, mạnh dạn
hơn trong giao tiếp và sẽ là cơ hội em được rèn luyện một số KN yếu kém của
mình”; bạn sinh viên N.N.N ( k14 Tâm lý – Giáo dục) cũng cho rằng: “ em luôn
20
mong muốn được nâng cao KNS của bản thân song vì lịch học theo tín chỉ đã
chiếm hết quỹ thời gian của mình do vậy nếu nhà trường đưa môn học KNS vào
chương trình học chính khóa thì rất thuận lợi cho việc học KNS của chúng em”
Như vậy, qua buổi thảo luận, chúng tôi thấy 100% các em đều mong muốn
được giáo dục KNS, song vì nhiều lý do khác nhau mà các em chưa thể có cơ hội
rèn luyện KNS còn thiếu hụt của bản thân. Trước thực tế đó, trường ĐHHĐ cần có
những giải pháp phù hợp nhằm đáp ứng được nhu cầu được giáo dục KNS của các
em sinh viên.
Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy sinh viên ngày càng năng động,
tích cực, ham học hỏi và tìm tòi. Chính vì vậy, khi nhận thấy sự thiếu hụt về KNS
của bản thân, cũng như vai trò của KNS trong học tập sinh hoạt, các em luôn tìm
mọi cách để nâng cao KNS cho bản thân: các em tích cực tham gia nhiều hoạt động
ngoại khóa, các câu lạc bộ về KNS, học hỏi từ các trang báo mạng…nhằm nâng
cao KNS của các em.
Nhu cầu được giáo dục KNS của sinh viên thể hiện cụ thể hơn qua những
KNS cơ bản với các mức độ như sau:
Bảng 2.4: Nhu cầu được giáo dục của từng KNS của sinh viêntrường
Đại học Hồng Đức
KN
Xã hội Tự nhiên
Tâm lý – Giáo
dục
KTQTKD
TĐ TB TĐ TB TĐ TB TĐ TB
1 167 2.8 3 128 2.7 4 123 2.7 4 133 2.8 3
2 150 2.5 6 206 2.6 5 132 2.9 2 114 2.4 7

3 163 2.7 4 135 3.0 1 135 3.0 1 129 2.7 4
4 177 3.0 1 127 2.8 3 127 2.8 3 138 2.9 2
5 157 2.6 5 113 2.5 6 110 2.4 7 110 2.6 5
6 112 1.9 9 99 2.2 9 100 2.2 8 104 2.2 9
7 140 2.3 8 105 2.3 8 95 2.1 9 110 2.3 8
8 172 2.9 2 130 2.9 2 111 2.5 6 141 3.0 1
9 145 2.4 7 110 2.4 7 116 2.6 5 119 2.5 6
21
Chú thích:
1.KN xác định mục tiêu
2.KN tự nhận thức
3.KN giao tiếp
4.KN ra quyết định và xử lý các vấn đề
5.KN làm việc nhóm
6 KN lắng nghe và học hỏi những phê bình của người khác
7.Năng động, tự tin và biết thuyết phục người khác
8.KN ứng phó với căng thẳng
9.KN làm chủ và tự đánh giá bản thân
Qua bảng 2.4 chúng ta thấy rằng: Nhìn chung nhu cầu được giáo dục KNS
của sinh viên trường ĐHHĐ là rất cao ở tất cả các KN. Cụ thể:
KN có mức độ mong muốn cao nhất là nhóm KN giao tiếp, KN ứng phó với
căng thẳng, KN ra quyết định và xử lý các vấn đề. Tuy nhiên giữa các khoa có sự
đánh giá khác nhau về mức độ giữa các KN trên. Theo sinh viên khoa Tự nhiên và
khoa Tâm lý giáo dục KN giao tiếp có ( =3.0) và đồng vị trí thứ 1; trong khi đó
KN giao tiếp của khoa KTQTKD và Khoa học xã hội có ( =2.4) xếp vị trí thứ 4,
do đặc trưng của khoa Khoa học xã hội ngôn ngữ của các em bao giờ cũng tốt hơn,
các em có nhiều môn học liên quan đến kĩ năng thuyết trình, nói trước đám đông
nên KN giao tiếp của các em liên tục được rèn luyện và nâng cao.
KN ra quyết định và xử lý các vấn đề là KN có mức độ nhu cầu cao xếp vị trí
thứ 1 đối với khoa Khoa học xã hội ( =3.0); khoa KTQTKD có ( =2.4) và

xếp vị trí thứ 2; khoa Tự nhiên và khoa Tâm lý – giáo dục có ( =2.8) và cùng
đứng ở vị trí thứ 3. Tìm hiểu thực trạng trên chúng tôi phỏng vấn sinh viên N.N.N (
k14 khoa KTQTKD) và được biết:“ em rất mong muốn được tham dự lớp học về
KNS đặc biệt là đối với KN ra quyết định và xử lý các vấn đề bởi vì khi ra trường
và làm việc tại các doanh nghiệp thì đây là KN rất cần thiết cho công việc của
em”. Sinh viên khoa Xã hội cũng chia sẽ: “ đứng trước tình huống khó khăn của
22
cuộc sống, em thường cảm thấy lo lắng, bối rối và không biết cách xử lý như thế
nào cho đúng, em mong được rèn luyện nhiều hơn KN ra quyết định và xử lý các
vấn đề”.
Đối với KN xác định mục tiêu cũng có sự khác nhau giữa các khoa. Cụ thể:
khoa Tự nhiên và khoa Tâm lý – Giáo dục cùng có ( =2.7) và xếp vị trí thứ 4;
khoa KTQTKD và khoa Khoa học xã hội có ( =2.8) và xếp vị trí thứ 3. Trên thực
tế hiện nay sinh viên còn yếu về KN xác định mục tiêu, biểu hiện: nhiều em chưa xác
định rõ ràng mục tiêu, lý tưởng sống, hoặc có em xác định không đúng mục tiêu học
tập và rèn luyện dẫn đến những hậu quả là số sinh viên bỏ học giữa chừng, mang thai
ngoài ý muốn, phạm pháp…Để khắc phục hậu quả trên nhà trường và giảng viên cần
có kế hoạch rèn luyện và nâng cao nhận thức cho các em về KN xác định mục tiêu
để các em có kế hoạch phù hợp trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Theo đánh giá của sinh viên ở cả 4 khoa nhóm KN lắng nghe và học hỏi những
phê bình của người khác và KN năng động và tự tin và biết thuyết phục người khác
đều có điểm trung bình và vị trí xếp hạng tương đồng nhau. Nguyên nhân, là do đây là
nhóm KN ở mức hiện có của các em là tốt hơn so với các KN khác. Những KN này
các em đều được rèn luyện hàng ngày qua các môn học, các hoạt động tập thể nhân
ngày 26/3; 20/11…và do đặc điểm tâm lý chung là sinh viên ngày nay rất năng động,
trẻ trung, luôn biết lắng nghe và học hỏi những kinh nghiệm của thế hệ trước.
KN làm việc nhóm cũng là một trong những KN đóng vai trò quan trọng đối
với sinh viên, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới phương pháp giáo dục như hiện nay.
Mặt khác khi phân tích mức hiện có KNS của sinh viên, chúng tôi nhận thấy đây là
KN mà sinh viên còn yếu và thiếu. Do đó, nhu cầu được giáo dục KN làm việc

nhóm được sinh viên đánh giá là rất cần thiết cũng là điều rất dễ hiểu.
Đối với KN làm chủ và tự đánh giá bản thân là những KN mà sinh viên có
nhu cầu tham vấn tương đối cao trên tất cả các khoa với điểm trung bình dao động
từ 2.4 đến 2.6. Tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành buổi thảo luận với
nội dung nhu cầu được giáo dục KNS của sinh viên hiện nay. Hầu hết sinh viên đều
cho rằng giáo dục KNS là điều rất quan trọng và cần thiết và trong buổi thảo luận
23
chúng tôi đã được lắng nghe chia sẽ của các em sinh viên: “ theo em, sinh viên
ngày nay rất cần phải được rèn luyện KN làm chủ bản thân trước mọi tình huống,
vì thực tế đã có nhiều em sinh viên chỉ vì thiếu tính tự chủ, lập trường không vững
vàng do đó đã bị các nhóm bạn xấu lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến những
hậu quả đau lòng” . Em L.T.M (k14 khoa KTQTKD) còn đưa ra dẫn chứng cụ thể:
“Có lẽ các bạn sinh viên vẫn còn nhớ bạn sinh viên L.T.N của trường ta, một bạn
sinh viên có nhiều thành tích cao trong học tập và nghiên cứu khoa học, được thầy
cô bạn bè yêu mến, tuy nhiên chỉ vì bạn không biết nhận thức đúng bản thân mình,
thiếu tính tự chủ mà lao vào con đường nghiện ngập, ma túy và đã phải bỏ cả
mạng sống của mình khi tuổi đời còn quá trẻ”.
2.5. Thực trạng về mức độ tham gia các khóa học về KNS của sinh viên Trường
Đại học Hồng Đức
Cùng với nhu cầu được giáo dục KNS của sinh viên ở mức độ cao, vậy mức
độ tham gia các khóa học về KNS của sinh viên hiện nay được thể hiện như thế
nào? Sinh viên có hào hứng và tham gia đầy đủ không? Trả lời cho câu hỏi này,
chúng tôi cũng tìm hiểu mức độ tham gia khóa học về KNS của sinh viên trường
ĐHHĐ và thu được kết quả thể hiện ở bảng 2.5.
Qua bảng 2.5 chúng ta nhận thấy:
Nhìn chung 100% các em đều nhất trí sẵn sàng tham gia các khoa học về KNS,
điều này chứng tỏ nhu cầu được giáo dục KNS của các em sinh viên là rất cao, tuy
nhiên có 2 xu hướng khác nhau khi trả lời về vấn đề này.
Bảng 2.5: Mức độ tham gia các lớp học về KNS của sinh viên Trường Đại học
Hồng Đức

STT Các mức độ
XH TN TLGD
KTQTK
D
Chung
S
L
%
S
L
% SL % SL % SL %
1 Có, bất kể khi nào 25
41.
7
21
46.
7
23
51.
1
29 61.7 98
49.
7
2 Có nhưng còn phải
xem xét thời gian,
35 58.
3
24 53.
3
22 48.

9
18 38.3 99 50.
3
24
kinh phí
3 Không 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Tổng 60
10
0
45
10
0
45
10
0
47 100
19
7
10
0
Đối với mức Có nhưng còn phải xem xét thời gian, kinh phí đến chiếm tỉ lệ
50.3% trong số sinh viên. Lý giải cho thực trạng trên là do: theo số liệu tham khảo
của phòng Công tác học sinh sinh viên, chúng tôi được biết, sinh viên trường Đại
học Hồng Đức chủ yếu là sinh viên ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, tỉ lệ hộ
nghèo chiếm ¾ trong tổng số sinh viên. Do vậy, ngay những khoản đóng học trên
trường đối với các em cũng còn khó khăn, nên chi phí cho các lớp về KNS là điều
mà các em còn phải suy nghĩ và tính toán. Mặt khác theo các em hiện nay, việc học
tập theo đào tạo tín chỉ đã làm cho lịch học các môn chính khóa kín hết tuần, các em
không thể sắp xếp thời gian tham gia các lớp học về KNS một cách đầy đủ. Tất cả
những lý do trên đã ảnh hưởng đến nhu cầu được giáo dục KNS của các em.

Trong khi đó với 49.7% sinh viên lựa chọn mức đồng ý tham gia bất kể khi nào,
điều này đồng nghĩa với việc các em sẵn sàng tham gia các lớp học về KNS bất kể khi
nào mà không quản thời gian, kinh phí và những tác động khác. Nếu so sánh với tỉ lệ số
sinh viên đồng ý tham gia nhưng còn phải xem xét về thời gian và kinh phí và tỉ lệ sinh
viên sẵn sàng tham gia thì mức chênh lệch nhau là rất ít. Điều đó nói lên được rằng nhu
cầu được giáo dục KNS của các em sinh viên trường ĐHHĐ là rất cao. Đặc biệt hơn, là
không có sinh viên nào lựa chọn mức không tham gia các lớp KNS. Qua đó, chứng tỏ
các em đã nhận thấy được vai trò của KNS đối với việc giúp cá nhân hiểu biết bản thân
cũng như giá trị sống, có thái độ cảm xúc tích cực, tự tin vào bản thân… do vậy, nhu
cầu được giáo dục KNS của các em ngày càng tăng cao là điều rất phù hợp.
Xét riêng từng khoa, chúng tôi nhận thấy nhìn chung nhu cầu được giáo dục
KNS của sinh viên các khoa đều rất cao. Trong đó, mức có bất kể khi nào có tỉ lệ
sinh viên lựa chọn cao nhất là sinh viên khoa KTQTKD chiếm 61.7%, đứng thứ 2
là 51.1% sinh viên khoa Tâm lý – Giáo dục; sau đó là 46.7% sinh viên khoa Tự
nhiên và thấp nhất là 41.7% sinh viên khoa Khoa học xã hội. Nguyên nhân là, đặc
trưng của khoa KHTQTKD nhu cầu giao tiếp, mở rộng các mối quan hệ, khả năng
25

×