Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

luận văn tìm hiểu các biểu hiện rối loạn lo âu ở sinh viên trường đại học lao động xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (804.67 KB, 83 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





ĐỖ THỊ AN






TÌM HIỂU CÁC BIỂU HIỆN RỐI LOẠN LO ÂU
Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI







LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

























































HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC






ĐỖ THỊ AN





TÌM HIỂU CÁC BIỂU HIỆN RỐI LOẠN LO ÂU
Ở SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG XÃ HỘI





LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC









CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC LÂM SÀNG TRẺ EM VÀ VỊ THÀNH NIÊN
MÃ SỐ: THÍ ĐIỂM















Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ NGỌC KHANH




































HÀ NỘI - 2013



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo
của Trường Đại học Giáo dục đã tạo cơ hội cho tôi được học tập và nghiên
cứu tại trường.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Đỗ Ngọc Khanh,
người thầy đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và động viên tôi rất nhiều trong
quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn các anh chị em trong lớp cao học Tâm lý lâm sàng trẻ
em và vị thành niên khóa 2 đã góp ý, chia sẻ và giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và thực hiện nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo và các em sinh viên Trường

Đại học Lao động Xã hội đã tạo điều kiện cho tôi được học tập và hoàn thành
luận văn.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người thân trong
gia đình đã ủng hộ, tạo điều kiện và giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khóa học
thạc sỹ và thực hiện tốt luận văn của mình.
Kính chúc quý vị luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công!

Hà Nội, tháng 10 năm 2013.
Tác giả


Đỗ Thị An


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nghĩa là

ASĐH Ám sợ đặc hiệu
ASXH Ám sợ xã hội
CBT Cognitive Behavior Therapy – Trị liệu nhận thức hành vi
ĐHLĐXH Đại học Lao động – Xã hội
DSM-IV Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders-
Fourth edition – Sổ tay chẩn đoán và phân loại bệnh tâm
thần (hiệp hội tâm thần Hoa Kỳ), chỉnh sửa lần thứ 4.
ICD-10 International Statistical Classification of Diseases and
Related Health Problems 10th – Revision – Bảng phân loại
quốc tế về vấn đề Sức khỏe tâm thần, lần thứ 10.
RLLA Rối loạn lo âu
SKTT Sức khỏe tâm thần

SV Sinh viên
WHO World of Health Organization – Tổ chức Y tế thế giới.


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 3.1. Các mức độ triệu chứng biểu hiện RLLA theo test Zung ở
SV trường ĐHLĐXH

33
Bảng 3.2. Các biểu hiện lâm sàng của RLLA ở SV trường ĐH LĐ- XH
35
Bảng 3.3: RLLA khi xét về đặc điểm tính cách của SV
40
Bảng 3.4: RLLA khi xét về nơi ở của SV
42
Bảng 3.5. Sự phân bố các biểu hiện của RLASĐH ở SV trường
ĐHLĐXH

45
Bảng 3.6. Sự khác biệt giữa nhóm sinh viên có triệu chứng của
ASĐH sống cùng gia đình với nhóm sinh viên có cùng biểu hiện
sống ở môi trường khác.


47
Bảng 3.7. ASĐH xét theo đặc điểm cá nhân ở sinh viên trường
ĐHLĐXH.


48
Bảng 3.8: Mức độ về triệu chứng biểu hiện ám sợ khoảng trống ở SV
trường ĐHLĐXH

50
Bảng 3.9. Sự khác biệt mức độ biểu hiện ám sợ khoảng trống với các
yếu tố liên quan

51
Bảng 3.10. Tỷ lệ triệu chứng ám sợ xã hội ở SV trường Đại học LĐXH
53
Bảng 3.11. Tỷ lệ triệu chứng cơn hoảng sợ của SV trường Đại học
LĐXH

54
Bảng 3.12. Phân bố các triệu chứng về rối loạn hoảng sợ ở SV
trường Đại học LĐXH

55
Bảng 3.13. So sánh về triệu chứng biểu hiện rối loạn hoảng sợ với
các yếu tố ở SV trường ĐHLĐXH

56
Bảng 3.14. Mối tương quan giữa các dạng biểu hiện RLLA ở sinh
viên trường ĐHLĐXH

58










DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang
Biểu đồ 2.1: Giới tính của khách thể nghiên cứu
27
Biểu đồ 2.2. Chuyên nghành học của khách thể nghiên cứu
27
Biểu đồ 2.3: Nơi ở của khách thể nghiên cứu
28
Biểu đồ 2.4: Điều kiện kinh tế của khách thể nghiên cứu
28
Biểu đồ 2.5: Năm học của khách thể nghiên cứu
29
Biểu đồ 2.6: Cảm nhân về đặc điểm bản thân của khách thể nghiên cứu
29


































MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn
i
Danh mục viết tắt

ii
Danh mục các bảng
iii
Danh mục các biểu đồ
iv
Mục lục
v
MỞ ĐẦU
1


Chƣơng 1: CƠ SƠ
̉
LÝ LUÂ
̣
N CU
̉
A VÂ
́
N ĐÊ
̀
NGHIÊN CƢ
́
U
5
1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cư
́
u
5
1.2. Một số khái niệm

12
1.2.1. Rối loạn lo âu
12
1.2.2. Sinh viên
23
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
26
2.1. Tiến trình thực hiện đề tài
26
2.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
26
2.3. Đặc điểm về khách thể nghiên cứu
27
2.4. Các phương pháp nghiên cứu
30
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
30
2.4.2. Phương pháp điều tra qua bảng hỏi có sử dụng thang đo
30
2.4.3. Phương pháp chọn mẫu
32
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
33
3.1. Tỷ lệ SV có triệu chứng biểu hiện RLLA tại trường ĐHLĐXH
theo test Zung

33
3.2. Những đặc điểm lâm sàng của RLLA ở SV trường Đại học
LĐXH
35

3.3. So sánh mức độ RLLA theo test Zung với các yếu tố khác
39
3.4. Các dạng biểu hiện của RLLA ở SV trường Đại học LĐXH
44
3.4.1. Rối loạn ám sợ đặc hiệu (ASĐH)
44
3.4.2. Rối loạn ám sợ khoảng trống
49
3.4.3. Ám sợ xã hội
53
3.4.4. Rối loạn hoảng sợ
54
3.4.5. Rối loạn lo âu lan tỏa và rối loạn ám ảnh cưỡng bức (OCD)
57
3.5. Mối tương quan giữa các dạng RLLA.
58
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
60
1. Kết luận
60
2. Khuyến nghị
62


TÀI LIỆU THAM KHẢO
63
PHỤ LỤC
68













MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sức khỏe tâm thần (SKTT) được xem là một tình trạng sức khỏe mà
mỗi cá nhân nhận thức rõ khả năng của mình, có thể đối phó với những căng
thẳng bình thường trong cuộc sống, làm việc hiệu quả, thành công và có thể
đóng góp cho cộng đồng. SKTT là sự hòa hợp giữa trạng thái khỏe mạnh về
thể chất và tình cảm; là trạng thái tâm lý ổn định và vui khỏe của con người.
Nó được biểu hiện ở chỗ con người cảm thấy hài lòng, thỏa mãn, vui tươi, yêu
đời, tự tin từ đó mà quản lý được hành vi của mình, cư xử đúng mực và tôn
trọng mọi người xung quanh trên cơ sở ý thức đầy đủ về giá trị bản thân.
SKTT không chỉ ảnh hưởng lên cuộc sống cá nhân mỗi người mà còn làm cho
họ có khả năng ứng phó nhanh nhẹn và thích hợp với các khó nhăn của cuộc
sống. Các vấn đề SKTT đặc biệt là trầm cảm, lo âu nếu không được quan tâm
phòng ngừa và can thiệp phù hợp sẽ để lại hậu quả cho cả cá nhân và gia đình
(đối với trường hợp tự tử và thực hiện các hành vi tự tử); ảnh hưởng tới mối
quan hệ của cá nhân với các thành viên trong gia đình, với bạn bè; ảnh hưởng
đến kết quả học tập tại trường; năng suất lao động cũng như sự phát triển cá
nhân nói chung. Chúng ta đang đứng trước một thách thức lớn về vấn đề
SKTT. Các báo cáo nghiên cứu gần đây cho thấy vấn đề SKTT có xu hướng
gia tăng. Năm 1996, nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật của thế giới của Đại

học Harvard, WHO và Ngân hàng thế giới cho biết gánh nặng toàn cầu của
các rối loạn tâm thần chiếm 10,5% gánh nặng bệnh tật, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn
được cho là thấp hơn so với thực tế. Năm 2000, tại Việt Nam, chương trình
Quốc Gia về chăm sóc SKTT ở cộng đồng sơ bộ tổng kết tỷ lệ mắc điểm lo âu
qua test Zung trong dân cư ở Thành phố Thái Nguyên là 2,85% [20]
Trung tâm Thực hành Công tác xã hội và Phát triển cộng đồng của trường
Đại học Lao động Xã hội là nơi các em sinh viên tìm đến để chia sẻ những băn
khoăn, lo lắng các em gặp phải trong quá trình học tập và cả trong cuộc sống


của các em. Với kinh nghiệm thực tế của bản thân khi làm việc tại Trung tâm
Phát triển Công tác xã hội của trường, tôi nhận thấy nhiều sinh viên đến trung
tâm tham vấn có những biểu hiện của các rối loạn lo âu. Với sinh viên, thời
gian học tập ở trường đại học là quãng thời gian quan trọng trong quá trình
tích lũy tri thức, kinh nghiệm phương pháp tư duy. Từ điểm xuất phát này họ
trở thành con người trưởng thành và bước vào đời. Trở thành sinh viên, bên
cạnh niềm vui sướng, tự hào, bản thân các em bắt đầu cuộc sống với những
khó khăn trong việc chuyển tiếp từ môi trường học phổ thông trung học sang
môi trường học tập ở bậc cao hơn, các em phải làm quen với một môi trường
học tập ở bậc đại học với nhiều khác biệt về khối lượng, nội dung tri thức,
cách học, các mối quan hệ với thầy mới, bạn mới, phương pháp học mới, môi
trường sống mới và điều kiện kinh tế có nhiều khác biệt so với nhịp sống ở các
thành phố lớn tạo ra không ít khó khăn cho các em. Đem theo những khó khăn
này nhiều sinh viên đã lúng túng không biết kiểm soát cuộc sống, nỗi lo chồng
nỗi lo và nguy cơ các em rơi vào vòng lo âu - trầm cảm là rất lớn. Lúc đó,
không chỉ học tập mà cả các chức năng xã hội khác của các em cũng bị suy
giảm nghiêm trọng điều này đã được chỉ ra khá rõ trong một nghiên cứu về sự
suy giảm chất lượng cuộc sống ở các đối tượng trên 18 tuổi có các rối loạn lo
âu và cảm xúc trong các thử nghiệm lâm sàng của BS Lê Hiếu năm 2007 [11].
Nhiều nghiên cứu và các bài viêt về rối loạn lo âu cũng chỉ ra rằng, khi

con người bị rối loạn lo âu thì điều này cũng ảnh hưởng lớn đến đời sống
kinh tế xã hội. Người bệnh bị suy giảm khả năng lao động, tăng nguy cơ
mất việc làm, giảm chất lượng cuộc sống. Theo nghiên cứu của Hoge
(2004), những bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa nghỉ việc trung bình 6
ngày/tháng, so với 3,1 - 3,5 ngày/tháng trên bệnh nhân hen, đái tháo đường,
viêm khớp. Chi phí xã hội đối với rối loạn lo âu lan tỏa và các vấn đề cộng
đồng kèm theo là rất đáng kể, tăng nhu cầu được trợ giúp ở các trung tâm y tế
và dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần, có xu hướng lạm dụng chất, nghiện


chất. Năm 2004, chi phí điều trị nội trú rối loạn lo âu lan tỏa ở Châu Âu dao động
từ 2000-3000 EU/bệnh nhân/đợt điều trị, so với chi phí điều trị các rối loạn lo âu
khác chỉ từ 300-1000EU/bệnh nhân/đợt điều trị [6].
Như vậy, việc hiểu rõ học sinh sinh viên thường có các biểu hiện rối loạn
lo âu như thế nào để từ đó tuyên truyền giúp học sinh sớm nhận thức và phòng
ngừa sẽ làm giảm hậu quả của rồi loạn lo âu. Xuất phát từ những lý luận và
thực tiễn trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu các biểu hiện rối loạn lo
âu ở sinh viên trường Đại học Lao động Xã hội” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc tiến hành đề tài nghiên cứu: “Tìm hiểu các biểu hiện rối loạn lo
âu ở sinh viên trường Đại học Lao động Xã hội” hướng tới việc:
- Tìm ra những biểu hiện lo âu mà sinh viên trường ĐHLĐXH gặp phải.
- Tỷ lệ sinh viên có biểu hiện RLLA nói chung và tỷ lệ rối loạn lo âu
được phân chia theo các dạng rối loạn lo âu cụ thể.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khuôn khổ thời gian có hạn, đề tài chỉ tập trung vào giải quyết
một số nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu: các khái niệm có liên
quan, một số học thuyết bàn về lo âu, một số RLLA phổ biến và giới thiệu một
mô hình trị liệu cho RLLA được cho là có hiệu quả. Tổng quan cơ sở sữ liệu

của các nghiên cứu đi trước, những nghiên cứu trước đã giải quyết được vấn
đề gì, những gì chưa giải quyết được – đưa ra khái niệm công cụ của đề tài
nghiên cứu.
- Tìm hiểu thực trạng mức độ biểu hiện của rối loạn lo âu nói chung và
các dạng rối loạn lo âu cụ thể ở sinh viên trường Đại học Lao động xã hội.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những biểu hiện về rối loạn lo âu của sinh viên
trường Đại học Lao động - Xã hội.


- Khách thể nghiên cứu: 185 sinh viên trường Đại học Lao động - Xã hội
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Bao gồm các công việc như: Đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và
khái quát hóa những quan điểm cũng như những công trình nghiên cứu của
các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến rối loạn lo âu nói chung và rối
loạn lo âu của sinh viên nói riêng…để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Phương pháp điều tra qua bảng hỏi có sử dụng test và thang đo
Đây là phương pháp chính của đề tài nhằm mục đích tìm hiểu những
biểu hiện RLLA và đánh giá các yếu tố có ảnh hưởng đến lo âu trầm cảm ở
sinh viên. Bảng hỏi có sử dụng thang đo mức độ lo âu – Zung (Self Rating
Anxiety Scale).
5.3. Phương pháp thống kê
Để trình bày và phân tích số liệu, nghiên cứu sử dụng chương trình phần
mềm thống kê SPSS dùng trong môi trường Window, phiên bản 17.0.
Các thông số và phép toán thông kê được sử dụng trong nghiên cứu này là:
Phân tích sử dụng thống kê mô tả với các chỉ số:
 Điểm trung bình cộng (mean).
 Độ lệch chuẩn (standardizied devation).
 Phép kiểm định giá trị trung bình so với các biến độc lập: t – test, one-

way Anova.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và một số đề xuất



CHƢƠNG 1
CƠ SƠ
̉
LÝ LUÂ
̣
N CU
̉
A VÂ
́
N ĐÊ
̀
NGHIÊN CƢ
́
U

1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cƣ
́
u
Lo âu là cảm xúc thường gặp nhất của con người với nhiều mức độ
khác nhau. Sự trải nghiệm cảm xúc này hầu hết là do đáp ứng với các kích

thích của môi trường, và thường chỉ là những biểu hiện nhất thời. Tuy nhiên
cũng có nhiều người khi đối mặt với khó khăn, nguy hiểm, áp lực của cuộc
sống, lo âu quá mức trở thành rối loạn lo âu (RLLA) trong bệnh lý tâm thần.
Bàn về RLLA, hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu theo nhiều
hướng khác nhau.
* Các nghiên cứu về RLLA theo hướng bàn luận về sự ra đời của thuật ngữ lo
âu:
Năm 1844, Soren Kierkegaard đã xuất bản tác phẩm “Angest“ và được
dịch sang tiếng Pháp “Le concept de l’angoisse“ nói về trạng thái lo âu. Tác
phẩm này của ông được xem như một sự phân tích tâm bệnh lý hiện đại đầu
tiên về hiện tượng lo âu.
Năm 1895, Freud là người đầu tiên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
lo âu trong những hội chứng đã được mô tả trước đó như hysteria, nghi bệnh,
suy nhược thần kinh. Freud đã sử dụng lo âu như một chẩn đoán riêng biệt,
ông nói: tôi gọi các hội chứng này là lo âu tâm căn bởi vì tất cả những thành
phần của nó có thể nhóm lại thành những triệu chứng chính của lo âu’’.
Từ năm 1980, theo bảng phân loại bệnh tâm thần của Hoa Kỳ thì
chẩn đoán RLLA đã được đưa vào DSM-III và được dùng chính thức cho
đến ngày nay.
Đến DSM-IV, các tác giả đã phân biệt rạch ròi giữa hai khái niệm lo âu
và RLLA. Theo bảng phân loại này lo âu được định nghĩa như sau: lo âu là
một trạng thái cảm xúc thông thường, đó là một cảm xúc khó chịu không xác


định được. Còn RLLA thì không phải như vậy vì RLLA là một trạng thái bất
thường hay kết hợp với một số triệu chứng cơ thể và RLLA có ảnh hưởng đến
các chức năng nghề nghiệp, xã hội do lo âu gây ra.
Năm 1968, Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO)
đã soạn thảo Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 8, (International
Classification of Diseases, 8th edition - ICD-8), theo đó tâm căn lo âu được

xếp vào mục 300.0. Năm 1978, ICD-9 đổi tâm căn lo âu thành trạng thái lo âu
và cũng xếp ở mục 300.0. Vì chưa thống nhất được các quan điểm trong bệnh
nguyên, bệnh sinh của rối loạn lo âu nên các mục này đều không có tiêu
chuẩn chẩn đoán cụ thể.
Năm 1988, ICD-10 được soạn thảo với nội dung có nhiều điểm tương
đồng với DSM III. Năm 1992, ICD-10 được WHO công bố và áp dụng chính
thức trên toàn thế giới đến nay. Trong Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10
(ICD 10), các rối loạn lo âu được mô tả ở chương F4: “Các rối loạn tâm căn
có liên quan đến stress và dạng cơ thể” từ F40 - F41. Trong tài liệu này, các
nhà khoa học không đưa ra một khái niệm cụ thể về RLLA mà trực tiếp đưa ra
các biểu hiện của các dạng RLLA và các nguyên tắc chỉ đạo trong chẩn đoán.
* Các nghiên cứu về nguyên nhân của RLLA theo các trường phái tâm lý học.
Việc tìm ra gốc rễ của các RLLA cũng sẽ giúp cho việc trị liệu của các nhà
tâm lý học đạt hiệu quả cao. Chính vì thế, một số các nhà tâm lý học theo các
trường phái tâm lý học khác nhau cũng tiến hành nghiên cứu tìm hiểu những
nguyên nhân của các RLLA để từ đó xây dựng mô hình trị liệu phù hợp.
Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi trình bày một số học thuyết nổi
tiếng và phổ biến bàn về nguyên nhân của các RLLA:
+ Thuyết phân tâm: Lo âu là một tín hiệu khuấy động bản ngã thực hiện hành
động phòng vệ chống lại những áp lực từ bên trong. Một cách lý tưởng, sự dồn
nén thành công tạo nên sự cân bằng tâm lý mà không có triệu chứng. Học
thuyết phân tâm học kinh điển mô tả RLLA như là kết quả của những xung


đột trong vô thức. Đầu tiên, Freud đã dùng thuật ngữ “Angst“ có nghĩa là sợ
hãi để mô tả những phản ứng nội tâm đơn giản đối với những mối đe dọa bên
trong và bên ngoài. Trong thuyết đầu tiên về lo âu, Freud đã cho rằng những
xung đột và những ức chế tạo ra sự thất bại trong việc kiểm soát các xung
động tình dục. Việc kìm hãm các xung động cùng với việc sợ mất kiểm soát
xung động sẽ gây ra lo âu. Sau đó, chính Freud đã sớm nhận ra hạn chế trong

học thuyết ban đầu của mình, ông đã gợi ý rằng lo âu là triệu chứng chính,
đóng vai trò trung tâm trong các bệnh tâm căn. Ông thừa nhận rằng lo âu
chính là sự chuyển dạng của các xung động tình dục và đã chấp nhận lo âu là
kết quả của sự đe dọa.
+ Thuyết tập nhiễm xã hội: Gia đình là môi trường xây dựng nên các cảm xúc,
sự hiểu biết và sự an toàn cho trẻ. Môi trường này có ảnh hưởng sâu sắc đến
thế giới quan và khả năng đương đầu với những vấn đề trong cuộc sống của
con người. Thuyết tập nhiễm xã hội cả Bandura năm 1969 cho thấy vai trò
quan trọng của nhận thức trong việc hình thành lo âu. Lo âu có thể được tập
nhiễm từ người chăm sóc hoặc từ những người khác trong gia đình hoặc môi
trường sống của đứa trẻ (thông qua bắt chước, lây lan, cách giải thích, lý giải
các sự kiện ). Như vậy, hành vi của cha mẹ là yếu tố quan trọng hình thành
và phát triển lo âu ở trẻ.
+ Thuyết nhận thức: Những yếu tố nhận thức, đặc biệt là cách mà một người
giải thích hoặc suy nghĩ về các sự kiện stress đóng một vai trò quan trọng
trọng bệnh nguyên của RLLA. Theo quan điểm của Beck thì những trạng thái
cảm xúc bất thường như trầm cảm, lo âu là Khi có một kích thích tác động lên
nhận thức thì dẫn đến một đáp ứng. Thông thường khi gặp phải một tình
huống gây lo sợ thì nhận thức bị bóp méo sự ước lượng của chúng về những
kích thích gây lo âu. Sự ước lượng này chứa đựng những kinh nghiệm, niềm
tin sai lệch về chính bản thân mình, về thế giới và về tương lai. Khi gặp phải
một kích thích tương tự sẽ so sánh nó với những tình huống xảy ra trong quá


khứ và cho ra phản ứng. Vì vậy, RLLA là do những niềm tin sai lệch mà bệnh
nhân suy diễn những sự kiện xảy ra thành những sự kiện đe dọa hoặc nguy
hiểm quá mức. Những hệ thống niềm tin cơ bản này, hoặc những sơ đồ tạo ra
những suy nghĩ tự động để phản ứng lại với những tín hiệu bên ngoài hoặc bên
trong từ đó gây ra lo âu. Như vậy, RLLA là do xử lý thông tin không đúng.
Theo Barlow và cộng sự (1996), một trong những biểu hiện nhận thức rõ ràng

nhất của lo âu đó là cảm giác không thể kiểm soát được, nó biểu hiện bằng
mọi cảm giác không được giúp đỡ, không nơi nương tựa do mất khả năng tiên
đoán, kiểm soát và đạt được những kết quả mong muốn [10,12].
+ Thuyết về nhân cách: Một số RLLA liên quan đến nhân cách lo âu, tránh né.
Đó là nhân cách có các đặc điểm: lo lắng trước đám đông, sợ không được chấp
nhận, bi quan lo lắng, bị bối rối, thận trọng trước những trải nghiệm mới, rụt
rè, thiếu tự tin, ít bạn bè, né tránh các tình huống xã hội.
* Tiếp cận về rối loạn lo âu theo hướng nghiên cứu dịch tễ học: Lo âu là một
vấn đề sức khỏe mang tính dịch tễ, vì thế nhiều nhà tâm lý học cũng đi vào
nghiên cứu về nó theo hướng dịch tễ học. Theo Richard C. Shelton các RLLA
thường gặp nhất trong các bệnh lý tâm thần, có thể ảnh hưởng đến 15% dân số
ở bất kỳ thời điểm nào. Rối loạn lo âu ám sợ có tỷ lệ là 8 - 10%, RLLA lan tỏa
chiếm 5%, rối loạn hoảng sợ chiếm 1 - 3% trong dân số [42]. Theo nghiên cứu
của Rieger và cộng sự (1990) có khoảng 15% dân số nói chung, trong cuộc
đời đã trải nghiệm các triệu chứng mang đặc trưng đủ của RLLA và 2,3 -
8,1% có RLLA hiện hữu. Tác giả Okley. M.A Brown cho biết cộng đồng
Newzealand rối loạn lo âu lan tỏa rất thường gặp, chiếm 75% các trường hợp
đến khám bệnh tại các phòng khám tâm thần, lứa tuổi khởi phát là từ 20 - 40
tuổi, tỷ lệ RLLA giữa nam và nữ là tương đương. Theo Viện Sức khỏe tâm
thần Quốc gia Hoa Kỳ, RLLA là rối loạn thường gặp nhất, hàng năm có 19
triệu người Mỹ mắc các rối loạn lo âu [21].


Ở Việt Nam, số liệu về các RLLA trong cộng đồng và trong các rối loạn
sức khỏe tâm thần với quy mô rộng lớn còn rất hạn chế, đặc biệt trong tâm lý
học thì rất ít các nghiên cứu chuyên sâu về RLLA. Lo âu vẫn chỉ nhắc đến
trong các rối loạn tâm lý khác như là một biểu hiện của rối loạn cảm xúc. Từ
năm 1964 đến nay, ở Việt Nam đã có một số công trình điều tra cơ bản về
bệnh tâm thần và thu được một số kết quả. Song do phương pháp, công cụ và
đặc biệt là tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần ở mỗi thời kỳ có khác nhau

nên tỷ lệ một số rối loạn tâm thần có thay đổi.
Năm 1999, Chính phủ đưa vào Chương trình mục tiêu Quốc gia Dự án
Bảo vệ sức khoẻ tâm thần cộng đồng, đặt ra cho ngành tâm thần Việt Nam
một thách thức mới, một trách nhiệm hết sức nặng nề. Để có được số liệu các
rối loạn tâm thần trong cả nước và xây dựng kế hoạch Bảo vệ sức khoẻ tâm
thần cho nhân dân, ngành tâm thần chọn 10 bệnh tâm thần ưu tiên để tiến hành
điều tra dịch tễ tại các vùng khác nhau. Trên cơ sở những kết qủa thu được sẽ
giúp cho ngành tâm thần đề ra được các biện pháp chăm sóc, giúp đỡ, điều trị
thích hợp, phòng bệnh cho các bệnh nhân có rối loạn tâm thần nặng tại cộng
đồng. Kết quả của Điều tra dịch tễ học 10 rối loạn tâm thần thường gặp tại
cộng đồng từ năm 2000 - 2002 cho thấy tỷ số người mắc rối loạn lo âu chiếm
2,7% số người có các rối loạn tâm thần [40]; trong khi đó theo bảng phân loại
Bệnh tâm thần quốc tế của WHO (ICD-10-1992) thì có đến 300 mã các rối
loạn tâm thần. Qua đó cho thấy ngành tâm thần sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc tổ chức chăm sóc sức khỏe tâm thần cho cộng động người dân.
Với đề tài nghiên cứu: tìm hiểu mức độ biểu hiện của stress ở sinh viên
của sinh viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng tác giả Ngô Hoàng
Anh, Vũ Ngọc Duy và Nguyễn Thị Mỹ Trang trên 200 sinh viên đã đưa ra
kết quả: 100% sinh viên co
́
như
̃
ng biê
̉
u hiê
̣
n lo âu . Kết quả nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng như
̃
ng biê

̉
u hiê
̣
n lo âu xuất hiê
̣
n ở nữ sinh viên nhiều hơn so với
nam sinh viên [3]


Nghiên cứu: Bước đầu nhận dạng và phân loại các biểu hiện tâm bệnh
lý thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên Việt Nam của trung tâm nghiên
cứu trẻ em (1995) cho thấy trong 352 hồ sơ tâm lý, tỷ lệ trẻ em được chẩn
đoán là rối nhiễu tâm căn là 31,53%) [20]
Theo Nguyễn Viết Thiêm, 20% người trưởng thành có trải nghiệm ít
nhất một sơn hoảng sợ tại một thời điểm nào đó. Khoảng 2% dân số có cơn
hoảng sợ đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn của rối loạn hoảng sợ. Rối loạn này
thường hay xảy ra ở lứa tuổi 20 và không có sự khác biệt giữa nam và nữ.
Nghiên cứu của Hoàng Cẩm Tú ở khoa Tâm bệnh - Bệnh viện Nhi quốc gia
cho thấy tỷ lệ RLLA chiếm khoảng 30% bệnh nhân có vấn đề về tâm bệnh [20].
Nghiên cứu của Nguyễn Công Khanh (2000) đã sử dụng thang đánh giá
lo âu của Spiebeger trên 503 học sinh trung học cơ sở thấy có 17,65% - 19,2%
học sinh đã trải qua biểu hiện của RLLA [20].
Những nghiên cứu này giúp chúng ta thấy được các nguy cơ và thách
thức đối với các nhà tâm lý trong việc chăm sóc SKTT cho cộng đồng đặc biệt
là chăm sóc sức khỏe tâm thần cho đối tượng đã đang và sắp trở thành lực
lượng lao động chính cho đất nước. Điều này cho thấy việc tiếp tục có các
nghiên cứu sâu hơn về các rối loạn cụ thể trong vấn đề sức khỏe tâm thần là
cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng của lực lượng lao động cho xã hội.
Những nghiên cứu về dịch tễ học ở trên thế giới và ở Việt Nam đi sâu vào rối
loạn lo âu cũng chỉ ra rằng: Rối loạn lo âu là một trong những rối loạn tâm lý

khá phổ biến ở người dân trong cộng đồng cũng như ở lứa tuổi học sinh. chính
vì thế, việc tìm hiểu mức độ biểu hiện của rối loạn lo âu nói chung và các dạng
rối loạn lo âu cụ thể nói riêng là một hướng đi cần thiết đối với học sinh sinh
viên - một lực lượng lao động có chất lượng của xã hội.
* Ngoài ra, hiện nay ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu tìm hiểu
các yếu tố ảnh hưởng đến RLLA. Với nghiên cứu: Khảo sát tình trạng lo âu –
trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở trẻ vị thành niên lang thang kiếm sống


trên đường phố (2010) tác giả Phan Tiến Sĩ và Nguyễn Thành Công chỉ ra
rằng: tác động sâu sắc nhất tới mức độ lo âu của các em (trẻ lang thang kiếm
sống trên đường phố) chính là bạn bè. Những ai có bạn là chỗ dựa và đặc biệt
những em nữ có bạn trai thân thường có mức độ lo âu thấp hơn một cách có ý
nghĩa so với những em khác. Mức độ lo âu ảnh hưởng lớn đến sự đánh giá bản
thân của các em, đặc biệt là cái tôi tương lai và cái tôi cảm xúc. Càng lo âu các
em càng tự đánh giá thấp về bản thân mình [14].
Trong Luận văn thạc sỹ tâm lý học của mình (2003): Ảnh hưởng của
một số yếu tố tâm lý đến RLLA của trẻ em, tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy
tiến hành trị liệu trên hai trường hợp điển hình có RLLA có sử dụng phối hợp
liệu pháp nhận thức - hành vi, thư giãn, khen thưởng kết hợp với liệu pháp gia
đình. Thời gian trị liệu cho cả hai trường hợp này đều kéo dài trên 4 tháng và
đều đem lại kết quả khả quan: trẻ giảm lo âu, các triệu chứng cơ thể giảm và
có thể hòa nhập vào môi trường học tập mới [20].
Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến RLLA, hiện nay đã có
một số nghiên cứu ở Việt Nam nghiên cứu và áp dụng mô hình trị liệu CBT -
mô hình trị liệu nhân thức hành vi hiện nay được các nhà khoa học tâm lý cho
rằng có hiệu quả cao trong trị liệu về rối loạn lo âu. Nghiên cứu: Bước đầu áp
dụng mô hình trị liệu nhận thức hành vi cho trẻ em có RLLA của các tác giả
Nguyễn Thị Hồng Thúy, Trần Thành Nam, Cao Vũ Hùng, Đặng Hoàng Minh
(2004) được tiến hành thử nghiệm trên 20 trẻ có RLLA. Với nghiên cứu này,

nhóm tác giả đã khẳng định mô hình nhận thức hành vi được coi là mô hình trị
liệu có hiệu quả đối với trẻ có RLLA và chứng minh rằng nếu trị liệu đầy đủ
phiên trị liệu thì vấn đề lo âu ở trẻ dẽ giảm dần và có thể hết hẳn [21].
Năm 2012, Huỳnh Hồ Ngọc Anh - tác giả của luận văn thạc sỹ tâm lý
học lâm sàng, với đề tài "Tác động của trị liệu nhận thức hành vi đến học sinh
trung học phổ thông có rối loạn lo âu dựa trên định hình trường hợp". Trên cơ
sở nghiên cứu, tác giả đã có những đánh giá tổng hợp lý luận về rối loạn lo âu


và phương thức trị liệu. Quá trình trị liệu cho thấy việc áp dụng mô hình hành
vi nhận thức theo từng bước cụ thể thân chủ có khả năng nắm bắt được khi lo
âu đến và tự điều chỉnh cảm xúc của mình. Đồng thời từ mô hình định hình
trường hợp nhà tâm lý lâm sàng có công cụ để xây dựng kế hoạch và chọn lựa
cách thức trị liệu phù hợp nhất đối với từng thân chủ của mình[2].
Như vậy, nhận thức được ảnh hưởng nghiêm trọng của vấn đề lo âu đến
sức khỏe tâm thần con người có thể thấy rằng có khá nhiều các nghiên cứu về
các rối loạn lo âu. Những nghiên cứu này được tiếp cận cả về phía nghiên cứu
lý luận cho đến những nghiên cứu mang tính chất ứng dụng thực tế trên những
nhóm đối tượng nhất định. Trong số các nghiên cứu đó không có nhiều nghiên
cứu tập trung vào tìm hiểu về mức độ biểu hiện và các dạng RLLA cụ thể ở
sinh viên. Điều đó cho thấy đây là một hướng nghiên cứu cần tiếp tục được đi
sâu tìm hiểu hơn nữa.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Rối loạn lo âu
1.2.1.1. Khái niệm về RLLA
Lo âu là hiện tượng phản ứng tự nhiên của con người trước những khó
khăn và các mối đe dọa của tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm cách vượt
qua, tồn tại và vươn tới. Lo âu là một tín hiệu báo động, báo trước một nguy
hiểm sắp xảy đến, để con người sử dụng mọi biện pháp đương đầu với sự đe
dọa. Bàn về khái niệm lo âu, hiện nay có nhiều tác giả tìm hiểu và mỗi tác giả

lại đề cập đến lo âu theo những cách khác nhau:
Theo Trần Đình Xiêm, lo âu là một cảm giác bất an, lo sợ lan tỏa hết
sức khó chịu nhưng thường mơ hồ kèm theo một triệu chứng của cơ thể [25].

Nguyễn Viết Thiêm khi bàn về lo âu lại cho rằng: Lo âu là một trạng
thái bệnh lý. Khi lo âu mang đặc tính dai dẳng, lan tỏa, tản mạn, không liên
quan, không khu trứ vào một sự kiện hay hoàn cảnh đặc biệt nào ở xung quanh
hoặc có liên quan tới sự kiện đã qua không còn tính chất thời sự nữa [17].


Trong cuốn từ điển Tâm Lý học, tác giả Vũ Dũng đã viết: Lo âu là
những trải nghiệm cảm xúc tiêu cực được quy định bởi sự chờ đợi điều gì đó
nguy hiểm, có tính chất khuếch tán, không liên quan đến các sự kiện cụ thể.
Trạng thái cảm xúc xuất hiện trong các tình huống nguy hiểm không xác định
và được thể hiện trong việc chờ đợi sợ tiến triển không thuận lợi của sự kiện.
Khác với hoảng sợ, lo âu được coi là phản ứng đối với một đe dọa cụ thể nào
đó, lo âu thể hiện sự sợ hãi chung chung, mang tính lan truyền và không có
đối tượng, thường có liên hệ với việc chờ đợi điều không may trong tương tác
xã hội và thường được tạo bởi sự không ý thức được nguồn gốc của nỗi nguy
hiểm. Khi lo âu ở cấp độ sinh lý, nhịp thở tăng, nhịp tim đập nhanh hơn, huyết
áp cao hơn, hưng phấn tăng, ngưỡng tri giác giảm. Về mặt chức năng, lo âu
không chỉ cảnh báo về sự nguy hiểm có thể xảy ra mà còn kích thích tìm kiếm
và cụ thể hóa mối nguy hiểm đó, tích cực tìm hiểu thực tế với mục đích xác
định đối tượng đe dọa. Lo âu có thể biểu hiện như cảm giác về sự bất lực,
thiếu tự tin vào bản thân, bất lực trước các yếu tố bên ngoài, phóng đại sức
mạnh và tính đe dọa của chúng. Biểu hiện về hành vi của lo âu nằm ở chỗ hóa
giải các hoạt động làm ảnh hưởng đến xu hướng và hiệu quả của hoạt động.
Lo âu như một cơ chế phát triển loại thần kinh chức năng - lo âu loạn tâm hình
thành trên cơ sở của các mâu thuẫn bên trong trong quá trình phát triển và cấu
thành tâm lý. Ví dụ: từ mức độ gắn bó (như phụ thuộc giữa con và cha mẹ)

cao, thiếu cơ sở đạo đức cho động cơ có thể dẫn tới tin tưởng một cách bất
hợp lý về mối đe dọa từ những người khác, của chính cơ thể mình, kết quả từ
chính hành động của mình Trong nghiên cứu thực nghiệm, người ta phân ra:
Lo âu tình huống - biểu hiện đặc điểm trạng thái hiện thời của cá nhân; lo âu
như một nét nhân cách - tính lo âu thiên hướng trải nghiệm lo âu cao từ những
nguy hiểm thực tế hoặc tưởng tượng. Có thể giảm lo âu với sự trợ giúp của các
cơ chế bảo vệ như loại trừ, thay thế, hợp lý hóa, phóng chiếu [8].


Theo Nguyễn Minh Tuấn, lo âu là một rối loạn biểu hiện ra bên ngoài
bằng một cảm giác lo lắng không đối tượng, lan tỏa và dai dẳng [10]. Tuy có
nhiều cách phát biểu khác nhau về thuật ngữ lo âu nhưng ở các khái niệm đưa
ra thì chúng đều đề cập đến những đặc điểm sau:
- Liên quan đến nỗi lo lắng về một việc gì đó rất khó chịu và khó đối
phó sẽ xảy ra.
- Là một rối loạn thể hiện những lo lắng, sợ hãi quá mức so với tình
huống.
- Những lo lắng này chỉ tập trung vào những tình huống không thực sự
nguy hiểm.
Như vậy, trên cơ sở tổng hợp các khái niệm của các tác giả, chúng tôi
đưa ra một khái niệm về rối loạn lo âu như sau: Rối loạn lo âu là một rối loạn
cảm xúc được đặc trưng bởi sự lo lắng quá mức , dai dẳng và kéo dài nhiều
ngày về một tình huống có tính chất vô lý, lặp đi lặp lại và kéo dài ảnh
hưởng đến sự thích nghi trong cuộc sống. Lo âu cũng là sự lặp đi lặp lại
những suy nghĩ vô lý, những hành vi mang tính chất nghi thức, đồng thời
đi kèm với những trạng thái về thể chất: khó thở, mệt mỏi, không ngủ được,
ra mồ hôi tay, tim đập nhanh
1.2.1.2. Các biểu hiện của RLLA
Từ cách hiểu về rối loạn lo âu như trên, chúng ta có thể hiểu lo âu là
một trong những cảm xúc cơ bản của con người. Lo âu thường liên quan đến

việ quá c lo lắng về một điều gì đó rất khó chịu và khó đối phó. Khi lo âu trở
nên quá mức so với tình huống hoặc chỉ tập trung vào những tình huống
không thực sự gây nguy hiểm thì lo âu lúc này đã trở thành một vấn đề cần
được quan tâm trị liệu.
Ở góc độ sinh lý, phản ứng lo âu biểu hiện ở sự tăng nhịp tim, hô hấp,
tăng huyết áp, hưng phấn, giảm ngưỡng cảm giác. Ở góc độ tâm lý, rối loạn lo
âu được thể hiện như một sự căng thẳng, dễ bị kích động, cảm xúc thất bại,


không có khă năng đưa ra quyết định. Các triệu chứng lo âu được biểu hiện
theo các khía cạnh sau:
* Về hành vi:
- Thể hiện sự căng thẳng, run hoặc bồn chồn, bất an, không tập trung tư
tưởng được, có khi cáu kỉnh, có khi như sắp khóc, ấp úng không nói lên lời.
- Né tránh tiếp xúc ( thu mình, trốn tránh người lạ, chỗ lạ )
- Luôn bám chặt hoặc phụ thuộc vào người thân
* Về nhận thức:
- Cảm giác, tri giác: Cảm giác không thật, lệch lạc âm thanh, ánh sáng,
cảm giác mơ hồ, hoặc tri giác sai thực tại
- Tư duy tưởng tượng:
- Tập trung vào các biểu hiện của bản thân một cách quá mức.
- Luôn sợ hãi, lo lắng, tưởng tượng một cách quá mức cái gì đó đe dọa
suộc sống: sợ bị điên, sợ ốm đau, bệnh tật, tai nạn hoặc người thân chết, đói
kém, cư xử ngốc nghếch trước mặt người khác
- Đánh giá tương lai một cách bi quan, bất hạnh
* Các biểu hiện cơ thể (do rối loạn hệ thần kinh thực vật gây ra)
- Hệ tim mạch: tim đập nhanh, hồi hộp, đau ngực, tức ngực, vã mồ hôi
- Hệ hô hấp: Cảm giác ngột ngạt, thiếu không khi thở, thở nhanh, thở
sâu, thở dài, thở hắt, rối loạn nhịp thở
- Hệ tiêu hóa: cảm giác vướng họng, khó nuốt, khô miếng, biếng ăn, co

thắt dạ dày, ăn không tiêu, nôn nào, táo bón
- Hệ tiết niệu: Đái dắt, đái són, đái nhiều, đái dầm
- Hệ thần kinh: đau đầu, chóng mặt, nhìn mờ, tê tay chân, khó ngủ, ác
mộng, cáu bẳn, dễ bị kích thích
- Hệ xương: Mỏi nhức xương khớp, căng cơ bắp


1.2.1.3. Một số RLLA phổ biến [5], [9],[45].[47].
RLLA xuất hiện do những hoàn cảnh hay đối tượng nào đó và thực tế
không gây nguy hiểm. Kết quả đặc trưng là người có RLLA né tránh các hoàn
cảnh và đối tượng đó hoặc là chịu đựng với khiếp sợ. Lo âu ám ảnh sợ không
phân biệt được với các loại lo âu khác về mặt chủ quan, sinh lý hay tác phong
và mức độ trầm trọng của nó có thể tập trung vào các triệu chứng cá nhân như
đánh trống ngực hoặc cảm giác ngất xỉu và thường hay kết hợp với các hiện
tượng thứ phát như sợ chết, sợ mất tự chủ hay sợ điên. Lo âu không nhẹ đi khi
biết rằng người khác không coi hoàn cảnh đó là nguy hiểm hay đe dọa. Chỉ
suy nghĩ về một hoàn cảnh gây ám ảnh sợ thường cũng đủ để gây ra một trạng
thái lo âu đi trước.
Lo âu ám ảnh sợ thường kết hợp với trầm cảm. Lo âu ám ảnh sợ có
trước hầu như luôn bị nặng lên khi có một giai đoạn trầm cảm xen vào. Một số
giai đoạn trầm cảm là cần thiết hoặc chỉ một chẩn đoán được xác định nếu một
rối loạn phát triển rõ rệt trước một rối loạn khác hoặc là một rối loạn phát triển
rõ rệt ở một thời điểm làm chẩn đoán.
* Ám sợ khoảng trống
Thuật ngữ “ám sợ khoảng trống” ở đây được dùng với nghĩa rộng,
không chỉ bao gồm sợ khoảng trống mà sợ cả những khía cạnh liên quan như
sự có mặt một đám đông và việc khó rút lui đến một nơi an toàn. Bởi vậy,
thuật ngữ này kể đến một cụm những ám ảnh sợ liên hệ qua lại và thường gối
lên nhau bao gồm: sợ đi vào cửa hàng, sợ đám đông và các nơi công cộng
hoặc sợ đi một mình trong tàu hỏa, xe ô tô hoặc máy bay. Tuy nhiên mức độ

trầm trọng của lo âu và phạm vi của tác phong né tránh có khác nhau. Đây là
những ám ảnh sợ làm mất năng lực hơn cả và một số người phải hoàn toàn ở
trong nhà, nhiều người hoảng sợ bởi ý nghĩ bị xỉu đi và bị bỏ rơi ở chỗ công
cộng. Không dễ dàng tìm ra một lối thoát là nét chủ yếu của nhiều hoàn cảnh
sợ khoảng trống. Người bị ám ảnh sợ khoảng trống có thể thấy dễ chịu khi ở

×