Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ PHÂN PHỐI THEO CÁC YÊU CẦU CỦA WTO VÀ CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.89 KB, 49 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành dịch vụ phân phối là ngành kinh tế quốc dân quan trọng, không chỉ ở việc chiếm tỉ
lệ 13 – 14% GDP cả nước, mà còn ở ý nghĩa kinh tế - xã hội khi nó là cầu nối giữa nhà sản
xuất và người tiêu dùng. Với vai trò chi phối mạnh mẽ các ngành sản xuất công – nông
nghiệp, ngành dịch vụ phân phối có ý nghĩa quan trọng trong an ninh kinh tế quốc gia.
Hiện nay, có một thực tế là hệ thống phân phối của Việt Nam đang bị đánh giá là rất yếu
kém về tài chính, quản lý, thiếu chuyên môn, thiếu sự liên kết, và rất dễ bị tiêu diệt bởi các
tập đoàn phân phối khổng lồ của thế giới trong cạnh tranh ngay trên sân nhà, thì sự quan
tâm của Nhà nước và xã hội lại hoàn toàn chưa tương xứng mà biểu hiện cụ thể nhất là các
quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn và hạn chế.
Hơn thế nữa, sự phức tạp và tỷ lệ 85% của kênh phân phối truyền thống (chợ và tiệm tạp
hóa nhỏ) trong hệ thống phân phối khiến nhiều ý kiến lo ngại rằng gia nhập WTO, ngành
phân phối non trẻ của Việt Nam sẽ là ngành đầu tiên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cạnh tranh
và có thể sẽ bị nuốt chửng bởi các tập đoàn khổng lồ của thế giới.
Tuy nhiên, ngay cả khi phải đối mặt với những khó khăn đó, không một chuyên gia kinh tế
nào phủ định được những mặt, những khía cạnh tích cực mà tự do hóa thương mại dịch vụ
mang lại cho người tiêu dùng và xã hội. Chấp nhận tự do hóa, chấp nhận cạnh tranh nghĩa
là chấp nhận một cơ chế minh bạch và bình đẳng trước pháp luật trong gia nhập thị trường
nhưng không đồng nghĩa với chấp nhận sự lạm dụng vị thế kẻ mạnh (chủ yếu là nhà đầu tư
nước ngoài) để chèn ép kẻ yếu (chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước), từng bước khống
chế rồi thống trị thị trường.
Đứng trước hoàn cảnh thực tế nhiều mâu thuẫn như vậy, một chính sách vĩ mô cho ngành
dịch vụ phân phối cần được nghiên trên cơ sở những tư tưởng cơ bản thể hiện trong các
quy phạm pháp luật hiện hành đang điều chỉnh ngành thương mại này, và so sánh với các
nội dung chủ yếu trong các cam kết WTO của Chính phủ ta ở lĩnh vực này. Hơn thế nữa,
việc hình dung và khái quát hóa một lộ trình phát triển [quy luật phát triển nội tại] của
chúng [các quy phạm pháp luật] trong thời gian tới trên cơ sở nỗ lực duy trì sự cân bằng lợi
ích kinh tế, bằng các điều tiết của Nhà nước bằng pháp luật, giữa tự do thương mại và bảo
hộ hay an ninh kinh tế quốc gia không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn
quan trọng.


2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Hiện tại, các nghiên cứu về luật thương mại rất phong phú, tập trung ở rất nhiều
chủ đề: quy chế thương nhân, hành vi thương mại, hợp đồng mua bán hàng… Tuy nhiên,
riêng đối với lĩnh vực phân phối mới chỉ có một số nghiên cứu nhỏ, được thể hiện dưới
hình thức những bài báo trên một số tạp chí khoa học pháp lý của các tác giả. Tương tự, có
rất nhiều các nghiên cứu tổng quát về các vấn đề pháp lý trong việc gia nhập WTO cũng
như các cam kết của Chính phủ cũng như tác động của nó đến hệ thống pháp luật Việt
Nam, nhưng chưa có nghiên cứu riêng, cụ thể về lĩnh vực phân phối. Bên cạnh đó, đối với
một số chuyên mục của đề tài như franchising, đại lý mua bán hàng hóa, hiện đã có luận
văn thạc sỹ luật học và khóa luận tốt nghiệp đề cập, chẳng hạn, luận văn “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam” của học viên Nguyễn Thị
Minh Huệ bảo vệ năm 2005 tại Đại học Luật Hà Nội ( luận văn này viết vào thời điểm Việt
Nam chưa gia nhập WTO).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các nội dung của tự do hóa thương mại
dịch vụ phân phối theo yêu cầu WTO; đánh giá đúng thực trạng pháp luật về thương mại
dịch vụ phân phối và phân tích tác động của các cam kết WTO đối với sự điều chỉnh pháp
luật về thương mại dịch vụ phân phối ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Làm sáng tỏ nội dung của tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu
cầu của WTO.
- Phân tích nội dung các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân
phối.
- Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối.
- Phân tích sự tác động của các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ
phân phối đối với sự điều chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng trong luận văn là các phương pháp:

diễn dịch, quy nạp, so sánh, lịch sử, khảo sát, thống kê.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Các kết quả nghiên cứu của đề tài có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích đối với
những người nghiên cứu, học tập về vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối và tác
động của các cam kết WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ phân phối đối với sự điều
chỉnh pháp luật về thương mại dịch vụ phân phối.
6. Cơ cấu của luận văn
Cơ cấu luận văn bao gồm 4 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận và phụ lục.
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung, bao gồm 2 chương:
Nội dung chương 1 về tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo các yêu cầu
của WTO và các cam kết của Chính phủ Việt Nam . Chương 1 tập trung làm rõ vấn đề tự
do hóa thương mại dịch vụ phân phối trong tình hình hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam .
Chương 1 nhấn mạnh về tính hiện thực của tự do hoá thương mại từ thương mại hàng hoá
đến thương mại dịch vụ như một xu hướng tất yếu thể hiện qua Hiệp định thương mại tự
do về dịch vụ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO – Hiệp định GATS. Chương 1 cũng
đặt trọng tâm phân tích những cam kết chung của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ và phân
phối từ góc độ quan điểm lập pháp và chính sách thương mại.
Nội dung chương 2 về thực trạng pháp luật Việt Nam và tác động của các cam kết
WTO và xu hướng phát triển của quy phạm pháp luật đối với ngành thương mại dịch vụ
phân phối. Chương 2 dành cho việc phân tích, đánh giá hiện trạng pháp luật Việt Nam
(trước khi gia nhập WTO và sau khi gia nhập WTO) về ngành dịch vụ phân phối nói chung
và từng lĩnh vực của phân phối nói riêng như: dịch vụ đại lý ủy quyền, dịch vụ bán buôn,
dịch vụ bán lẻ, franchising. Trên cơ sở những phân tích về hiện trạng, đối chiếu với quy
định của WTO, chương 2 tập trung vào việc phát hiện những nét thay đổi của các quy
phạm pháp luật để chỉ ra sự tác động của các cam kết WTO và xu hướng phát triển của các
quy phạm pháp luật ngành dịch vụ phân phối nói chung.
Phần 3: Kết luận
Kết luận của đề tài được rút ra và tóm tắt từ những kết quả nghiên cứu ở Chương 1
và Chương 2.

Phần 4: Phụ lục.

Chương 1:
TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ PHÂN PHỐI
THEO CÁC YÊU CẦU CỦA WTO
VÀ CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM
1.1. Tự do hóa thương mại- một xu hướng tất yếu của đời sống kinh tế -xã hội
1.1.1. Tự do hóa thương mại là gì ?
Tự do là một phạm trù quan trọng của triết học và chính trị, nhưng tự do hóa thì lại thường
được hiểu như là sự chuyển biến, thay đổi trong các chính sách kinh tế xã hội của Chính
phủ theo hướng cởi mở, nới lỏng so với những quy định đã thiết lập trước đó.[1]
Thông thường, người ta sử dụng nhóm các thuật ngữ tự do hoá kinh tế, tự do hoá thương
mại, tự do hoá thị trường vốn, và gọi chung chúng trong chính sách tân tự do hay chủ
nghĩa tự do mới để phân biệt với chủ nghĩa tự do kinh tế, hay chủ nghĩa tự do cổ điển hoặc
chủ nghĩa tự do Manchester, là một hệ tư tưởng ủng hộ quyền tư hữu và tự do khế ước.
Với chủ nghĩa tự do cổ điển, quyền tư hữu và tự do khế ước (hay tự do hợp đồng) là thiêng
liêng và bất khả xâm phạm, là nền tảng để thực thi các quyền tự do khác. Vì thế, chủ nghĩa
tự do cổ điển quan niệm nền kinh tế và thị thường có khả năng tự điều tiết theo các quy
luật riêng của nó, và trách nhiệm của Chính phủ chỉ đơn thuần là dỡ bỏ các rào cản pháp lý
hạn chế thương mại và chấm dứt những ưu đãi của Chính phủ đối với một số ít các đối
tượng bao cấp hay hưởng độc quyền. Một số kinh tế gia của chủ nghĩa tự do kinh tế còn
muốn rằng Chính phủ điều tiết thị trường càng ít càng tốt hay thậm chí không điều tiết gì
cả. Một số khác lại chấp nhận các hạn chế mà Chính phủ đặt ra đối với các công ty độc
quyền và cartel, một số khác lại tranh luận rằng chính các hành động của chính phủ đã tạo
ra các công ty độc quyền và cartel. Chủ nghĩa tự do kinh tế quan niệm giá trị của hàng hóa
và dịch vụ nên được quyết định bởi sự lựa chọn tự do của các cá nhân, tức là theo các động
lực của thị trường. Một số thậm chí còn cho rằng cần cho phép các quy luật thị trường hoạt
động ngay cả trong những lĩnh vực mà theo truyền thống vẫn do chính phủ độc quyền, như
an ninh và tòa án. Chủ nghĩa tự do kinh tế chấp nhận sự bất bình đẳng kinh tế xuất phát từ
vị trí thỏa thuận không cân bằng (unequal bargaining position), vì theo họ, nó là kết quả tự

nhiên của cạnh tranh, miễn là không có sự cưỡng bách. Chủ nghĩa tư bản chính phủ ít can
thiệp và chủ nghĩa tư bản vô chính phủ là các hình thức khác của chủ nghĩa tự do kinh tế.
Những năm 1970, với sự bắt đầu của toàn cầu hóa, khi chủ nghĩa tự do kinh tế đối mặt với
cuộc khủng hoảng đầu tiên của thế giới về giá dầu mỏ, thì chủ nghĩa tân tự do xuất hiện
như là một học thuyết về sự tự do kinh tế quốc tế với nội dung chính là: (1) giảm thiểu các
hàng rào thương mại đang hạn chế thị trường trong nước, và (2) quyền lực và ảnh hưởng
quốc gia để ép buộc mở cửa thị trường nước ngoài. Chủ nghĩa tân tự do chấp nhận sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, nhất là vai trò của một ngân hàng trung ương mạnh có
khả năng điều tiết kinh tế thông qua chính sách lãi suất. Sau đó, những năm 1990, các
chính sách kinh tế tân tự do ("neoliberal”) còn gắn liền với tư nhân hóa công nghiệp (quá
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước) và mở cửa thị trường nội địa.
Là một bộ phận của chính sách tân tự do, nhưng khái niệm tự do hóa thương mại lại được
sự ủng hộ mạnh mẽ cả từ chủ nghĩa tự do cổ điển, khi nó diễn đạt một quá trình, một vận
động xã hội, có hoặc không có sự ảnh hưởng, sự tương tác, hay sự điều khiển có chủ đích
của Nhà nước, định hướng nhằm đạt đến thương mại tự do. Nội dung cơ bản của thương
mại tự do, một khái niệm trong nhiều trường hợp bị gắn cho những ý nghĩa chính trị, bao
gồm những nét khái quát như sau:
- Thương mại tự do về hàng hóa không có thuế quan (hay không bị giới hạn bởi
những hàng rào thuế quan);
- Thương mại tự do về dịch vụ không bị thuế quan (và những hàng rào cản thương
mại);
- Tự do lưu chuyển nguồn lao động giữa các quốc gia;
- Tự do lưu chuyển vốn – tài chính giữa các quốc gia;
- Sự vắng mặt của những chính sách thương mại bảo hộ (như là thuế, tiền trợ cấp,
quy định, hay luật) cho những xí nghiệp trong nước, các hộ gia đình, và kể cả cho các yếu
tố sản xuất của nước ngoài đang hiện diện tại quốc gia sở tại mà có lợi thế; bên cạnh sự
vắng mặt của những chính sách bóp méo thương mại nhằm mục đích củng cố quyền sở
hữu để bảo đảm cho quyền lợi của những đối tượng này.
[2]
Các nội dung trên đây của thương mại tự do diễn đạt hai góc độ: góc độ mô hình, kiểu thị

trường và góc độ chính sách thương mại của một Chính phủ. Vì thế, trong thương mại
quốc tế, thương mại tự do được hiểu như là một kiểu thị trường cạnh tranh lý tưởng với
phạm vi vượt ra ngoài lãnh thổ một quốc gia, và đồng thời, cũng thường được xem như là
một mục tiêu chính trị đa quốc gia, mà sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia
này sẽ được thực hiện mà không có sự kiểm soát bằng những chính sách nhập khẩu.
Trong giới khoa học kinh tế, thương mại tự do còn được cổ súy bởi những người theo
trường phái kinh tế học tân cổ điển và các nhà kinh học tế vi mô. Theo sự diễn đạt của họ,
khi lợi ích của thương mại chính là giá trị thực có được của cả hai bên tham gia vào quá
trình thương mại, thì thương mại tự do chính là sự gia tăng các giá trị thực cho xã hội. Thế
nhưng, trái với lý luận của họ, thương mại tự do hiện đang bị chống đối mạnh mẽ từ phong
trào chống toàn cầu hóa với nhữung cuộc biểu tình mà đa số người tham gia là nhân dân
lao động tại nhiều quốc gia. Những người biểu tình cho rằng thương mại tự do đang bị lạm
dụng bởi các nước giàu có.
1.1.2. Tính hiện thực của xu hướng tự do hóa thương mại
Có rất nhiều tranh luận về vai trò, tính chất, ý nghĩa và tác động của toàn cầu hóa, quốc tế
hóa trong đời sống xã hội, nhưng mọi người đều đồng ý rằng, theo sự phát triển vượt bậc
của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhất là viễn thông và công nghệ thông tin, quá trình
toàn cầu hóa, quốc tế hóa đã hiện diện ở khắp nơi trong mọi ngóc ngách của xã hội loài
người.
Sự hiện diện ở khắp nơi của toàn cầu hóa, quốc tế hóa có thể bắt nguồn và được tiếp sức từ
quy luật phát triển và không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ của chủ nghĩa tư bản quốc
tế, thì đương nhiên, tự do hóa thương mại cũng khẳng định tính hiện thực của mình trong
thương mại quốc tế mà biểu hiện rõ ràng nhất là sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) và hàng loạt các tổ chức thương mại quốc tế khác để xây dựng các khu vực tự
do thương mại, hoặc thị trường chung. Cụ thể, có thể liệt kê một số tổ chức thương mại
quốc tế lớn như:
- WTO hay Tổ chức Thương mại Thế giới (tên tiếng Anh là World Trade
Organization, viết tắt WTO) là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức
năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy
tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản

thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 25 tháng 1 năm 2008, WTO có
152 thành viên là quốc gia và vùng lãnh thổ.
- NATFA hay Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (tên tiếng Anh là North
America Free Trade Agreement, viết tắt là NAFTA): là Hiệp định thương mại tự do giữa
ba nước Canada , Mỹ và Mexico , ký kết ngày 12/8/1992, hiệu lực từ ngày 1/01/1994.
- EU hay Liên minh Châu Âu (tên tiếng Anh là European Union, viết tắt EU): Ngay
từ năm 1987, EU bắt đầu triển khai kế hoạch xây dựng "Thị trường nội địa thống nhất
Châu Âu" trước khi hình thành Liên minh kinh tế và tiền tệ trong những năm thập niên 90
của thế kỷ XX, rồi đến Liên minh về chính trị và an ninh.
- AFTA hay Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (tên tiếng Anh là ASEAN Free Trade
Area, viết tắt là AFTA) là một hiệp định thương mại tự do đa phương giữa các nước trong
khối ASEAN. Hiệp định về AFTA được ký kết vào năm 1992 tại Singapore, với sáu nước
ban đầu là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (gọi chung là
ASEAN-6). Các nước Campuchia, Lào, Myanma và Việt Nam (gọi chung là CLMV) được
yêu cầu tham gia AFTA khi được kết nạp vào khối này.
- SAFTA hay Hiệp định Khu vực Thương mại tự do Nam Á (tên tiếng Anh là The
South Asia Free Trade Area) được ký tại cuộc họp cấp cao Hiệp hội Hợp tác Khu vực Nam
Á tổ chức ơ Pakistan tháng 1/2004, đã chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006 với sự
tham gia của 7 nước thành viên gồm: Bangladesh, Sri Lanka, Nepal, Pakistan, Bhutan,
Maldives và Ấn Độ.
Từ thực tiễn đời sống chuyển vào pháp luật, bên cạnh việc hình thành những hiệp định
thương mại tự do đa phương với nhiều quốc gia, thương mại tự do còn khẳng định sự hiện
diện của mình qua sự bùng nổ của hàng loạt các hiệp định tự do hóa thương mại song
phương. Chẳng hạn, chỉ trong đầu năm 2004, người ta vừa chứng kiến một Hiệp định
thương mại tự do song phương (viết tắt là FTA) giữa Hàn Quốc và Chi-lê được ký kết và
có hiệu lực, thì Trung Quốc và Ấn Độ cũng khởi động đàm phán để ký FTA, và ngay sau
đó, một FTA giữa Thái Lan và Úc đã được ký kết. Hơn thế nữa, Thái Lan và Úc đều đang
nỗ lực đàm phán để ký kết FTA với Mỹ. Ngoài ra, một FTA giữa Thái Lan và Niu Di-lân
sắp trở thành hiện thực. Ngay trước đó, Singapore ký FTA với Nhật Bản, rồi ký FTA với
Thái Lan, rồi với Mỹ, hiệp định chính thức có hiệu lực từ năm 2004.

Tại Việt Nam, tính hiện thực của quá trình tự do hóa thương mại chính là quá trình đổi mới
và hội nhập kinh tế quốc tế trong tổng thể chuyển biến kinh tế từ mô hình tập trung quan
liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, và trong pháp
luật, đó là sự mở rộng quyền tự do kinh doanh thương mại (đối tượng hưởng quyền, nội
dung hàng hóa thực hiện tự do kinh doanh, …) liên tục trong suốt thời gian qua.
1.1.3. Tự do hóa thương mại ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam – một xu thế tất
yếu từ chính cuộc sống trước cả khi nước ta gia nhập WTO
a. Khái niệm “phân phối” và “dịch vụ phân phối”
Theo Từ điển Bách khoa mở Wiki, bản tiếng Anh, Wikipedia – The free encyclopedia thì
“phân phối” (distribution) trong kinh doanh (business) là một trong bốn khía cạnh của hoạt
động ma-két-ting (marketing), mà cụ thể là ma-két-ting hỗn hợp (marketing mix).[3] Thuật
ngữ marketing mix ra đời lần đầu tiên vào đầu những năm 1960 bởi Giáo sư Neil Borden,
Trường dạy kinh doanh Harvard (Mỹ) để ám chỉ việc thực hiện đồng thời bốn (04) vấn đề:
nội dung, cách thức, phương thức tương tác thể hiện hoạt động kinh doanh của một số
công ty Mỹ đã có ảnh hưởng rất tích cực đáng kể đến người tiêu dùng, đó là: Sản phẩm
(hay dịch vụ) - product, Chính sách giá bán - pricing, Chính sách ưu đãi và khuyến mãi –
promotion và Vấn đề nơi chốn, cách thức bán sản phẩm (hay dịch vụ) - placement (một số
gọi tắt là place) hoặc distribution. Như vậy, ban đầu, khi đề cập đến phân phối
(distribution), đó là khía cạnh địa điểm thực hiện bán hàng tương ứng theo địa lý, lãnh thổ
quốc gia, nhưng về sau, cùng sự phát triển của thương mại, nội dung chủ yếu của phân
phối là kênh phân phối (distribution channel) hay cách thức một sản phẩm đến tay người
tiêu dùng. [4]
Thành công và hiệu quả trong vận dụng marketing mix đã khiến nó trở thành phổ cập và
được sử dụng rộng rãi trên khắc thế giới. Bên cạnh đó, khi quy trình tích tụ tư bản đã hình
thành nên những tập đoàn kinh tế khổng lồ, có năng lực sản xuất đủ để tạo ra một khối
lượng sản phẩm (hay dịch vụ) ở quy mô cực lớn có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều triệu
người, thuộc nhiều quốc gia khác nhau thì vấn đề cách thức bán, giao sản phẩm đến người
tiêu dùng là cực kỳ quan trọng và mang tính sống còn với tập đoàn kinh tế đó. Do vậy, bên
cạnh việc doanh nghiệp tự tổ chức phân phối sản phẩm (hay dịch vụ) đến người tiêu dùng,
thì sự xuất hiện những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phân phối chuyên nghiệp là tất yếu.

Vì thế, trong thương mại và kinh doanh, dịch vụ phân phối (cũng đồng thời là hành vi
phân phối) cần được định nghĩa là việc thực hiện một phần hay toàn bộ các hoạt động có
liên quan đến tổ chức điều hành và vận chuyển hàng hóa từ người sản xuất đến người tiêu
dùng. Và thông thường, dễ thấy nhất, dịch vụ phân phối do các nhà bán buôn và bán lẻ
thực hiện là bán lại hàng hoá, kèm theo hàng loạt các dịch vụ phụ trợ có liên quan (phục vụ
cho quá trình bán hàng) như: bảo quản lưu kho hàng hoá; bốc rỡ, lắp ráp, sắp xếp và phân
loại đối với hàng hoá có khối lượng lớn; và một loạt các dịch vụ liên quan đến người bán
buôn và bán lẻ như chế biến, kho hàng, dịch vụ bảo quản lạnh, bãi đỗ xe. Hoạt động phân
phối còn cung cấp cho người tiêu dùng một loạt các dịch vụ bổ sung khác như việc giúp
cho bên cầu có sự lựa chọn chính xác hơn, và tăng sự thuận tiện khi mua hàng. Tuy nhiên,
trên thực tế, trong một số trường hợp, vì cung cấp thêm một số dịch vụ này, thậm chí tham
gia cả vào một số chức năng của sản xuất (đặt cọc trước, kiểm soát và quản lý chất lượng)
nên ranh giới giữa nhà sản xuất và nhà phân phối có thể là không rõ ràng, đặc biệt, khi
phân phối dịch vụ, người cung ứng dịch vụ đồng thời cũng là người phân phối dịch vụ.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới WTO thì dịch vụ phân phối định nghĩa (bằng cách liệt
kê) với bốn (04) nhóm chính là: dịch vụ đại lý ủy quyền (comission agents’ services, ký
hiệu CPC 621), dịch vụ bán buôn (wholesale trade services, ký hiệu CPC 622), dịch vụ bán
lẻ (retailing services, ký hiệu CPC 631 + 632 + 6111 + 6113 + 6121) và nhượng quyền
thương mại (franchising, ký hiệu CPC 8929). [5]
b. Hiện trạng ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam và vấn đề tự do hóa
thương mại ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong những năm gần đây, phong cách tiêu dùng và
mua sắm của người dân Việt Nam ở các thành phố lớn đã có những thay đổi đáng kể. Một
bộ phận đáng kể, nhất là người có thu nhập cao, đã chán phong cách bán hàng nhỏ lẻ manh
mún, chất lượng, giá cả không ổn định ở các điểm bán hàng nhỏ và các chợ. Họ đã đến các
siêu thị lớn để mua hàng, cũng đồng thời là sự thụ hưởng cơ sở hạ tầng hiện đại, hàng hóa
đa dạng, chất lượng giá cả ổn định và có nhiều hình thức khuyến mãi.
Vì thế, trước khi Việt Nam gia nhập WTO, trên thị trường đã có rất nhiều nhà đầu tư nước
ngoài thâm nhập vào thị trường dịch vụ phân phối Việt Nam, một thị trường đang phát
triển nhanh, mạnh với dân số đông và trẻ, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hứa hẹn nhu cầu

tiêu dùng lớn. Và ngay lập tức, dược phẩm và hàng tiêu dùng là hai lĩnh vực chứng kiến sự
cạnh tranh nhằm kênh phân phối giữa các nhà phân phối trong với nhau và với cả các nhà
đầu tư nước ngoài. Với lĩnh vực hàng tiêu dùng, người ta đã thấy sự xuất hiện các Tập
đoàn kinh doanh siêu thị khổng lồ của nước ngoài là Metro Cash & Carry (Đức), Big C
(Pháp) (Big Customer), Parkson (tập đoàn Lion Group-Malaysia) tại Việt Nam. Đương
nhiên, tại thời điểm đó, các tập đoàn này được cấp phép đầu tư trong lĩnh vực phân phối
chỉ dựa trên các quy định pháp luật về đầu tư nước ngoài và các luận chứng kinh tế kỹ
thuật do nhà đầu tư tự xây dựng chứ chưa dựa trên bất kỳ một cam kết quốc tế nào của
Chính phủ Việt Nam. Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam lại có những cam kết về lĩnh vực
dịch vụ phân phối trong Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (ký
kết năm 2001, sau đây gọi tắt là BTA) và Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư giữa Việt
Nam và Nhật Bản, nhưng đều chưa được đưa ra áp dụng để giải quyết cho một trường hợp
nào.
Cũng tại thời điểm này, sự hiện diện của những tập đoàn quốc tế khổng lồ chuyên nghiệp
không che khuất được sự yếu kém, nhỏ bé và manh mún của ngành dịch vụ phân phối Việt
Nam khi hệ thống phân phối truyền thống với trên 9000 chợ, dù đang thu lượng lớn dân cư
thì cửa hàng đều ở trong tình trạng chung là có diện tích nhỏ, trung bình khoảng 11,8
m2/cửa hàng, trang thiết bị thô sơ và chủ yếu sử dụng lao động phổ thông. Hơn thế nữa,
ngay cả doanh nghiệp thương mại trong nước phần lớn cũng là doanh nghiệp có quy mô
nhỏ và vừa. Doanh thu bán lẻ từ hệ thống phân phối hiện tại của Việt Nam chiếm chưa tới
10% thị trường bán lẻ trong nước vì phần lớn hệ thống phân phối còn rất non trẻ. (theo số
liệu từ nguồn Báo cáo Bộ Thương mại, nay là Bộ Công thương năm 2004)
Chúng ta cũng cần chú rằng đây là thời điểm Việt Nam đang tiến hành đàm phán hội nhập
kinh tế về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác (ASEAN Cộng), đồng thời đàm
phán gia nhập WTO. Vấn đề mở cửa thị trường Việt Nam đối với dịch vụ phân phối đang
được chuẩn bị theo đề nghị từ các đối tác đàm phán.
Bên cạnh đó, người ta cũng đang chứng kiến sự mạnh dần lên của các doanh nghiệp trong
nước khi ít nhất, một số lượng doanh nghiệp thương mại đã vận dụng sự phát triển công
nghệ và kỹ thuật để bắt đầu chú ý đến mạng lưới phân phối của mình, kể cả việc thực hiện
phân phối qua mạng Internet vì những tiện ích đáng kể của nó. Lúc này, bên cạnh những

mạng phân phối mới được liên thông từ tỉnh thành này sang tỉnh thành khác với sự phân
cấp: tổng đại lý, đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ,… còn có khuynh hướng phân phối trực
tuyến ở Việt Nam vừa chính thức vừa ngầm nhưng rất mạnh mẽ, có vô số trang web tiếng
Việt khác nhau thực hiện các giao dịch thương mại trên mạng internet.
Với tất cả những yếu tố trên, mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam sẽ
là một hiện thực mang tính tất yếu, tuy nhiên, điều này không cản trở yêu cầu đặt ra cho
Chính phủ Việt Nam là phải thực hiện quá trình mở cửa thị trường (lộ trình và thời gian
thực hiện cam kết) cần được xây dựng trong một chiến lược phù hợp với yêu cầu bảo hộ
ngành phân phối trong nước còn non trẻ.
1.2. Tự do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo quan niệm và theo các quy
định của WTO
Khởi đầu từ hàng hóa hữu hình, tự do hóa thương mại được mở rộng sang lĩnh vực
dịch vụ, và nếu Hiệp định GATT/WTO 1994 nhằm dỡ bỏ những rào cản thuế quan cho
hàng hóa hữu hình, thì những nội dung cơ bản nhất của tự do hóa thương mại dịch vụ được
chuyển vào GATS/WTO: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (sau đây viết tắt là
GATS) một trong ba trụ cột cơ bản và quan trọng nhất của WTO (GATS, GATT và TRIPs).
Là bộ phận quan trọng của WTO, GATS được xây dựng với ba mục tiêu chính: (1)
khuyến khích tự do hóa thương mại dịch vụ càng nhiều càng tốt; (2) từng bước mở rộng tự
do hóa thương mại dịch vụ thông qua đàm phán; và (3) thiết lập cơ chế giải quyết tranh
chấp về thương mại dịch vụ.
Là một hiệp ước quốc tế, đối tượng điều chỉnh của GATS là hành vi của Chính phủ
của một Thành viên trong xây dựng và thực hiện các chính sách trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ. Theo quy định của GATS, hành vi này (ở cấp độ Chính phủ) được hiểu là việc ban
hành các văn bản pháp quy do các cơ quan có thẩm quyền của Thành viên tại thời điểm
hiện tại và trong tương lai. Hơn thế nữa, GATS quy định khi đã cam kết tham gia GATS
trong một ngành dịch vụ cụ thể, thì Chính phủ của quốc gia Thành viên còn có nghĩa là có
trách nhiệm rà soát, điều chỉnh các quy định đã ban hành của mình phù hợp với các quy
định của GATS để tạo thuận lợi cho việc tự do hóa thương mại trong lĩnh vực dịch vụ đó.
Có thể tóm tắt các quan niệm và quy định của GATS về thương mại tự do, cũng như tự do
hóa thương mại dịch vụ như sau:

+ Về nguyên tắc, các quốc gia nhận thức rằng, “đạt được tự do hóa thương mại dịch
vụ ở mức ngày càng cao” thông qua việc “đảm bảo sự cân bằng chung về quyền và nghĩa
vụ, đồng thời tôn trọng các mục tiêu chính sách quốc gia” dựa trên việc “thiết lập một
khuôn khổ đa biên cho những nguyên tắc và quy tắc của thương mại dịch vụ, nhằm mở
rộng thương mại trong lĩnh vực này trong điều kiện minh bạch và từng bước tự do hóa và
như là một công cụ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của tất cả các đối tác thương mại và vì
sự phát triển của các nước đang phát triển”. (Lời nói đầu của GATS, bản dịch tiếng Việt
đăng tải trên website Bộ Thương mại nay là Bộ Công thương).
Như vậy, tự do hóa thương mại dịch vụ là nỗ lực của các quốc gia cho việc hình thành một
khuôn khổ pháp lý (đối với hoạt động dịch vụ, đặc biệt có liên quan đến yếu tố nước
ngoài) trên từng quốc gia tương ứng với những chuẩn mực chung (các nguyên tắc và
khuôn khổ của GATS) nhưng vẫn đảm bảo được sự cân bằng với việc thực hiện các mục
tiêu chính sách quốc gia. Điều này có nghĩa rằng, thương mại tự do không thể vượt trên
chủ quyền lãnh thổ và tự quyết của quốc gia Thành viên trong việc điều chỉnh và ban hành
những quy định các quy phạm pháp luật trên lãnh thổ của mình.
+ Về mô tả phương thức cung cấp dịch vụ, GATS chia việc cung cấp dịch vụ mang
tính quốc tế thành bốn (04) phương thức:
i) Phương thức (1) - Giao dịch qua biên giới: là việc cung cấp dịch vụ được tiến hành
từ lãnh thổ của một nước này sang lãnh thổ của một nước khác. Ví dụ: Gọi điện thoại quốc
tế, khám bệnh từ xa trong đó bệnh nhân và bác sỹ khám ngồi ở hai nước khác nhau.
ii) Phương thức (2) - Sử dụng dịch vụ ở nước ngoài: là người sử dụng dịch vụ mang
quốc tịch một nước đi đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: Du học, đi
chữa bệnh ở nước ngoài.
iii) Phương thức (3) - Hiện diện thương mại: là người cung cấp dịch vụ mang quốc tịch
một nước đi đến một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp dịch vụ ở nước đó. Ví
dụ: một ngân hàng thương mại mở một chi nhánh ở nước ngoài, tập đoàn phân phối mở
siêu thị tại quốc gia.
iv) Phương thức (4) - Hiện diện thể nhân: là người cung cấp dịch vụ là thể nhân mang
quốc tịch một nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: Một giáo
sư được mời sang một trường đại học ở nước ngoài để giảng bài, một cá nhân đến một

quốc gia nước ngoài nhân danh chính mình thực hiện đại lý hay môi giới thương mại.
Thương mại dịch vụ quốc tế trong lĩnh vực phân phối được thực hiện chủ yếu thông qua
phương thức (3) - hiện diện thương mại và phương thức (1) - giao dịch qua biên giới,
nhưng ngày nay, điều này hoàn toàn có thể thay đổi với sự hiện diện của thương mại điện
tử và các tiến bộ kỹ thuật khác. Bên cạnh đó, với nhượng quyền thương mại thường chỉ
thực hiện theo phương thức (1) - giao dịch qua biên giới còn đại lý ủy quyền thì chủ yếu
vừa thực hiện thông qua phương thức (3) - hiện diện thương mại và và phương thức (1)
giao dịch qua biên giới.
+ Về nội dung các quy định cụ thể, GATS bao gồm các nguyên tắc được áp dụng vô
điều kiện (không phụ thuộc vào quá trình đàm phán) và các biện pháp áp dụng có điều kiện
(chủ yếu dựa trên các cam kết là kết quả đàm phán của mỗi nước).
1.2.1. Các nguyên tắc được áp dụng vô điều kiện của GATS
GATS bao gồm một tập hợp các nghĩa vụ (nguyên tắc) chung mà tất cả các quốc
gia thành viên phải tuân thủ:
a. Nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc (MFN[M1] ): Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi thành viên
không được phân biệt đối xử giữa các dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ đến từ các nước
thành viên khác nhau.
b. Nghĩa vụ minh bạch hóa: Mỗi nước thành viên phải công khai các quy định của
mình trong lĩnh vực dịch vụ và phải thiết lập các Điểm hỏi đáp để cung cấp thông tin liên
quan cho các nước thành viên khác cũng như các doanh nghiệp của các nước đó.
c. Các nghĩa vụ liên quan đến doanh nghiệp dịch vụ độc quyền: GATS yêu cầu
các nước thành viên phải thiết lập các thủ tục hành chính và các nguyên tắc tố tụng minh
bạch, khách quan đối với hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ độc quyền (để đảm bảo
rằng các doanh nghiệp này không lạm dụng vị trí độc quyền). Chẳng hạn, liên quan đến
doanh nghiệp dịch vụ độc quyền trong lĩnh vực viễn thông, WTO quy định các nước thành
viên có nghĩa vụ như sau: (i) ban hành các quy định để đảm bảo các doanh nghiệp dịch vụ
độc quyền phải đối xử bình đẳng đối với mọi khách hàng, kể cả khách hàng trong nước và
khách hàng ngoài nước; (ii) ban hành và thực thi các thủ tục hành chính để đảm bảo kiểm
soát việc thực hiện nghĩa vụ này của các doanh nghiệp.
1.2.2. Các biện pháp áp dụng có điều kiện của GATS

Các biện pháp áp dụng có điều kiện là cơ sở để các quốc gia xây dựng Biểu cam
kết cụ thể về thương mại dịch vụ riêng của mình (gọi tắt là Biểu cam kết dịch vụ). Với
từng quốc gia, các biện pháp áp dụng có điều kiện được hình thành từ chính quá trình đàm
phán gia nhập. Thông thường, Biểu cam kết dịch vụ (hay các biện pháp áp dụng có điều
kiện) của một quốc gia, thông thường, sẽ gồm 3 phần:
- Cam kết chung cho tất cả các ngành và phân ngành dịch vụ được đưa vào Biểu cam
kết dịch vụ;
- Cam kết cụ thể áp dụng cho từng dịch vụ đưa vào Biểu cam kết dịch vụ (cam kết
thể hiện mức độ mở cửa thị trường đối với từng dịch vụ và mức độ đối xử quốc gia dành
cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong dịch vụ đó); và
- Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc (MFN), bảo lưu việc vi
phạm nguyên tắc MFN đối với những dịch vụ có duy trì biện pháp miễn trừ.
Biểu cam kết dịch vụ hay cam kết riêng của mỗi nước về thương mại dịch vụ
thường sẽ tập trung giải quyết về 02 vấn đề sau đây: (i) mở cửa thị trường cho dịch vụ và
các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài; và (ii) mức độ đối xử quốc gia đối với dịch vụ và
các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Cụ thể:
a. Về mức độ mở cửa thị trường
“Mở cửa thị trường” được hiểu là việc cho phép dịch vụ và các nhà cung cấp dịch
vụ của các nước thành viên khác được tiếp cận thị trường nội địa ở những mức độ nhất
định. Với mỗi nước, cam kết mở cửa thị trường được thực hiện đối với từng phân ngành
dịch vụ ở từng mức độ khác nhau, và mức độ mở cửa tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán khi
gia nhập WTO.
Nội dung cam kết mở cửa thị trường trong từng phân ngành dịch vụ bao gồm các điều kiện
có tính ràng buộc, hạn chế đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ở mức độ khác
nhau, mà cụ thể, đó là quy định về:
- Số lượng các nhà cung cấp dịch vụ;
- Giá trị của các hoạt động dịch vụ được thực hiện;
- Số lượng các hoạt động dịch vụ được thực hiện;
- Số lượng nhân viên (được phép tuyển dụng, bao gồm cả số lượng người nước
ngoài làm việc tại quốc gia sở tại);

- Hình thức pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ. Ví dụ chỉ được tham gia thị trường
dưới hình thức công ty cổ phần…;
- Mức độ góp vốn trong liên doanh... Ví dụ: Đối với dịch vụ sản xuất phim, cam kết
về mở cửa thị trường của Việt Nam liên quan đến phương thức hiện diện thương mại của
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bao gồm các điều kiện sau: (i) chỉ được tham gia thị
trường Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh với đối tác
Việt Nam đã được phép cung cấp các dịch vụ này tại Việt Nam; và (ii) phần vốn góp của
phía nước ngoài không được vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh.
b. Về nguyên tắc đối xử quốc gia (NT)
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) đòi hỏi một nước thành viên phải có chính sách,
quy định đối với các dịch vụ, các nhà cung cấp dịch vụ từ các nước thành viên khác bằng
hoặc tốt hơn các chính sách, quy định áp dụng cho dịch vụ và doanh nghiệp dịch vụ nội địa
của mình. Vì vậy, cam kết về đối xử quốc gia trong mỗi phân ngành dịch vụ thực chất là
tập hợp các điều kiện, hạn chế mà nước thành viên áp dụng đối với nhà cung cấp dịch vụ
và dịch vụ nước ngoài (theo cách kém ưu đãi hơn, không bình đẳng với nhà cung cấp dịch
vụ và dịch vụ trong nước) - tức là các cam kết về ngoại lệ đối với nguyên tắc đối xử quốc
gia. Dưới góc độ pháp lý, nhằm tự do hóa thương mại dịch vụ, khi tham gia GATS, các
nước thành viên thường đưa ra các cam kết về việc mở cửa thị trường dịch vụ theo nguyên
tắc không phân biệt đối xử (quy chế tối huệ quốc - MFN). Tức là, thành viên của WTO
phải dành cho nhà cung cấp dịch vụ của các thành viên khác đối xử không kém ưu đãi hơn
đối xử mà nước này dành cho một nước thứ ba. Sau đó, sẽ điều chỉnh hệ thống phán luật
quốc nội từng bước, hướng tới xóa bỏ hoàn toàn các hạn chế đối với các sản phẩm dịch vụ
nhập khẩu, cũng như đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài khi tiến hành cung cấp dịch
vụ trên lãnh thổ quốc gia mình.
1.2.3. Nội dung của GATS trong lĩnh vực dịch vụ phân phối - cam kết của các quốc
gia thành viên WTO về tự do hóa dịch vụ phân phối
Bên cạnh các nội dung chính nêu trên, GATS còn có các Phụ lục với một số quy
định chi tiết về một số nhóm ngành dịch vụ cụ thể tương ứng theo sự thỏa thuận của các
quốc gia thành viên, bao gồm: dịch vụ vận tải hàng không; dịch vụ tài chính; dịch vụ vận
tải biển; dịch vụ viễn thông.

Đối với ngành dịch vụ phân phối, các quốc gia thành viên WTO chưa đạt được bất
kỳ một kết quả thương lượng nào. Do vậy, nội dung cơ bản của cơ cấu pháp lý đối với tự
do hóa thương mại dịch vụ phân phối theo WTO cần được hiểu giới hạn trong tổng thể các
Biểu cam kết dịch vụ của các quốc gia thành viên về lĩnh vực này. Và đương nhiên, trong
trường hợp này, tổng thể các cam kết của các thành viên WTO liên quan tới lĩnh vực phân
phối sẽ hình thành một cơ cấu pháp lý đóng vai trò quan trọng, là cơ sở không chỉ để các
nước thành viên WTO điều chỉnh pháp luật quốc gia, mà còn là căn cứ để những quốc gia
sẽ gia nhập WTO đưa ra các cam kết của mình, khi xác định mức độ tiếp cận thị trường đối
với dịch vụ phân phối tại quốc gia mình, những hạn chế và điều kiện liên quan tới tiếp cận
thị trường và đối xử quốc gia theo các cách khác nhau mà dịch vụ phân phối được cung
cấp.
Xin xem Bảng 1: Số lượng các cam kết đối với phương thức (1), (2) và (3) trong
dịch vụ phân phối tại phần Phụ lục để ở cuối luận văn (tr.i).
Qua bảng này, dễ thấy sự vượt trội của xu hướng lưu lại việc thiết lập những hạn chế
thương mại và rào cản công khai nhằm bảo hộ thị trường trong nước. Các hạn chế này có
thể tóm tắt trong một số nhóm biện pháp tiêu biểu sau:
a. Nhóm các hạn chế về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia
Trước hết, cần giải thích thêm về cách dịch, cách hành văn trong Bảng 1 ở trên, không cam
kết thể hiện quan điểm rõ quan điểm Quốc gia Thành viên bảo lưu mọi khả năng áp dụng
tất cả các biện pháp hạn chế và rào cản để bảo hộ thị trường trong nước. Không hạn chế
đồng nghĩa với việc áp dụng quy chế đối xử quốc gia (NT). Một phần, tức là bên cạnh việc
áp dụng quy chế đối xử quốc gia, Thành viên đó vẫn duy trì việc bảo lưu một số nội dung
nhằm bảo hộ thị trường nội địa. Các nội dung bảo lưu đó, thông thường nhất, bao gồm:
- Vấn đề phải thông qua cấp giấy phép kinh doanh;
- Quy định phải phù hợp với luật sở hữu công nghiệp quốc gia sở tại mới thanh toán
bản quyền;
- Quy định phải thực hiện theo phương thức (3) - hiện diện thương mại kèm theo
không cam kết đối với phương thứ (4) - hiện diện thể nhân;
- Hạn chế đầu tư: hạn chế về khu vực địa lý đầu tư, và bảo lưu hạn chế đầu tư trong
nhóm lĩnh vực, nhóm sản phẩm hoặc ngành nghề kinh doanh đặc biệt.

Về mặt pháp lý, các hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia nằm trong quy
định về trình tự và thủ tục thành lập doanh nghiệp hoặc đăng ký kinh doanh để cung cấp
dịch vụ tại Việt Nam, thể hiện ở điều kiện khi nộp đơn và xem xét cấp giấy phép đầu tư.
Nội dung này sẽ được phân tích kỹ hơn của những phần sau[M2] .
b . Hạn chế theo chiều ngang
Hạn chế theo chiều ngang có ảnh hưởng cực lớn đến thực hiện theo phương thức (3) - hiện
diện thương mại. Các biểu hiện cụ thể của nó là:
- Yêu cầu phê chuẩn, kiểm tra nhu cầu kinh tế trước khi cấp phép hoạt động;
- Hạn chế về việc mua bán hoặc thuê bất động sản;
- Hạn chế về tỷ lệ vốn: vốn tối thiểu, tỷ lệ nắm giữ vốn;
- Yêu cầu giám đốc phải là người thường trú; và
- Các biện pháp trợ giá dành cho các đối tượng nội địa.
Hạn chế theo chiều ngang khác biệt hạn chế tiếp cận thị trường ở chỗ, hạn chế theo chiều
ngang không chỉ được quy định như là những điều kiện (nhu cầu kinh tế, giám đốc là
người thường trú, …) để được cấp phép thành lập doanh nghiệp kinh doanh tại thị trường
quốc gia, mà còn bao gồm cả những điều kiện ràng buộc mà các nhà đầu tư nước ngoài
phải tuân thủ trong suốt quá trình hoạt động, như những yếu tố pháp lý bắt buộc trong suốt
quá trình tồn tại: tỷ lệ lao động, hạn chế tỷ lệ vốn, … và cả những yếu tố thể hiện sự phân
biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ trong nước và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Bên cạnh các hạn chế nêu trên, các quốc gia Thành viên WTO cũng thực hiện việc công bố
một nhóm các sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) bị loại trừ hẳn ra khỏi phạm vi các cam kết.
Mặc dù có sự khác biệt đáng kể trong danh mục các loại trừ này, từ nhóm rất ít vì nhiều lý
do an ninh và quốc phòng tại quốc gia này đến một loại các sản phẩm thông dụng có phạm
vi rộng tại quốc gia khác, nhưng ở góc độ chung nhất, vẫn có thể liệt kê những sản phẩm
hàng hóa bị loại trừ, cụ thể như sau: vũ khí, đạn dược và chất nổ; dược phẩm, thuốc men
và phụ liệu dùng trong chỉnh hình; các nguyên liệu nông nghiệp thô và động vật sống; thực
phẩm, đồ uống và thuốc lá; kim loại quý và thiết bị vận tải. Phạm vi các sản phầm hàng
hóa bị loại trừ thường không chỉ vì lý do an ninh quốc phòng mà còn nhằm mục tiêu bảo
hộ triệt để nhóm, lĩnh vực trong kinh tế quốc gia. Cũng vì thế, nhiều thành viên loại trừ
dịch vụ phân phối đối với thị trường bán buôn công cộng, trong khi một số nước khác loại

trừ những hàng hóa mà pháp luật quốc gia yêu cầu phải được cấp phép khi nhập khẩu ra
khỏi danh mục cam kết.
1.3. Các cam kết của Việt Nam về tự do hóa dịch vụ phân phối
1.3.1. Nội dung các cam kết WTO của Việt Nam về dịch vụ phân phối
Cam kết WTO của Việt Nam chính là tuyên bố của Chính phủ Việt Nam, một quốc
gia thành viên, nhằm cụ thể hóa việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của mình khi gia nhập
một điều ước quốc tế. Vì thế, cam kết về dịch vụ phân phối là cam kết để thực hiện GATS,
và sẽ là cơ sở để Chính phủ Việt Nam sẽ ban hành mới hoặc điều chỉnh các quy định hiện
hành cụ thể cho ngành dịch vụ phân phối.
Biểu cam kết dịch vụ WTO của Việt Nam, bản tiếng Việt được công bố rộng rãi
trên các phương tiện đại chúng, bao gồm 02 phần chính, được tóm tắt như sau:
a. Cam kết chung (còn được gọi là các cam kết nền)
Cam kết nền hay những cam kết được áp dụng chung cho tất cả 12 ngành, phân
ngành dịch vụ theo sự phân loại của chính WTO. Nội dung các cam kết nền chỉ tập trung
trong phương thức (3) - hiện diện thương mại và phương thức (4) - hiện diện thể nhân.
Đối với phương thức (3) - hiện diện thương mại, Việt Nam công bố một cam kết không
đầy đủ khi bảo lưu các hạn chế sau:
i) Các công ty nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh,
trừ phi điều đó được cho phép theo cam kết trong từng ngành cụ thể (vừa là hạn chế đầu
tư, vừa là hạn chế phương thức cung cấp dịch vụ).
ii) Các công ty nước ngoài cũng được phép mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt
Nam, nhưng mức mua trong từng ngành sẽ phải phù hợp với hạn chế về phần vốn thuộc sở
hữu nước ngoài quy định trong Biểu cam kết (riêng ngành ngân hàng, phía nước ngoài chỉ
được phép mua tối đa 30% cổ phần). Đây là hạn chế theo chiều ngang, thể hiện trong yêu
cầu về tỷ lệ vốn.
iii) Các công ty nước ngoài cũng được phép đưa cán bộ quản lý vào Việt Nam làm
việc, nhưng tối thiểu 20% số cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam . Đây
cũng là hạn chế theo chiều ngang thể hiện trong yêu cầu về tỷ lệ lao động.
Cả ba nội dung trên vừa đồng thời thể hiện hạn chế trong tiếp cập thị trường (hạn
chế đầu tư, cấp phép) và cả hạn chế theo chiều ngang (tỷ lệ vốn và tỷ lệ lao động) và

nhưng và đều đã từng xuất hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam trong quy định về
trình tự và thủ tục theo Luật đầu tư nước ngoài, nhưng riêng vấn đề tỷ lệ vốn thì chỉ mới
được phản ánh vào pháp luật trong thời gian gần đây.
Đối với phương thức (4) - hiện diện thể nhân, Việt Nam tuyên bố không cam kết, và đồng
thời xác lập những loại trừ của việc không cam kết này.
b. Cam kết cụ thể đối với từng phân nhóm dịch vụ
Trước hết, thuốc lá và xì gà, sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình, kim loại
quý và đá quý, dược phẩm (không bao gồm các sản phẩm bổ dưỡng phi dược phẩm dưới
dạng viên nén, viên con nhộng hoặc bột), thuốc nổ, dầu thô và dầu đã qua chế biến, gạo,
đường mía và đường củ cải được loại trừ ra khỏi phạm vi cam kết. Xin xem: Bảng 2 - Các
cam kết WTO cụ thể của Việt Nam về lĩnh vực phân phối tại phần Phụ lục để ở cuối luận
văn (tr. ii và iii).
Về cơ bản, các cam kết nền trong WTO là gần giống với cam kết của nước ta trong
BTA (Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ). Tương tự như BTA, Việt Nam không mở cửa thị
trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách, báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường
và kim loại quý cho nước ngoài. Bên cạnh đó, với nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép,
phân bón, xi-măng..., Việt Nam chỉ mở cửa thị trường theo lộ trình nhất định tương đối dài
(sau 3 năm). Quan trọng nhất, Việt Nam hạn chế rất chặt khả năng mở điểm bán lẻ của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn thế nữa, cam kết của Việt Nam trong WTO
thấp hơn hiện trạng, vì trên thực tế, một số tập đoàn phân phối lớn đã thành lập siêu thị
100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Việc hạn chế khả năng mở điểm bán lẻ sẽ giữ được thị
trường cho các nhà phân phối Việt Nam .
Cam kết về dịch vụ trong WTO rộng hơn về diện, nhưng không cao hơn nhiều về
mức độ mở cửa so với Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA). Nước ta đã bảo
vệ được những ngành, phân ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... với mức
độ cam kết gần như BTA. Với các ngành khác, nước ta đã có những bước tiến phù hợp
định hướng phát triển thương mại dịch vụ nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. Ðiều
quan trọng là nước ta đã đạt được một lộ trình thực thi với thời gian chuyển tiếp trong
khoảng 3 đến 5 năm cho các cam kết chính trong các ngành dịch vụ quan trọng.
Do đó, hoàn toàn có thể nói, trong nội dung cam kết này, Chính phủ Việt Nam chỉ

thuần túy xây dựng một rào cản toàn diện về lộ trình và phạm vi lĩnh vực hoạt động đối với
thương nhân nước ngoài (từ các quốc gia và lãnh thổ thành viên WTO).
1.3.2. Lộ trình thực hiện các cam kết WTO và mục tiêu tương thích đặt ra với hệ
thống pháp luật Việt Nam
Về lộ trình, đầu tiên, đó là hạn chế về tỷ lệ vốn góp này được từng bước nới lỏng
và đến năm 2009, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài mới được phép thành lập. Cụ thể,
đối với dịch vụ bán buôn, bán lẻ và đại lý, tại thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập liên doanh với phần vốn góp không qúa 49%
vốn pháp định của liên doanh.
Từ 1/1/2008, hạn chế này được quy định ở mức 51% và từ 1/1/2009, hạn chế về sở
hữu nước ngoài sẽ được bãi bỏ. Bắt đầu từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ phân phối được phép bán buôn, bán
lẻ và làm đại lý bán tất cả các mặt hàng nhập khẩu hợp pháp hoặc sản xuất ở trong nước,
trừ các sản phẩm: xi măng, lốp (trừ lốp máy bay), máy kéo, động cơ xe máy, ô tô, xe máy,
thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và đồ uống có cồn, phân bón. Sau 03 năm kể từ thời điểm
Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp nói trên được phép phân phối tất cả các mặt
hàng, nhưng hạn chế phân phối máy kéo, động cơ xe máy, ô tô, xe máy sẽ được bãi bỏ đầu
tiên, từ 1/1/2009. Việc thành lập các điểm bán lẻ ngoài cơ sở ban đầu phải được xem xét
trong từng trường hợp cụ thể tùy thuộc vào nhu cầu và tình hìnhh phát triển của thị trường
(kiểm tra nhu cầu kinh tế- ENT). Đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại, ngay tại thời
điểm Việt Nam gia nhập WTO, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập liên
doanh với phần vốn góp không quá 49%. Từ 1/1/2008, hạn chế này là 51% và từ 1/1/2009,
hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Sau 3 năm kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập chi nhánh để kinh doanh dịch vụ nhượng
quyền thương mại.
Cam kết về dịch vụ phân phối với lộ trình như trên về cơ bản là tương đương với
BTA và phù hợp với hiện trạng trong nước, vì thế, cam kết này sẽ không gây ra tác động
quá lớn về kinh tế xã hội và đương nhiên, chúng ta có thời gian chuyển đổi để chuẩn bị và
cũng có một số công cụ để kiểm soát. Hơn nữa, sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân
phối sẽ làm chi phí đưa hàng hóa từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng và chi phí giao dịch

nói chung giảm, giúp các ngành sản xuất trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh. Theo
hướng đó, Chính phủ nhìn nhận một cách cân đối về thách thức và tác động của việc mở
cửa thị trường trong cả lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ. Rõ ràng, thách thức của doanh
nghiệp này, ngành này có thể là cơ hội của doanh nghiệp khác, ngành khác và ngược lại.
Theo hướng đó, việc lạm dụng hạn chế bảo lưu được trong một số ngành chỉ khiến cho
tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới của ngành đó thêm trầm trọng.
Vậy thì, để đảm bảo cơ hội nâng cao sức cạnh tranh, tiết kiệm chi phí xã hội nói
chung, cũng như để giải quyết được hiện trạng các mâu thuẫn như:
i) đã cấp phép tập đoàn phân phối khổng lồ nước ngoài thành lập doanh nghiệp 100%
vốn tại Việt Nam trên cơ sở các quy định chung về đầu tư nước ngoài trước cả các cam kết
WTO, trong khi hệ thống các doanh nghiệp phân phối trong nước nhỏ bé manh mún đang
có đòi hỏi mạnh mẽ về bảo hộ;
ii) sự xuất hiện của các cam kết WTO trong khi hệ thống pháp luật quốc gia chưa xây
dựng những quy định cụ thể về điều kiện và trình tự thủ tục cấp phép đầu tư gia nhập thị
trường dịch vụ phân phối Việt Nam ;
iii) yêu cầu phát triển thương mại nội địa, phát triển hệ thống phân phối quốc gia luôn
được đặt ra nhưng chính sách phát triển và quy hoạch phát triển lại chưa đồng bộ, cơ chế
bảo hộ và các chính sách hỗ trợ nói chung đối với các doanh nghiệp trong nước cũng chưa
đầy đủ;
iv) trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, nhiều vấn đề về mặt lập pháp, không chỉ
trong mở cửa thị trường, đối xử quốc gia mà ở đối xử tối huệ quốc, minh bạch hóa và điều
chỉnh các doanh nghiệp độc quyền nhà nước được các đối tác đặt ra và yêu cầu điều chỉnh
bằng các văn bản pháp luật cụ thể.
Như vậy, rõ ràng, Việt Nam đang đối diện với một yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn về
tính tương thích giữa các cam kết WTO với hệ thống pháp luật nói chung và trong lĩnh vực
phân phối nói riêng.
Chương 2:
HIỆN TRẠNG PHÁP LUẬT NƯỚC TA VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
PHÂN PHỐI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CAM KẾT WTO CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI SỰ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH

VỤ PHÂN PHỐI
Là một ngành, lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nhưng pháp
luật Việt Nam chưa từng quan tâm chú ý xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng
bộ về lĩnh vực dịch vụ phân phối.
Trước hết, đó là vì thuật ngữ “phân phối” chỉ được nhắc đến như là một thuật ngữ quan
trọng của kinh tế chính trị học Marx - Lenin, và “quan hệ phân phối” dưới tiếp tiếp cận
dưới góc độ lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong kinh tế xã hội chứ hoàn toàn không
liên hệ trực tiếp đến hoạt động phân phối (một phần của marketing – mix). Sau đó, trong
nền kinh tế tập trung bao cấp, là một giai đoạn quan trọng trong chu trình sản xuất – phân
phối – trao đổi – tiêu dùng, Nhà nước thực hiện “phân phối” sản phẩm (dưới hình thức tem
phiếu) đến tận người dân theo kế hoạch hóa và cào bằng như một chức năng quản lý Nhà
nước chứ hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận. Khái niệm “phân phối” xuất hiện rất hạn
chế và chủ yếu trong các văn bản dưới luật như một mảng, một lĩnh vực, một chức năng
hoạt động nhỏ bé trong khối lượng khổng lồ các công việc mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa
theo mô hình Liên xô (cũ) gánh vác và hoàn toàn không được xem như là một hoạt động
kinh doanh thương mại vì mục tiêu lợi nhuận.
Chẳng hạn, trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1988, chúng ta đã có các 14 văn bản
pháp luật sau có sử dụng từ “phân phối”
[6]
, dưới các hình thức thông tư, chỉ thị, quyết
định, điều chỉnh việc phân phối, sử dụng nhuận bút đối với các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học hết thời hạn hưởng quyền tác giả, đá xây dựng và đá vôi ở tỉnh Nam Bộ,
phân phối xe ô tô con trong cả nước; lợi nhuận doanh nghiệp; bia; phân phối và sử dụng
học sinh tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề;
sách giáo khoa. Tức là, trong tất cả các văn bản trên đây, “phân phối” được sử dụng chính
và chủ yếu theo nguyên nghĩa trong kinh tế chính trị học (trong vấn đề phân phối thu nhập,
của cải xã hội), và “phân phối” sách giáo khoa, nhân lực đã qua đào tạo, bia, ô tô, đá vôi là
một hoạt động chính thức và thuần túy của Nhà nước trong điều tiết sản phẩm và nguồn
lực của mình.
Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu vì với nhiều người, “phân phối”, đơn giản nhất, là bán lại

hàng đã mua từ nhà sản xuất hoặc từ một người bán buôn đến người tiêu dùng và đương
nhiên, hệ quả là “hành vi phân phối” được đồng nhất vào “hành vi mua bán” hàng hóa.
Chính vì thế, Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005 hoàn toàn không
đề cập hay sử dụng thuật ngữ “phân phối” hay “hành vi phân phối” như một hành vi
thương mại đặc thù, riêng biệt. Và điều bất ngờ thú vị là văn bản luật đầu tiên nhấn mạnh
“phân phối” như một hành vi thương mại đặc thù, riêng biệt lại là Bộ luật Tố tụng dân sư
năm 2004, điều 29, khoản 1, điểm c, tách khỏi mua bán hàng hóa (điểm a) và cung ứng
dịch vụ (điểm b).
[7]
Hơn thế nữa, cũng cần lưu ý rằng, Việt Nam nộp đơn gia nhập WTO từ năm 1995, và Báo
cáo gia nhập WTO của Việt Nam do Ban công tác chuẩn bị đã ghi nhận đại diện Việt Nam
trả lời hơn 500 vấn đề mà Thành viên WTO thắc mắc trong đó có rất nhiều nội dung có
liên quan đến về quyền kinh doanh thương mại (xuất khẩu và nhập khẩu), cũng như quyền
phân phối thể hiện trong pháp luật Việt Nam. Điều này có nghĩa là chúng ta đã tiếp cận rất
sớm với các quan niệm và suy nghĩ về phân phối của WTO, nhưng pháp luật Việt Nam
chưa từng hiểu “phân phối” với 04 nội dung cơ bản: đại lý ủy nhiệm, bán buôn, bán lẻ và
nhượng quyền thương mại như cách diễn đạt tại danh mục phân loại dịch vụ của WTO và
cũng vì thế, đối với từng nội dung, Việt Nam lại có một cơ cấu pháp lý riêng biệt và chúng
ta sẽ lần lượt đi từng nội dung này.
Bên cạnh đó, cũng cần nhấn mạnh rằng, có một mâu thuẫn giữa thực tiễn pháp lý trong
nước, quan niệm rằng phân phối nằm trong mua bán hàng hóa, và trả lời của đại diện Việt
Nam khi tách biệt rạch ròi quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu và quyền nhập khẩu – bản
chất là mua bán hàng hóa qua biên giới) và quyền phân phối ngay chính tại nội dung 146,
Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO. Sự tách biệt rạch ròi hiện tại
giữa quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu và quyền nhập khẩu) với quyền phân phối đã là
một sự tiến bộ nhất định vì nó chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
nếu so sánh với lịch sử phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong nước với nhau:
giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh, cũng như giữa thành phần kinh tế trong nước và
nước ngoài.
Trong giai đoạn nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và kế hoạch hóa, Nhà nước độc

quyền thương mại quốc tế thông qua các doanh nghiệp Nhà nước của mình. Bắt đầu mở
cửa hội nhập, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ bắt đầu có quyền xuất khẩu và
quyền nhập khẩu khi xin được giấy phép xuất nhập khẩu (cho từng chuyến hàng) từ Bộ
Thương mại theo quy định tại Nghị định số 114/HĐBT về quản lý xuất nhập khẩu ngày
7/4/1992 và sau đó là Nghị định số 33/CP ngày 19/4/1994. Tiếp đó, Nghị định số 89/CP
ngày 15/12/1995 bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu từng chuyến hàng (do
Bộ Thương mại cấp) đối với một số nhóm sản phẩm nhất định trước khi Luật Thương mại
năm 1997 và Nghị định số 57/1998/NĐ – CP năm 1998 hướng dẫn Luật Thương mại năm
1997 về xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý hàng hóa cho nước ngoài loại bỏ hoàn
toàn thủ tục này bằng việc quy định xuất nhập khẩu hàng hóa chỉ dựa trên ngành nghề
đăng ký kinh doanh của thương nhân. Hơn nữa, Nghị định 44/2001/NĐ – CP ngày
2/8/2001 sửa đổi bổ sung Nghị định 57/1998/NĐ – CP với khung hướng khuyến khích xuất
khẩu, không chỉ quy định quyền xuất khẩu không phụ thuộc vào quy định trong giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh cho thương nhân thuộc thành phần kinh tế trong nước và cả chi
nhánh của thương nhân. Cuối cùng, Nghị định 12/2006/NĐ – CP hướng dẫn chi tiết thi
hành Luật Thương mại (2005) về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, các hoạt động đại
lý, mua bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài (sau đây gọi tắt là Nghị định
12/2006) khẳng định, thương nhân Việt Nam (không có vốn đầu tư nước ngoài) có quyền
xuất khẩu nhập khẩu hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh trong giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh (điều 3, khoản 1).
Đây cũng là giai đoạn chúng ta đã có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất
hiện tại Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1988, sửa đổi bổ sung
năm 1990 và sau đó được tiếp tục sửa đổi năm 1993. Là một sự tách biệt hoàn toàn với
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1991 (thành phần đầu tư trong nước),
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1988 và Nghị định số 139/HĐBT ngày 5/9/1988
đã xác lập một khung pháp lý riêng biệt về mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, theo đó, quy định về thủ tục xét duyệt danh mục hàng hóa nhập khẩu hàng
năm và tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Tuy thế, với chính sách khuyến khích xuất khẩu, Nghị
định số 44/2001/NĐ – CP sửa đổi bổ sung Nghị định số 57/1998/NĐ – CP về xuất khẩu,
nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài lại trao cho doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh quyền xuất khẩu không phụ thuộc vào ngành
nghề kinh doanh trong giấy phép. Khung pháp lý này được duy trì đến ngày 1/7/2006 mới
bị bãi bỏ bởi Luật đầu tư năm 2005.
Hiện tại, ở góc độ chung nhất, thành phần kinh tế trong nước có toàn quyền thực hiện
quyền phân phối (bao hàm đầy đủ các khía cạnh xuất khẩu, nhập khẩu và 04 nhóm dịch vụ
theo Danh mục phân loại dịch vụ của WTO về phân phối) trong phạm vi lãnh thổ hải quan
của Việt Nam khi hoàn tất việc đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 và
Nghị định số 88/2006/NĐ – CP về đăng ký kinh doanh trừ trường hợp có quy mô lớn phải
thực hiện theo Luật đầu tư năm 2005.
Trong khi đó, thực hành cam kết WTO, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 23/2007/NĐ
– CP (tại thời điểm gia nhập đang là dự thảo) hướng dẫn Luật Thương mại năm 2005 đối
với nội dung mua bán hàng hóa (bán buôn, bán lẻ) và các hoạt động có liên quan (đại lý ủy
quyền) của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (sau đây gọi tắt là Nghị định 23/2007);
và cùng với Nghị định 23/2007 này còn có các văn bản hướng dẫn ba gồm:
- Thông tư số 09/2007/TT – BTM của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương)
ngày 17/7/2007 hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị định số 23/2007/NĐ – CP ngày
12/2/2007 nêu trên.
- Thông tư số 05/2008/TT – BCT của Bộ Công thương ngày 14/4/2008 sửa đổi một
số nội dung của Thông tư 09/2007/TT – BTM nêu trên.
- Quyết định 10/2007/QĐ – BTM của Bộ Thương mại ngày 21/5/2007 về việc công
bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến
mua bán hàng hoá.
Với nhượng quyền thương mại, do khác về chất với hoạt động mua bán hàng hóa
này, sẽ được nghiên cứu, giải thích chi tiết tại nội dung 2.5 của đề tài này.
Hơn thế nữa, trong một giới hạn nhất định, khi lĩnh vực “dịch vụ phân phối” theo quan
niệm WTO, bao gồm bốn hành vi thương mại khác biệt được ghép chung trong một nội
dung, vì mục đích liệt kê, phân loại, hơn là vì bản chất, thì việc nghiên cứu chúng tách biệt
theo từng khung pháp lý riêng là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn.
2.1. Thực trạng pháp luật nước ta về dịch vụ đại lý ủy quyền và tác động tác
động của cam kết WTO của Việt Nam đối với sự điều chỉnh pháp luật về dịch

vụ đại lý ủy quyền
2.1.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ đại lý ủy quyền trước khi Việt Nam
gia nhập WTO
“Đại lý ủy quyền” cũng chính là “đại lý mua bán hàng hóa” được sử dụng từ rất
sớm và rộng rãi tại Việt Nam . Hơn thế nữa, bên cạnh hình thức hoạt động như là một đại
lý mua bán hàng hóa chuyên nghiệp để hưởng huê hồng, ở Việt Nam, còn xuất hiện hình
thức “ủy thác mua bán hàng hóa” theo từng sự vụ cụ thể, và với một số nét đặc trưng riêng,
đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hay thương mại quốc tế.
Vì thế, ngay từ năm 1996, chúng ta đã có Quy chế Đại lý mua bán hàng hóa (được
ban hành bởi Nghị định số 25/CP của Chính phủ ngày 25/4)[8]. Sau đó, lần lượt Luật
Thương mại năm 1997[9] và Luật Thương mại năm 2005[10] đều xem Đại lý mua bán
hàng hóa là một nội dung quan trọng không thể thiếu và riêng biệt.
Đại lý mua bán hàng hóa theo Nghị định số 25/CP của Chính phủ, là quan hệ hợp
đồng giữa hai pháp nhân có đăng ký kinh doanh (ngành nghề đăng ký kinh doanh trùng với
đối tượng của hoạt động đại lý - hàng hóa hữu hình) theo đó, bên thực hiện đại lý (còn gọi
là bên đại lý) tiến hành các hoạt động mua, bán hàng hóa trên cơ sở nhân danh chính mình
cho bên giao đại lý (còn gọi là bên ủy thác) từ nguồn tiền, hàng thuộc sở hữu của bên ủy
thác để hưởng hoa hồng hoặc thù lao đại lý.
Nghị định 25/CP căn cứ vào tính chất hoạt động đại lý, hoa hồng và thù lao đại lý,
giao hay không giao đặc quyền đại lý mà phân loại bên đại lý thành các hình thức sau:
(Điều 3, khoản 5, 6, 7, 8, 9, 10 của Quy chế đại lý mua bán hàng hóa ban hành kèm Nghị
định 25/CP)
- Đại lý mua: bên ủy thác giao tiền để bên đại lý mua hàng hóa;
- Đại lý Đại lý hoa hồng: bên đại lý mua, bán hàng hóa theo giá quy định của bên ủy
thác để hưởng hoa hồng đại lý;
- Đại lý bao tiêu (trong đại lý bán) và đại lý bao mua (trong đại lý mua) là bên đại lý
mua, bán trọn gói hàng hóa với giá tối thiểu (trong đại lý bán) hoặc giá tối đa (trong đại lý
mua);
- Đại lý độc quyền: bên đại lý chỉ mua, bán một số loại hàng của bên ủy thác trong
khu vực địa lý nhất định; và

- Tổng đại lý: bên đại lý tự xây dựng một hệ thống đại lý chân rết phục vụ việc mua
bán hàng hóa của bên ủy thác.
Tuy nhiên, Nghị định 25/CP có nhược điểm là chỉ dừng lại ở đại lý mua bán hàng
hóa hữu hình mà chưa đề cập đến đại lý thực hiện dịch vụ. Vì thế sau đó, Luật Thương mại
năm 1997 và Nghị định số 57/1998/NĐ – CP hướng dẫn Luật Thương mại (1997) về xuất
khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài[11], bên cạnh việc
tách biệt đại lý mua bán hàng hóa và ủy thác mua bán hàng hóa thành hai hành vi thương
mại độc lập, riêng biệt thì cũng vẫn giới hạn hoạt động đại lý trong mua bán hàng hóa hữu
hình.

×