Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.54 KB, 18 trang )



LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng kinh tê năm 2008 đã và đang gây ra nhũhg hậu quả vô
cùng nghiêm trọng đối với mọi mặt của kinh tê thê giới. Khủng hoảng kinh tế đẩu
tiên phát ra từ nước Mỹ và đã lan rộng khắp các nước, hầu hết các quốc gia đều ít
nhiều bị ảnh hưởng, từ suy giảm tốc độ tăng trưởng cho đến nặng hơn là rơi vào
cuộc khủng hoảng.
Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tê thê giới, Việt Nam đang xây dựng
cho mình nền kinh tê hoạt động theo cơ chê thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước, đã và đang hội nhập từng bước sâu hơn với kinh tẽ toàn cầu. Do đó, khủng
hoảng kinh tê thê giới đã tác động đến kinh tế Việt Nam một cách rõ nét. Bên
cạnh dó những khó khăn nội tại của nền kinh tê Việt Nam về tỷ giá, lạm phát,
thâm hụt cán cân thương mại cũng đang là bài toán khó đối với các nhà hoạch
định chính sách trong việc đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, Ổn định kinh tê vĩ mô,
thúc đẩy nền kinh tê phát triển trong giai đoạn bất Ổn như hiện nay. Vì vậy việc
nghiên cứu về cuộc khủng hoảng kinh tế để tìm ra nguyên nhân và thực hiện các
biện pháp, chính sách bình Ổn nền kinh tê thế giới nói chung và nền kinh tê Việt
Nam nói riêng có vai trò quan trỌng trong việc ổn định và phát triển kinh tế.
Xuất phát từ những ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng kinh tê năm 2008
đến nền kinh tê các nước và Việt Nam nói riêng. Tôi chọn đề tài “ Cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 2008 và tác động của nó đối với nền kinh tê Việt
Nam”.
Nội dung của đề tài được cấu trúc thành ba phần:
Phần 1. Khái quát về cuộc khủng hoảng kinh tê thê giới năm 2008
Phần 2. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tê đối với Việt Nam
Phần 3. Một số giải pháp của Chính phủ đối với khủng hoảng kinh
tế.
2



Phần 1 :
KHÁI QUÁT VỀ CUỘC KHỦNG HOANG KINH TÊ THÊ GĨỚI NẦM 2008
I. Khái quát chung về cuộc khủng hoảng kinh tê
l

Bản chất khủng hoảng kinh tê
Bản chất của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay đó là sự đổ
vở của sự mất cân bang ở tất cả các thị trường hiện hũti từ thị trường tài chính,
đến thị trường sản xuất kinh doanh, đến thị trường lao động.
Như Kác Mác đã khẳng định nền kinh tê tư bản chủ nghĩa là một nền kinh tế
vô chính phủ (không có tính cân đối)

sự cân bằng trong sản xuất và tiêu dùng, sự
cân bằng giữa cung và cầu chỉ là nhất thời.
Trong nền kinh tê thị ưường hiện đại các nhà tư bản lớn, những nhà tư bản
khôn ngoan đã tìm cách chuyển từ nhà tư bản sản xuất, sang làm nhà tư bản kinh
doanh các công cụ tài chính. Vĩ rằng việc kinh doanh các công cụ tài chính vừa
có khả năng làm giàu nhanh chóng, vừa có điều kiện phòng chống rủi ro cao hơn
là làm nhà tư bản sản xuất.
Kinh doanh các công cụ tài chính, mà như Kác Mác đó là kinh doanh tư bản
giả, một loại tư bản không trực tiếp sản xuất ra giá trị hàng hóa - dịch vụ nhưng
nó có khả năng tích trử giá trị của hàng hóa - dịch vụ sản xuất được của xã hội,
nó có thể là đại diện cho khôi tài sản đang chứa đựng trong các doanh nghiệp, nó
có thể chuyển hóa thành tiền một cách nhanh chóng, và tất nhiên nó cũng có thể
là không có giá trị gì, hoặc có giá trị rất thấp khi kinh tê suy thoái.
Khi làng sóng đầu tư vào các thị trường tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là
làng sóng tăng lên của các thị trường phi sản xuất, như thị ưường tài chính, thị
trường địa ốc, thị trường ngoại tẹ, tính ảo của thị trường sẽ xuất hiện. Nghĩa là
người mua ở đây không còn là người “tiêu thụ” sản phẩm mà chủ yếu là những
nhà đầu cơ, kể cả trong thị trường sản xuất cũng mang nặng tính đầu cơ. Quá

trình này đã làm cho các thị trường bành trướng mau lẹ, GDP tăng lên nhanh
chóng, cho đến lúc sự mất cân bằng tăng lên đỉnh điểm và thị trường không thể
tiếp tục chứa đựng những hàng hóa - dịch vụ mà nó phải chứa đụhg, cũng như sự
mất cân đối đã đạt mức quá sức chịu đựng của thị trường va phải đi đến sự sụp
đổ.
2

Nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tê năm 2008
Năm 2008 nước Mỹ đã rung chuyển trong cuộc đại suy thoái kinh tê chưa có
hổi kết khiến cho toàn thê giới phải một phen chao đảo.
Không ai có thể ngờ một tưỢng đài, một đầu tắu kinh tế thê giới lại có thể suy
sụp nhanh đến như vậy. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia kinh tê ngay
trong nội bộ nước Mỹ thì cuộc khủng hoảng này có nguyên nhân sâu xa từ chính
3


cơ cáu và động lực tăng trưởng bất hợp lý của nước Mỹ trong thời gian qua
nhưng nó đã được bỏ qua bởi các nhà hoạch định chính sách tự mãn và sự lạc
quan thái quá của người dân Mỹ.
2

l- Nến kinh tế mất cân bằng
Trong khi hầu hết các quốc gia trên thê giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tê
thông qua đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu thì nước Mỹ đã chọn cho mình một con
đường riêng để duy trì đà tăng trưởng kinh tê đó là khuyên khích và đẩy mạnh
tiêu dùng nội địa. Trong nhưng năm qua tiêu dùng của người dân luôn chiếm tỷ
trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP của nước này và hiện đang tỷ trọng lớn
đến 70% GDP. Chiên lược này trong một thời gian đã tỏ ra rất hiệu quả khi lòng
tin của người tiêu dùng vào triển vọng của nền kinh tế đang ở mức cao nhưhg nó
đã tạo nên một lỗ hổng to lớn trong nền kinh tế đó chính là làm cho nền kinh tê

trở nên mất cân bằng.
Tiêu dùng của người dân Mỹ đã dần dần trở nên quá mức bởi tư tưởng lạc
quan thái và được khuyên khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức tín dụng trong cho
vay tiêu dùng. Chính điều đó đã tạo khoản thâm hụt thương mại cực lớn và có
dấu hiệu ngày càng tăng, đồng thời hệ thống kinh tế trở nên dễ bị tổn thương hơn
bao giờ hết bởi các mối quan hệ vay nỢ dễ dãi và chồng chéo.
2

2- Chứng khoán hoá
Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp
khác nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm
đảm bảo để phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài
sản). Tiền từ người mua các chúhg khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài
chính cho vay thế chấp để các tổ chức này cho người đem thê chấp tài sản vay
tiền. Chứng khoán hóa chính là quá trình đưa các tài sản thê chấp sang thị trường
thứ cấp nơi mà chúng có thể trao đi đổi lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh
khoản thành những chứng khoán thanh khoản cao.
Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng
khoán đảm bảo bằng tài sản thê chấp (MBS), giấy nỢ đảm bảo bằng tài sản
(CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn vể công cụ tài chính. Tuy nhiên,
vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tê liên quan đến chứng khoán hóa (thay vi 2
loại chủ thê kinh tê là người thê chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận
thê chấp như giao dịch tín dụng truyền thống), vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho
các sản phẩm chứng khoán hóa như hỢp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (CDS),


vì sự ra đời của các thể chế như các thể chê mục đích đặc biệt (SPV) và những
công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những rủi
ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô hình
giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các

rủi ro này.
Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cô đối với bong
bóng thị trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm
của các bên liên quan. Thềm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ
làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân
hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người
gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và
diễn ra nhanh chóng hơn.
Thực tế, thị trường nhà ở bắt đẩu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà
đất giảm và chất lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi
ro mang tinh hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào
tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như một
sô tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO
sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến
lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính
toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman
Brothers sụp đổ.
2

3 Nới lỏng quy định tài chính
5


Một nguyên nhãn cơ bản dẫn đến khủng hoảng là nhũhg yêu cầu của pháp
luật về sự minh bạch hoá và năng lực kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước đã
không bắt kịp với những biến đổi sâu rộng của thị trường.
Không một cơ quan Nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài
chính có đủ thông tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng
khoán để có thể đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài
sản trên sổ sách của các công ty tài chính và ngân hàng.

Thêm vào đó nhiều thao tác này lại được che đậy qua hoạt động đầu cơ của
các quỹ đẩu tư, một loại hình quỹ đầu tư nắm giư tới gằn 3000 tỉ USD giá trị tài
sản nhưng không hề phải cáo bạch tài sản với công chúng và gần như không chịu
sự giám sát của bất kỳ một cơ quan Nhà nước nào.
Ngoài ra, những nới lỏng của pháp luật bắt đầu từ thập niên 1980, chẳng hạn
như việc đạo luật Glass- Steagal vốn tách biệc ngân hàng thương mại chuyên
thực hiện những hoạt động cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư chuyển thực
hiện những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao, đã góp phẩn khuyên khích những hoạt
động đẩu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. Chính môi trường
thiếu minh bạc và thiếu giám sát này đã thổi bùng lên bong bóng đẩu cơ bất động
sản.
II. Ảnh hưởng khủng hoảng kỉnh tê đối vói các nước trên thê giói.
1. Hệ thống ngân hàng
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu,
cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy,
bóng bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy
hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ. Nhũlng nước châu Âu bị rối
loạn tài chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, BỈ và Tây Ban Nha.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút
tiền gửi và hậu quả là phải chịu quốc hữu hóa. Đột biến rút tiền gửi còn làm căng
thẳng các ngân hàng khác của nước này. Sang năm 2008, đến lượt Bradford &
Bingley plc của Anh phải chịu chia nhỏ thành 2 công ty riêng biệt. Các ngân
hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao gồm Catholic
Building Society, Alliance & Leicester. London Scottish Bank và Dunfermline
Building Society phải chịu sự giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay
6


quý I năm 2008, GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất ke từ năm 1983

tới thời điểm này. Glitnir, Straumur Investment Bank, Reykjavik Savings Bank
phải chịu quốc hữu hóa. Kaupthing, Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới
sự quản lý của cơ quan giám sát tài chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho
giá cổ phiếu của ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng
3 Năm 2008 giảm tới 99% so với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009,
Anglo Irish Bank bị quốc hữu hóa. Allied Irish Banks cũng phải chịu tình trạng
cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải chấp nhận cải cách để nhận được khoản vay tái
cơ cấu của Chính phủ.
Cuối năm 2008, Fortis của BỈ bắt đắu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh
doanh dịch vụ bảo hiểm. Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ
BỈ cho vay để củng cố.
Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ sô an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ
Hà Lan cho vay.
Ở Đức, ngày từ đẩu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayemLB đã chịu
những khoản lỗ lớn do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa
Kỳ.
t2]
Sau đó, ngân hàng này đã phải cầu xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang
Đức.
2. Thị trường chứng khoán
Các thị trường chứng khoán lớn của thê giới ở New York, London, Paris,
Frankfurt, Tokyo đều có thời điểm sụt giá lớn lịch sử.
Ở châu Âu, chỉ sô FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82. Chỉ sô
DAX hôm 2 tháng 3 năm 2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198 hôm 27
tháng 12 năm 2007.Chỉ sô CAC 40 hôm 2 tháng 3 năm 2009 cũng xuống mức
thấp kỷ lục 2534,45 điểm.
Nhật Bản có một hệ thông tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời
kỳ tái cơ cẩu sau khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng
hoảng tài chính Hoa Kỳ vẫn khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối

loạn. Chỉ sô giá cổ phiêu bình quân Nikkei đã xuống mức thấp lịch sử vào các
ngày 8 và 10 tháng 10 năm 2008.
3

Thị trường tiền tệ
7


Hàn Quốc tháng 9 năm 2008, won Hàn Quốc bị mất giá mạnh, có lúc tới mức
1.500 won/đô la Mỹ
Tình trạng tồi tệ của các tổ chức tài chính đã khiến cho tình trạng đói tín dụng
xảy ra ở nhiều nước, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khu vực sản xuất thực. Khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn tới suy thoái kinh tê ở nhiều nước


Phần 2

-
TÁC ĐỘNG CUỘC KHỦNG HOANG KINH TÊ Đổi VỚI VIỆT NAM
I.Tác động khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam
1. Đôi với tốc độ tăng trưởng kỉnh tê
Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cẩu đã làm cho tốc độ tăng
trưởng kinh tế của nước ta chậm lại. Kê hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP
dự kiến từ 8,5 - 9%. Tháng 5 năm 2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tang trưởng
GDP xuống 7%, nhưhg đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tê là
6,52%, dự kiến năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tê sẽ từ 6,5 đến 6,7%.
2

Đối với hệ thống tài chính - ngân hàng
Mặc dù hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam chưa chịu tác

động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ vì hệ thống tài chính
8


ngân hàng Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội nhập; nhuhg trước mắt
sẽ có những hạn chê trên một sô lĩnh vực như:
- Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài
chính bên ngoài và với ngân hàng Mỹ sẽ gặp khó khăn;
Trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận
của nhiều ngân hàng có thể giảm, thậm chí một sô ngân hàng nhỏ có thể thua lỗ;
nỢ xấu tăng lên; nên hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam có nguy cơ bị ảnh
hưởng trong một vài năm;
- Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tê sẽ giảm, ảnh hưởng đến nỢ
vay ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp.
3. Đối với hoạt động xuất khẩu
Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-
21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên
đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ
ảnh hưởng đến tỗc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của ViệtNam trong năm 2008
và cả năm 2009 (nếu nền kinh tê Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi). Tuy nhiền, mức
độ ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng.
Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tê khác
trên thê giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản - đây là hai thị trường xuất khẩu quan
trọng của Việt Nam. Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường
này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán
do khó khăn vể tài chính, theo đó nhập khẩu đôi với hàng hoá xuất khẩu của Việt
Nam sẽ có xu hướng giảm. Thực tê những tháng gắn đây, với tác động tiêu cực
của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm
sút, kim ngạch xuất khẩu tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ

USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất khẩu suy giảm. Tháng 11 năm
2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD giảm so với mức 5,044 tỷ
USD của tháng
10. Trong đó: Dệt may giữ được kim ngạch Ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng
nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu USD của tháng 10/2008. Một so mặt hàng
khác cũng suy giảm trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do giá dâu đã giảm
60% so với mức tháng 7/2008. Dấu hiệu của suy giảm kinh tê đã bắt đầu xuất
hiện. Khủng hoảng tài chính sẽ dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thê
9


mạnh của Việt Nam sẽ giảm giá và chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến kim ngạch
xuất khẩu.
4. Đối với vốn đầu tư của nước ngoài kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp
với tình hình khủng hoảng như hiện nay, chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị
trường xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào ViệtNam có khả
năng giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói
riêng, phắn vốn vay thường chiếm tỷ trỌng lớn trong tổng số vốn đẩu tư, nên khi
các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hỢp đổng
vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Tuy nhiên, theo dự
báo (tháng 11 năm 2008) Việt Nam vẫn thực hiện khoảng 10 tỷ USD vốn giải
ngân, bằng 16,2% vốn đăng ký và tăng 44% so với cùng kỳ năm 2007. Qua xem
xét luồng vốn FDI trong 11 tháng đầu năm nay, có thể nhận thấy hầu hết các nhà
đắu tư nước ngoài là từ châu Á (13% từ Nhật Bẳn và 67% từ các nước châu Á
khác), trong đó các nhà đầu tư đến từ châu Âu và Mỹ chiếm một tỷ lệ khá khiêm
tốn khoảng 5% trong sô vốn đăng ký, gần 60 tỷ USD. Do vậy, năm 2008 Việt
Nam có cơ sở để tin tưởng việc ữiển khai thực hiện các dự án đăng ký trong năm
2008 sẽ không gặp nhiều khó khăn và trong năm 2009 hy vọng sẽ tăng lên hoặc
có thể giữ ổ mức như năm 2008.

Tình hình chung do khủng hoảng tài chính với việc làm khó khăn, thu nhập
giảm, tiêu dùng giảm lượng kiều hôi có khả năng sụt giảm. Tuy nhiên, cho đến
nay lượng kiều hối vẫn tăng ổn định, dự kiến năm nay đạt khoảng 8 tỷ USD tăng
60% so với năm 2007. Mặc dù vậy nếu khủng hoảng vẫn còn kéo dài, lượng kiều
hối sút giảm là điều không thể ữánh khỏi.
5. Hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ gặp khó khăn, bất
lợi cho cắc nhà đầu tư
- Khủng hoảng tài chính ngày càng ảnh hưởng rộng trẽn thị trường tài chính
thế giới, theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn
hơn trong việc huy động vốn, hoặc họ sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết
định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp khó khăn và việc họ cơ cấu lại
chứng khoán Việt Nam là điều có thể xảy ra.
- Có thể có khả năng các nhà đầu tư ngoại rút vốn khỏi thị trường Việt Nam
để ứng cứu cho công ty mẹ tại các thị trường lớn, nhưng khả năng này rất ít vì
lưỢng vốn đầu tư của mỗi nhà đẩu tư ở thị trường Việt Nam là không nhiều và
hiện Việt Nam vẫn là địa điểm đầu tư an toàn có độ tin cậy cao. TTCK Việt Nam
là một nơi có Ưu thê đầu tư khi tình hình kinh tê vĩ mô ViệtNam đang có chiều
10


hướng tốt dần
- Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết
trên thị trường chứng khoán sẽ không tránh khỏi tác động xấu, đặc biệt là doanh
nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu có thể sụt giảm.
- Khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư
chứng khoán Việt Nam, TTCK lập tức bị tác động xấu vì nhũhg lo ngại của các
nhà đầu tư trong nước. Yêu tô tâm lý là khá quan trọng, vì vậy cần có những giải
pháp, đặc biệt là thông tin, tuyên truyền đầy đủ để củng cô niềm tin cho các nhà
đẩu tư; hạn chê nhũhg lo ngại thái quá làm ảnh hưởng xấu đến TTCK.
6. Đối với thị trường bất động sản (BĐS)

Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực
tài chính khá hạn hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là
vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh
nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng tài chính hiện nay


Cuối năm 2007 tình trạng đẩu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá
cao so với giá trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang
năm 2008 nền kinh tế Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế, lạm phát tăng cao buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS
đóng băng, giá BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào
khó khăn, không bán được sản phẩm lại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt
chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao. Đên nay thị trường cũng chưa có dấu
hiệu phục hổi. Giá BĐS giảm sẽ kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nỢ
xấu tăng lên làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thê bất
lợi.
Hiện nay khủng hoảng nỢ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa
Ốc tuy không lam ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở
11


Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài
chính tiền tệ, thị trường chứng khoán và các yếu tô tâm lý của người dân. Tuy
nhiên theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì cho vay BĐS chiếm
khoảng 9,5% tổng sô dư nỢ của các Ngân hàng và tổ chức tín dụng. Mặc dù vậy
việc tác động gián tiếp đến thị trường BĐS Việt Nam như đã nói ở trên là có thể.
7

Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ
sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dung. Trong tình hình kinh tê thê giới

đang suy thoái, tình hình kinh tê vĩ mô của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện
nhưng nói chung vẫn còn nhiều khó khăn. Trong thời gian qua nhiều doanh
nghiệp đã cất giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô do chi phí sản
xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một sô hoạt động dịch vụ sẽ bị thu hẹp,
đặc biệt là lượng khách du lịch sẽ giảm so với năm 2007
II. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong cuộc khủng hoảng
l

Những thách thức của nền kỉnh tê Việt nam do tác động của khủng
Từ tình hình thực tê Việt nam trong hơn một năm qua cho thấy,
Thứnhât, nền kinh tê Việt nam dù mức độ tác động của khủng hoảng không
kéo tốc độ tăng trưởng âm như nhiều nước, nhưhg phải nhìn thực tê là từ tốc độ
tăng trương 8,5% trước khủng hoảng xuống còn 3%-5% trong khủng hoảng là
một khoảng cách tụt giảm quá lớn. Trong khi các nền kinh tê có tốc đọ tăng
trưởng am, thì toe độ tăng trưởng của họ (xước khủng hoảng chỉ là từ 2% đến
5%. Nêu không có biện pháp thích Lftig, nguy cơ sẽ đẩy Việt nam không dành lại
vị thê ‘hổ châu Á’ về tốc độ tăng trưởng.
Thứ hai, tốc độ tăng ữưởng cao của nền kinh tê Việt nam có hai nhân tô đóng
góp quan trọng là xuất khẩu và đẩu tư nước ngoài, sô liệu thực tê cho thấy trong
giai đoạn khủng hoảng hai yếu tô này đều giảm. Nêu kim ngạch xuất khẩu trước
khủng hoảng tang từ 17% đến 24%, thì trong khủng hoảng giảm còn 2,4% (giảm
gần 10 lần về tốc độ). Tốc độ kim ngạch xuất khẩu tăng là do tăng xuất khẩu
vàng. Phần giảm chủ yếu là do các mặt hàng thuộc công nghiệp chế biến thực
phẩm, công nghiệp dệt may, giày da là những ngành hàng chủ lực, thu hút nhiều
lao động của Việt nam giảm. Dù tổng vốn đầu tư xã hội tăng 9% trong quí I,
nhưng sô này là thấp hơn tốc độ tăng vốn bình quân của cả giai đoạn cải cách
(16%/năm), trong đó tốc độ tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm đến
32% trong quí 1/2009, vốn FDI đăng ký giảm trên 40%.
Thứ ba, do hàng hóa sản xuất không tiêu thụ được hàng tổn kho tăng mạnh,
trên 67% so với cùng kỳ cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và sẽ có

12


nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản do không bán được hàng và sản xuất bị
ngưng trệ.
Thứ tư, cùng với co giảm về sản xuất, doanh nghiệp phá sản, một tỷ lệ không
nhỏ (15%) lao động đang làm việc bị cắt giảm, góp phần tăng tỷ lệ lao động thất
nghiệp ở thành thị và tăng tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn


Thứ năm, khi lao động thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng, đời sống của
một bộ phận dân cư, người làm công ăn lương giảm. Một khi đời sống giảm sẽ
tác động vào tiêu dùng giảm là một nhân tô làm cho tốc độ tăng trưởng giảm,
đồng thời sẽ làm gia tăng tệ nạn xã hội như lừa đảo, buôn lậu, cướp giật, nghiện
ngập
Thứ sáu, khi gia tăng lao động thất nghiệp sẽ làm tăng sô người từ các tỉnh
nhỏ đổ về các đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội kiếm việc làm làm gia
tăng nạn kẹt xe, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông
2

Các cơ hội cho nền kinh tê Việt nam
Khủng hoảng kinh tê toàn cầu tạo cho nền kinh tê Việt nam không ít thách
thức nêu trên, tuy nhiên, trong những thách thức chúng ta có thể tìm thấy những
rơ hội rho phát triển. Các rơ hội ró thể là.
Thứnhât, nhìn vào thực tê phát triển trong khủng hoảng ở những tháng qua
cho thấy nền kinh tê Việt nam có những tia sáng như đầu tư nội địa gia tăng, một
sô ngành dịch vụ nội địa gia tăng gồm bull chính viễn thông, vận tải hành khách.
Như vậy, cơ hội ở đây là phát huy nguồn nội lực đầu tư trong nước khi mà tiềm
năng nguồn vốn trong dân chưa khai thác hết. Đầu tư trong nước sẽ hướng vào
những lĩnh vực đang có cơ hội phát triển như các ngành dịch vụ, xây dựng, sản

xuất chê biến qui mô nhỏ linh hoạt về công nghệ.
Thứ hai, khi mà việc làm bị eo hẹp do tác động của khủng hoảng thì người
dân nghĩ đến việc phải đầu tư cho chính mình để có cơ hội tìm việc làm mới, đây
chính là cơ hội cho phát triển các dịch vụ đào tạo, và những ngành dịch vụ khác
liên quan kéo theo.
Thứ ba, khi mà xuất khẩu giảm mạnh do khủng hoảng cũng là cơ hội để cho
chúng ta xem xét vấn đề đa dạng hóa thị trường, cơ cấu lại định hướng thị trường
và các mặt hàng xuất khẩu.
Thứ tư, khi có khủng hoảng đẩu tư nước ngoài suy giảm cơ hội cho chúng ta
xem lại các dự án thu hút đẩu tư và hiệu quả của từng dự án. Khi các dự án nước
ngoài vào chậm dần, tạo cơ hội cho chúng ta xem lại thủ tục qui trình lựa chọn
các dự án đầu tư vừa phục vụ phát triển kinh tê nhưng phải đảm bảo điều kiện
môi trường. Đổng thời, đây cũng là lúc không quá bận rộn với nhiều dự án, có
thời gian để xem xét đánh giá lại quá trình cải cách thủ tục hành chính, vấn đề
quy hoạch phát triển các khu vực, vùng

.
13


Thứ năm, do tốc độ tăng trưởng chậm lại, cát khoản chi hỗ trỢ sản xuất và
giãn thuế cho người dân sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách quốc gia, tăng chi. Vì
vậy đây là cơ hội để Việt nam xem cơ cấu lại các khoản chi, chống lãng phí thất
thoát.
Thứ sáu, Việt nam là “người mới đến” trong cuộc chơi tự do hóa thương mại,
lại đang trong quá trình hội nhập và chuyển đổi nền kinh tế. Vì vậy trong cuộc
khủng hoảng này Việt nam có cơ hội để học cách ứng xử với khủng hoảng, rút ra
được bài học về các nguyên nhân của khủng hoảng và biện pháp thích hỢp để đối
phó với khủng hoảng cũng như các biện pháp phong ngừa khủng hoảng, biển
pháp ổn định nền kinh te



III

Bài học kinh nghiệm cho nền kinh tế Việt Nam
Qua cuộc khủng hoảng kinh tê thê giới, Việt Nam đã rút ra một sô bài học
kinh nghiệm về việc duy tó tăng trưởng và phát triển bền vũhg của Việt Nam, bao
gổm:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tê vừa qua đã cho thấy sự yếu
kém của công tác giám sát, dự báo và cảnh báo về khả năng xảy ra khủng hoảng.
Do vậy, cần tăng cường nguồn lực để làm tốt công tác này ở cấp quốc gia, khu
vực và ữên phạm vi toàn cầu.
Thứ hai, phải luôn coi trọng ổn định kinh tê vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn
của nền kinh tê và an toàn của hệ thông tài chính, ngân hàng. Có chính sách tài
khoá và chính sách tiền tệ phù hợp, vận hành theo cơ chê thị trường,
14


đi đôi với phát huy vai trò quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những
khiếm khuyết của thị trường.
Thứ ba, mỗi quốc gia có điều kiện kinh tê - xã hội khác nhau, do đó các giải
pháp đối phó với khủng hoảng, ngăn chặn suy giảm kinh tê phải phù hỢp với
điều kiện thực tiễn của từng quốc gia.
"Là một nước đang phát triển, với kết cấu hạ tầng kinh tê - xã hội còn nhiều
hạn chế, thị trường nội địa còn nhiều tiểm năng, cùng với các giải pháp thúc đẩy
sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu, chúng tôi đã tập dung nguồn lực triển
khai thực hiện các dự án hạ tầng, nhất là giao thông, năng lưỢng, thuỷ lợi, y tế,
giáo dục

„ để sớm đưa vào sử dụng; chú trọng hơn việc phát triển thị ưường nội

địa, nhất là khu vực nông thôn", Thủ tướng nói.
Theo Thủ tướng, Việt Nam đối phó với khủng hoảng tài chính - kinh tê toàn
cầu trong bối cảnh tương đối khác so với nhiều nước ữên thê giới, cụ thể là lạm
phát và mặt bằng lãi suất cơ bản cùng ở mức cao. Do vậy, cùng với việc cắt giảm
lãi suất đến mức hợp lý, Việt Nam đã thực hiện chính sách hỗ trỢ lãi suất, bảo
lãnh tín dụng, miễn, giảm, giãn nhiều loại thuê cho từng lĩnh vực và đối tượng cụ
thể.
Bài học thứ tư, đó là các nước nghèo, người nghèo, khu vực nông thôn là
những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của khủng hoảng, do vậy, cùng với
các giải pháp kích thích kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ 111Ô thì Việt Nam đã
đặc biệt quan tâm tới bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, hỗ trỢ cho khu vực
nông nghiệp nông thôn.
Thứ năm, khi đã xác định được mục tiêu và giải pháp đúng đắn thì phải chỉ
đạo điều hành quyết liệt, đổng bộ, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền để tạo
đồng thuận cao trong xã hội, phát huy được sức mạnh tổng hỢp của đất nước.
Ngày nay, tĩnh hình có thể biến đổi rất nhanh, do đó cũng cần thường xuyên rà
soát, cập nhật các đánh giá và phân tích để điều chỉnh chính sách kịp thời.
Thứ sáu, trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, việc đối phó
với khủng hoảng đòi hỏi phải có sự nỗ lực của từng quốc gia, đổng thời phải đẩy
mạnh hợp tác quốc tê để tập trung nguồn lực và phối hợp
hành động chung trên phạm vi khu vực và toàn cẩu, thực hiện nghiêm túc các
cam kết quốc tế.
Phần 3:
15


MỘT SỐ GlÀl PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ Đối VỚI NỀN KINH
TÊ NƯỚC TA
I. Một số giải pháp của chính phủ
l.về hoạt động Ngân hàng

Ngân hàng hàng Nhà nước Việt Nam, BỘ Tài chính chỉ đạo và yêu cầu
các ngân hàng thương mại, các tập đoàn kinh tế rà soát ngay các khoản tiển
gủl và đầu tư tại các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính nước ngoài
cũng như các khoản vay của các tổ chức này. Từ đó thực hiện biện pháp cần
thiết thích hợp để giảm thiểu nguy cơ mất vốn hoặc tăng chi phí, đổng thời, rà
soát hoạt động đầu tư, kinh doanh của các ngân hàng đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam.
Thủ tướng chỉ đạo, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần đảm bảo ổn định,
an toàn của hệ thông ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có biện
pháp giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các ngân hàng thương mại rà soát lại các
khoản cho vay đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào nhühg lĩnh vực rủi ro cao (bất
động sản, chứng khoán, đầu tư đa ngành

), tăng cường hơn nữa kiểm soát và
phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động cho vay bất động sản.
Nghiên cứu hoàn thiện quy chê mua bán nỢ và thiết lập tổ chức mua bán,
xử lý nỢ khó đòi cho hệ thống ngân hàng thương mại. sớm xây dựng trình
Chính phủ ban hành quy định về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, phá sản
những ngân hàng gặp vấn để. Trên cơ sở đó để có căn cứ pháp lý thực hiện
chủ trương về cơ cấu lại những ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng yếu
kém, bảo đảm lành mạnh, an toàn của hệ thông.
2

Vể hoạt động chứng khoán, hoạt động đầu tư nước ngoài
BỘ Tài chính cần chỉ đạo ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo dõi, giám
sát chặt chẽ luồng vốn ra, vào của nhà đầu tư nước ngoài; đổng thời, xử lý
những vướng mắc về thủ tục hành chính trong hoạt động chứng khoán để đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư từ thị trường này và phát trien thị trường bển vững.
Thực hiện rà soát ngay hoạt động của các tổ chức tài chính, các quỹ đầu tư tài
chính để đánh giá và xác định tình trạng tài chính hiện nay của từng quỹ và

toàn bộ hệ thống; sửa đổi, bổ sung, xây dựng các tiêu chí, điều
16


kiện về cấp phép thành lập và hoạt động đối với các công ty chúng khoán,
công ty bảo hiểm và công ty quản lý quỹ cho phù hợp với tình hình mới.
BỘ Kê hoạch và Đầu tư chủ trì, cùng với Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo rà
soát tình hình thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước để
sớm đưa công trình vào sử dụng hoặc đình hoãn đôi với nhũhg dự án, công
ữình xét thấy chưa thật cẩn thiết.
I. Kiến nghị một số biện pháp cần có để đưa kỉnh tể Việt nam
nhanh chóng vượt ra khủng hoảng
Từ các nhận định nêu ữên, để đối phó hạn chê những thách thức, nắm lấy
cơ hội các biện pháp cắn có để đưa nền kinh tê Việt nam nhanh chóng thoát
khỏi khủng hoảng, đưa tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững có thể bao
gồm:
(1) Biện pháp thắt chặt chính sách tài khóa, giảm chi ngân sách.
(2) Biện pháp cơ cấu lại nền kinh tê theo hướng hiệu quả bao gồm cả điều
chỉnh qui hoạch phát triển.
(3) Cần có biện pháp phát huy nội lực kết hợp với hỗ ttỢ từ bên ngoài
Chính sách khuyên khích đẩu tư nội địa cũng đã được ban hành. Tuy nhiên,
cho đến nay chúng ta chưa đánh giá tiềm năng thật sự của các nguồn vốn tiết
kiệm trong nước, vì vậy những chính sách có thể chưa đủ độ để thu hút nguồn
vốn trong dân qua phát triển an toàn các kênh huy động vốn bằng các biện
pháp bảo hiểm rủi ro tiền gửi, tiền đầu tư của người dân.
(4) Cần có biện pháp phát triển bền vững, tăng trưởng kết hợp với bảo vệ
môi trường và công bằng xã hội. Chất lưỢng sống của người dân ngày càng
thấp do môi trường không khí, môi trường sống ngày càng đi xuống. Nêu thu
hút một dự án đắu tư để có tăng trưởng thêm một đồng nhuhg thiệt hại về môi
trường ảnh hưởng đến sức khoẻ lên hơn một đổng thì có cần một dự án đẩu tư

như vậy.
(5) Biện pháp đầu tư cho giáo dục, khoa học nâng cao chất lượng của hệ
thống giáo dục, đào tạo đáp ứng nhu cẩu xã hội, nhu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
(6) Biện pháp đa dạng hóa thị trường cho hàng hóa Việt nam.
(7) Biện pháp cuối cùng, nhưng không kém phẩn quan trỌng đó là cẩn
đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng tính minh bạch và tính chuyên nghiệp
trong quan lý nhà nước.
17


KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng kinh tê thê giới năm 2008 đã làm biến đổi sắc thái
kinh tể của nhiều nước đặt biệt nến kính tê nước Mỹ. Chính vì sự lay động
nền kinh tê nước Mỹ, cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng tiêu cực đến
nền kinh tê các nước, gây ra suy thoái kinh tê ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh
tê chậm lại Ở hầu hết các nước khác.
Vì sự tác động kép của cuộc khủng hoảng kinh tế, nên việc nghiên cúu
những nguyên nhân và tìm ra biện pháp khác phục, bình ổn nền kinh tê các
nước tiên thế giới nói chung và nền kinh tê Việt Nam nói riêng là hết sức
quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Để từng bước khôi phục bình ổn nền kinh tế, Chính phủ phải quan tâm
thắt chặt hơn những chính sách tài chính tiền tệ, chứng khoán, nguồn vốn ra
vào của Nhà đẩu tư nước ngoài, v.v Tuy vậy nhờ sự can thiệp kịp thời của
chính phủ trong việc ban hành và thực thi một loạt các giải pháp chống lạm
phát mà tình hình đã dần ổn định, cơ cấu kinh tê vĩ mô đã được đảm bảo, Việt
Nam trước mắt đã thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng.Tăng trưởng kinh tê của
Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm 2009 còn 5,32%. Vốn đẩu
tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ 71,7 tỷ USD năm 2008
còn 21,5 tỷ USD năm 2009) và vốn thực hiện (từ 11,5 ty USD xuống 10 tỷ

USD). LƯỢng khách quốc tê giảm từ trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên
3,7 ữiệu lượt người. LƯỢng kiểu hối giảm từ 7,2 tỷ USD xuống còn gắn 6,3
tỷ USD,vốn đầutư gián tiếp sụt giảm mạnh. Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao
trong năm 2007 (12,63%), bùng phát trong năm 2008 đã tăng tới 19,89%
(tính bình quân năm đã tăng tới 22,97%). Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ,
thì năm 2008 tăng 6,31% và năm 2009 đã tăng 10,7%. Nhập siêu năm 2007
lên trên 14,2%, năm 2008 đã lên đến trẽn 18 tỷ USD và năm 2009 cũng gần
12,9 tỷ USD.
Nhưng các biện pháp trên chưa thực sự được cho là hoàn hảo, nó đã để lại
không ít những hậu quả và di chúhg cho nền kinh tế. Đánh giá lại về hiệu quả
các biện pháp này là một việc làm đúng đắn để chúng ta có thể rút được bài
học kinh nghiệm cho những năm tiếp sau.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 vừa mang đến nhũhg thách
thức cũng vừa là cơ hội trong việc công cuộc khôi phục và tăng trưởng kinh tê
của các nước nói chung và cả Việt Nam. Chính vì vậy chúng ta cần phải mổ
xẻ nhiều hơn nữa sự tác động của cuộc khủng hoảng và theo dõi bước tiến
trình thoát khỏi khủng hoảng của các nước trên thê giới.
Bjii tËp lin SVTH: §ç TW H^ng Sen
18
GiĩỊng vi
a
n : Phan ThÊ Thanh L©m
Trang


Thời gian nghiên cứu đề tài không nhiều nên không tránh khỏi nhũhg
thiếu xót. Rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của Thầy cô và
bạn đọc, để đề tài được giàu ý tưởng hơn. Xin chân thành càm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHAO
1. Chính phủ (2008), Báo cáo tại Kỳ họp Quốc hội tháng 11 năm 2008;

2. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tê xã hội (BỘ Kê hoạch và Đầu
tư), Báo cáo nhanh.
3. Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tổng hợp tháng 11/2008.
4. Trường BDCB tài chính (2008), Kết quả Hội thảo trực tuyến “Khủng
hoảng tài chính phô Wall: Những biện pháp ứng phó đối với các nền kinh tê
châu Á” do Trường BDCB tài chính phối hỢp với Trung tâm Tài chính và
Phát triển châu Á - Thái Bình Dương thuộc BỘ Tài chính Trung Quốc và
Trung tâm Thông;
5. Web VnEconomy.vn, Khủng hoảng kinh tê tài chính Hoa Kỳ 2007-
2009.
6. Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội kinh tê và kinh doanh.
MỤC LỤC
1. Hê thống ngân hàng 5
2. Thi trường chứng khoán 6
3. Thị ưường tiền tẽ 7

×