Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

kinh doanh đầu tư xây dựng cơ bản tại công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.19 KB, 99 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU
Bất cứ một xã hội nào muốn phát triển một cách phồn vinh thì cũng đều cần
có một cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, hoạt động đầu tư, xây dựng cơ bản
được đánh giá là ngành kinh tế kỹ thuật hết sức quan trọng của đất nước, bởi lẽ nó
liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, lại được sử dụng một nguồn tài chính, nguồn
nhân lực hết sức to lớn.
Nếu như trước đây, nguồn vốn cho đầu tư, xây dựng thuộc về ngân sách nhà
nước, nhưng từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngành
xây dựng cũng có sự phát triển tương ứng. Nguồn vốn này có thể thuộc tất cả các thành
phần kinh tế khác nhau (Ngân sách Nhà nước, kinh tế tư nhân, vay từ nước ngoài…)
Là công ty TNHH một thành viên, công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu
Hầm là một trong số ít các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã thành công trong lĩnh
vực kinh doanh đầu tư xây dựng cơ bản – một lĩnh vực được coi là thế mạnh của các
doanh nghiệp xây dựng Nhà nước, với hàng loạt các công trình trọng điểm Quốc gia
được đánh giá chất lượng cao như công trình thủy điện Đại Ninh, Thủy điện Buôn
Kuốp, Thủy điện Bản Vẽ, Thủy điện Bắc Bình….
Với vai trò là công ty con, được thừa hưởng nhiều nguồn lực, vật lực và kinh
nghiệm quản lý của Tổng công ty Cavico Việt Nam, trong những năm qua Cavico
Việt Nam xây dựng Cầu Hầm là đơn vị đi đầu về sản lượng và lợi nhuận. Đây thực
sự là môi trường tổ chức hợp lý với đội ngũ cán bộ trẻ năng động, sáng tạo đã góp
phần dựng nên thương hiệu: Nhà đầu tư, nhà thầu chuyên nghiệp Cavico Việt Nam.
Quá trình học tập tại trường đại học Kinh tế Quốc Dân, được tiếp thu những
kiến thức về pháp luật trong kinh doanh dưới nhiều lĩnh vực: Mua bán xuất nhập
khẩu hàng hóa, kinh doanh Bảo Hiểm, tín dụng ngân hàng…. Trong đó, lĩnh vực em
thấy hứng thú và hấp dẫn nhất là kinh doanh đầu tư xây dựng cơ bản. Chính bởi lẽ
đó, em đã chọn công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm là nơi thực tập
của mình.Thời gian thực tập tại công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm đã giúp
em trưởng thành hơn trong tư duy cũng như kinh nghiệm thực tế.
Xuất phát từ những lý do trên em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề tốt


nghiệp của mình :
“Qui chế pháp lý chung về đấu thầu trong xây lắp và thực tiễn áp dụng tại
công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm”.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Mục tiêu chọn đề tài:
Khi chọn đề tài này, dựa trên nền tảng hệ thống pháp luật về đấu thầu của Việt
Nam, em muốn đi sâu, tập chung tìm hiểu các quy định pháp luật về đấu thầu trong
xây lắp nói riêng. Từ đó phân tích các nhân tố nhằm tăng các khả năng cạnh tranh của
nhà thầu, đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu
thầu nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu thầu ở Việt Nam nói chung và tăng
khả năng cạnh tranh để thắng thầu đối với công ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu
Hầm – nơi em thực tập nói riêng.
 Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Các qui chế pháp lý về đấu thầu là một đề tài có nội dung hết sức rộng và
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Nếu căn cứ vào nội dung, đấu thầu được chia ra
làm năm loại: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm hàng hóa, đấu thầu
trong xây lắp, đấu thầu đối với gói thầu có quy mô nhỏ, đấu thầu lựa chọn đối tác để
thực hiện dự án. Do đặc điểm hoạt động đấu thầu của công ty Cavico Việt Nam xây
dựng Cầu Hầm nơi em thực tập chỉ áp dụng thực hiện trong lĩnh vực xây lắp, do đó
chuyên đề sẽ đi sâu phân tích vấn đề về đấu thầu trong xây lắp.
 Kết cấu đề tài:
Về mặt kết cấu, ngoài Mục lục, Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo thì chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đấu thầu xây dựng và đấu thầu trong
xây lắp
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về đấu thầu trong xây lắp tại
công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy chế pháp lý về
đấu thầu trong xây lắp và quá trính áp dụng tại công ty

 Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chuyên đề đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học, cụ thể như: so sánh, tổng hợp, phân tích kết hợp với các
phương pháp thống kê, phân tích kinh tế. Phù hợp với từng vấn đề, từng nội dung
nghiên cứu cụ thể mà để tài sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp nhiều phương pháp nhằm
làm rõ nội dung của đề tài.
CHƯƠNG 1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
ĐẤU THẦU XÂY DỰNG VÀ ĐẤU THẦU TRONG XÂY LẮP
1.1. Một số khái niệm liên quan trong đấu thầu xây dựng
1.1.1. Dự án
Theo nghĩa chung nhất, Dự án là một tổng thể các hoạt động phụ thuộc lẫn
nhau nhằm tạo ra một sản phẩm đơn chiếc trong giới hạn cho phép về không gian và
nguồn lực. Theo quy định tại Điều 4.7 của Luật đấu thầu ngày 29.11.2005 của Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ: “ Dự án là tập hợp các đề
xuất để thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc nhằm đạt được mục tiêu hay yêu
cầu nào đó trong một thời gian nhất định dựa trên nguồn vốn xác định.”
Sản phẩm của dự án thường là kết quả lao động mang tính trọn vẹn như một
đoạn đường hay một cây cầu, một bộ phận hoàn chỉnh của một công trình khoa học,
một công trình xây dựng, lắp đặt, vận hành thiết bị làm thay đổi chất lượng của một
thực thể (như dự án xóa đói giảm nghèo, dự án xóa mù chữ, dự án thu hoạch mùa vụ
của một khu vực canh tác). Các dự án mang tính đơn chiếc, đặc thù, tính chuẩn mực.
Mỗi dự án là một đối tượng tương đối độc lập về nguồn lực, trách nhiệm, quyền hạn
và được diễn ra trong một khuôn khổ thời gian nhất định. Khi khuôn khổ thời gian đó
chấm dứt thì dự án đó cũng tự động chấm dứt. Có dự án chỉ diễn ra trong một khoảng
thời gian ngắn (như xây dựng một cây cầu lớn trong vòng 4 năm) nhưng có những
dự án phải diễn ra trong nhiều năm (ví dụ như xây dựng một đập thủy lợi ngăn nước
trong 10 năm).

1.1.2. Chủ đầu tư
Theo điều 4.9 của Luật đấu thầu năm 2005 quy định Chủ đầu tư là người sở
hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp
quản lý và thực hiện dự án.
Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước hoặc dự án có cổ phần chi
phối hay cổ phần đặc biệt của Nhà nước thì chủ đầu tư là các doanh nghiệp Nhà nước
(Tổng công ty, công ty), cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội hoặc một ban quản lý dự án được người có thẩm quyền đầu tư giao trách nhiệm
trực tiếp quản lý sử dụng vốn đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thì chủ đầu tư là các bên liên
doanh (đối với hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh), là hội đồng quản trị (đối với
xí nghiệp liên doanh), là tổ chức cá nhân, người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn đầu tư
(đối với liên doanh 100% vốn nước ngoài và dự án BOT).
1.1.3. Bên mời thầu
Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh
nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp luật
về đấu thầu.
1.1.4. Gói thầu
Gói thầu là một phần dự án, trong một số trường hợp đặc biệt gói thầu là toàn
bộ dự án; gói thầu có thể mua sắm giống nhau thuộc nhiều dự án hoặc là khối lượng
mua sắm một lần với mua sắm thường xuyên.
1.2 Đấu thầu xây dựng
Trên thực tế hiện nay tồn tại nhiều quan niệm, cách hiểu về đấu thầu. Xuất
phát từ Từ điển Tiếng Việt, “Đấu thầu” được hiểu là việc tổ chức cuộc so đọ công
khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được chấp nhận. Theo đó, thì
“đấu thầu” là cuộc đọ sức công khai giữa các tổ chức kinh tế và tài chính.
Đấu thầu xây dựng được hiểu là quá trình lựa chọn nhà thầu - nhà xây dựng
có tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu - đáp ứng đủ các yêu cầu của bên mời

thầu.Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đấu thầu xây dựng.
 Theo quan điểm của nhà thầu
Đứng trên quan niệm của nhà thầu thì khái niệm đấu thầu được hiểu là một
phương thức kinh doanh mà thông qua đó nhà thầu với các điều kiện và khả năng về
năng lực tài chính, kỹ thuật, tiến độ đáp ứng được cơ bản các yêu cầu của Bên mời
thầu, có cơ hội dành được hợp đồng thực hiện các công việc của gói thầu.
Đây là phương thức chủ yếu để có được dự án giúp cho doanh nghiệp tồn tại
và phát triển. Tính chất của đấu thầu đối với nhà thầu là quá trình cạnh tranh với các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhà thầu khác về khả năng tiến hành công tác xây dựng bảo đảm các yêu cầu về chất
lượng, tiến độ, chi phí để dành được thực hiện dự án mà bên mời thầu đưa ra.
Có thể nói đây là quá trình hết sức khó khăn, nhạy cảm và nhiều rủi ro có thể
xảy ra. Trong quan hệ giữa bên mời thầu và nhà thầu, có nhiều quan hệ được nảy sinh
cần được sự điều chỉnh của pháp luật để tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh đó là: Quan
hệ giữa bên mời thầu với các bên tham gia đấu thầu. Ở đây muốn nhấn mạnh là, ở mỗi
cuộc đấu thầu đều có vận “may”, “rủi”, mà có Nhà thầu trúng thầu, có Nhà thầu
không trúng thầu.
 Theo quan niệm của Bên mời thầu
Đấu thầu là hình thức (Quá trình) lựa chọn nhà thầu tốt nhất đáp ứng được các
yêu cầu về kinh tế, về kỹ thuật, chất lượng, tiến độ thi công và chi phí xây dựng công
trình. Quan niệm này cũng như theo Điều 4.2 của Luật đấu thầu năm 2005 quy định “
đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực
hiện gói thầu thuộc các dự án được quy định bắt buộc phải đấu thầu trên cơ sở bảo
đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch, và hiệu quả kinh tế”. Có thể hiểu đấu thầu
là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu.
Như vậy, đứng trên quan điểm của Nhà thầu và chủ thầu (Bên mời thầu)
thì“Đấu thầu” là cuộc thi tuyển trong hoạt động xây dựng giữa các nhà thầu thỏa
mãn các yêu cầu cuả chủ đầu tư, từ đó lựa chọn Nhà thầu thích hợp nhất.
 Theo quan niệm trong quản lý đầu tư và xây dựng

Tại Điều 43 Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ngày 8-7-1999 ban hành Quy chế
quản lý đầu tư và xây dựng quy định “ Nhà nước khuyến khích đấu thầu đối với tất
cả các dự án đầu tư và xây dựng của các công trình sản xuất kinh doanh hoặc văn
hóa- xã hội, không phân biệt nguồn vốn”. Như vậy, đấu thầu chính là phương thức
quản lý của việc lập và thực hiện dự án đầu tư, thông qua đó lựa chọn được nhà thầu
đáp ứng các yêu cầu của dự án trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, minh bạch trong quá
trình đấu thầu. Xét theo quan điểm này, đấu thầu là sự tham dự của 3 chủ thể có liên
quan đến dự án (công trình xây dựng). Theo đó, Chính phủ sẽ phân công cho các bộ,
nghành ở TW và đã phân cấp cho chính quyền địa phương quản lý thực hiện các dự
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
án xây dựng cơ bản. Các cơ quan quản lý dự án đóng vai trò là bên mời thầu và theo
phương thức đấu thầu, tiến hành chọn nhà thầu có nhiều ưu điểm nhất để giao thực
hiện dự án.
 Quan niệm theo Quan hệ hợp đồng
Nếu đứng trên giác độ các quan hệ kinh tế, dân sự hiện nay chủ yếu được thực
hiện bằng hình thức hợp đồng, thì trong hoạt động đấu thầu, suy cho cùng đó là quan
hệ hợp đồng giữa bên mua (Bên mời thầu) và bên bán (Các nhà thầu). Tuy nhiên, đây
là quan hệ đặc biệt xảy ra trong đó chỉ có một người mua và nhiều người bán. Trong
quy trình về hoạt động đấu thầu, kể cả của các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân
hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB), của các nước trên thế giới
cũng như của Việt Nam, thì các công việc trong quy trình đấu thầu, xét đến cùng đều
dẫn tới việc thương thảo ký kết hợp đồng giữa các Bên là quan hệ hợp đồng. Đây
cũng là sự thể hiện bước hoàn thiện về mặt pháp lý các giao dịch kinh tế, dân sự,
thương mại… trong nền kinh tế thị trường.
Xét về bản chất đấu thầu là phương thức lựa chọn đối tác. Sau khi đấu thầu,
bên mời thầu xếp hạng được một danh sách ưu tiên giao kết hợp đồng. Người trúng
thầu là người đứng đầu danh sách được ưu tiên thương thảo, ký kết đầu tiên. Nếu
không thành, sẽ đến lượt người tiếp theo. Còn pháp luật về hợp đồng không điều chỉnh
việc lựa chọn đối tác, mà đó là quyền tự do của các chủ thể giao kết hợp đồng. Pháp

luật về hợp đồng chỉ điều chỉnh khi đã xác định được các đối tác giao kết.
Hình thức của hợp đồng giao kết thông qua đấu thầu phải bằng văn bản. Hợp
đồng chỉ có hiệu lực khi được người có thẩm quyền phê duyệt. Các hình thức giao
kết đối với hợp đồng theo nguyên lý thông thường có thể bằng văn bản, lời nói, hoặc
hành vi cụ thể.
Quá trình thương thảo trong đấu thầu, nhà thầu trúng thầu bị ràng buộc về nội
dung chào hàng của mình. Hai bên có quyền thương thảo, nhưng không được làm giá
cao hơn giá trúng thầu đã được phê duyệt. Phần lớn những nội dung của chào hàng
đã được bên mời thầu dự tính chấp nhận. Đối với hợp đồng giao kết theo nguyên lý
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông thường các bên hoàn toàn tự do trong việc xác định về nội dung. Bên đưa ra đề
nghị cũng bị ràng buộc về nội dung đề nghị đối với bên được đề nghị.
Một điểm khác biệt có thể thấy rõ giữa hai hình thức hợp đồng này đó là các điều
khoản quy định về bảo lãnh thực hiện hợp đồng, trong đấu thầu là bắt buộc, nhưng
không quá 10% giá trị hợp đồng; trong khi đó quy định này là không bắt buộc, do các
bên tự thỏa thuận trong hợp đồng giao kết theo nguyên lý thông thường.
Tóm lại, các quan điểm trên được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, có
thể rút ra khái niệm về đấu thầu, đó là quá trình lựa chọn Nhà thầu đáp ứng cơ bản
các yêu cầu của bên mời thầu nhằm bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch
và hiệu quả kinh tế của gói thầu. Có thể nói đây là biện pháp hiệu quả nhất để khắc
phục tiêu cực trong các hoạt động kinh tế như mua bán, xây dựng vv…
1.2.1. Phân loại các hình thức đấu thầu
Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà đấu thầu được phân chia thành nhiều loại:
- Dựa vào hình thức lựa chọn nhà thầu người ta phân thành đấu thầu rộng rãi
và đấu thầu hạn chế
Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu
tham dự. Việc lựa chọn nhà thầu để thực hiện các dự án sau đây phải áp dụng hình
thức đấu thầu rộng rãi bao gồm:

- Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển,
bao gồm:
+ Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đầu tư xây dựng;
+ Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt;
+ Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, qui hoạch xây
dựng đô thị, nông thôn;
+ Dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật;
+ Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển;
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội –
nghề nghiệp, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
- Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ việc cải tạo,
sửa chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, công trình, nhà xưởng đã đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước.
1
Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu bên mời thầu phải công bố công khai các
thông tin mời ứng thẩu trên tờ báo về đấu thầu trên 3 kỳ liên tiếp và trên trang thông
tin điện tử về đấu thầu, đối với đấu thầu quốc tế thì còn phải đăng tải đồng thời trên
một tờ báo Tiếng Anh được phát hành rộng rãi trong nước. Sau khi đăng tải theo quy
định trên, có thể đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng khác. Sau thời hạn
10 ngày kể từ ngày đăng tải lần đầu tiên thông mời nộp hồ sơ quan tâm, bên mời thầu
sẽ phát hành miễn phí cho các nhà thầu có nhu cầu tham dự thầu. Trong hồ sơ mời
thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu
hoặc nhằm tạo lợi thế cho các nhà thầu cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh
tranh không bình đẳng.
Quá trình xét thầu được thực hiện công khai và bình đẳng. Nhà thầu nào có giá
thầu hợp lý thuộc phạm vi giá của Chủ đầu tư dự kiến (giá trần) và thỏa mãn các điều
kiện mà chủ đầu tư đề ra thì nhà thầu đó sẽ trúng thầu. Đây là hình thức chủ yếu

được áp dụng trong đấu thầu nói chung và đấu thầu trong xây lắp nói riêng.
Do số lượng người dự thầu là khá đông, vì vậy bên mời thầu có cơ hội để lựa
chọn nhà thầu có đủ tư cách, năng lực tham gia dự án. Nhưng cũng chính vì vậy, nên
chi phí đánh giá hồ sơ đấu thầu cũng rất tốn kém, trong khi đó chi phí của người đi
vay là phải sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả nhất. Hơn nữa, đối với những dự án
đòi hỏi có yêu cầu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đặc biệt mà chỉ có một số nhà thầu
mới đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi chủ đầu tư phải tiến hành sơ tuyển để lựa chọn
nhà thầu có đủ tư cách, năng lực tham gia dự thầu.
1
Xem Điều 1, Điều 18 của Luật đấu thầu ngày 29-11-2005.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Đấu thầu hạn chế
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, trước khi phát hành hồ sơ mời thầu,
chủ đầu tư sẽ phê duyệt danh sách nhà thầu được coi là có đủ năng lực và kinh
nghiệm để mời tham gia đấu thầu.Trên cơ sở đó Bên mời thầu sẽ gửi thư mời thầu tới
các nhà thầu trong danh sách đó, tuy nhiên phải mời tối thiểu 5 nhà thầu, trường hợp
thực tế có ít hơn 5 nhà thầu, chủ đầu tư phải trình người có thẩm quyền xem xét,
quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc áp dụng hình thức lựa
chọn khác.
Theo quy định tại Điều 19 của Luật đấu thầu (ban hành ngày 29-11-2005) đấu
thầu hạn chế được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
+ Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói
thầu;
+ Gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu
có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng
yêu cầu của gói thầu.
Việc xét thầu và công nhận trúng thầu giống như hình thức đấu thầu rộng rãi.
- Dựa vào quốc tịch của Nhà thầu có đấu thầu trong nước và đấu thầu quốc tế.
Đấu thầu trong nước là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của

bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước.
Đấu thầu quốc tế là cuộc đấu thầu mà có sự tham gia của các nhà thầu nước
ngoài và nhà thầu trong nước. Việc tổ chức đấu thầu quốc tế được thực hiện trong các
trường hợp: gói thầu thuộc dự án ODA mà nhà tài trợ quy định phải đấu thầu quốc tế
hoặc nhà thầu trong nước chưa đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu,
hoặc đã tổ chức đấu thầu trong nước nhưng không chọn được nhà thầu trúng thầu.
- Dựa vào phương thức áp dụng đấu thầu được phân chia thành nhiều loại
khác nhau
 Phương thức đấu thầu một túi hồ sơ
Theo phương thức này, nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật và
đề xuất về tài chính vào chung một túi hồ sơ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mở thầu được tiến hành một lần. Hình thức này được áp dụng cho những dự án
không lớn (gói thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp).
 Phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ
Đấu thầu hai túi hồ sơ được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu
hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. Nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và
đề xuất về tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.Việc mở thầu được
tiến hành hai lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật được mở để đánh giá trước, đề xuất
về tài chính của tất cả nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu
được mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao thì
đề xuất về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem
xét, thương thảo.
 Phương thức đấu thầu hai giai đoạn
Phương thức này được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu
thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật công
nghệ mới, phức tạp, đa dạng và được thực hiện theo trình tự sau đây:
Trong giai đoạn một, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn một, các nhà thầu nộp đề
xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có có giá dự thầu; trên cơ sở trao đổi

với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai;
Trong giai đoạn hai, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham
gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất về kỹ
thuật, đề xuất tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu.
 Phương thức chỉ định thầu- chào hàng cạnh tranh - tự thực hiện
+ Chỉ định thầu
Đây là hình thức không tổ chức đấu thầu mà chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng
yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng.
Hình thức này chỉ áp dụng trong các trường hợp đặc biệt sau:
++ Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, địch họa, sự cố cần khắc phục ngay
(ví dụ như xảy ra hiện tượng sụp đổ một cây cầu nào đó mà cần khắc phục ngay để
phục vụ cho việc đi lại).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ +Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài;
+ +Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an
ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng chính phủ quyết định khi thấy cần thiết;
+ +Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá trị dưới 500 triệu đồng, gói thầu mua sắm
hàng hóa, xây lắp có giá gói thầu giá trị dưới 1 tỷ đồng thuộc dự án đầu tư phát triển;
gói thầu mua sắm hàng hóa có giá gói thầu dưới một trăm triệu đồng thuộc dự án
hoặc dự toán mua sắm thường xuyên.
+ +Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị phục hồi, duy tu, mở rộng công
suất của thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất mà trước đó đã được mua từ một
nhà thầu cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu cung cấp khác do phải bảo đảm
tính tương thích của thiết bị công nghệ.
2

+Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu có giá trị dưới hai tỷ đồng.
Đối với mỗi gói thầu phải có tối thiểu 3 báo giá từ 3 nhà thầu khác nhau. Khi thực

hiện chào hàng cạnh tranh, phải gửi yêu cầu chào hàng cho các nhà thầu. Nhà thầu
gửi báo giá đến bên mời thầu một cách trực tiếp, bằng fax hoặc qua đường bưu điện.
Nội dung mua sắm là những hàng hóa thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính
kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa và tương đương nhau về chất lượng.
+Tự thực hiện
Hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp chủ đầu tư là nhà thầu có đủ năng
lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thầu thuộc dự án do mình quản lý và sử dụng.
+Mua sắm trực tiếp
Mua sắm trực tiếp được áp dụng khi hợp đồng đối với gói thầu có nội dung
tương tự được đăng ký trước đó không quá 6 tháng. Khi áp dụng hình thức được mời
nhà thầu trước đó đã lựa chọn thông qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung
tương tự.
- Dựa vào tính chất nội dung của công việc gói thầu phân thành đấu thầu tuyển
chọn tư vấn thiết kế kiến trúc công trình xây dựng, đấu thầu mua sắm hàng hóa, đấu
thầu trong xây lắp, và đấu thầu để lựa chọn tư vấn các đối tác để thực hiện các dự án
2
Xem Điều 20 Luật Đấu Thầu ngày 29 tháng 11 năm 2007.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Đấu thầu tuyển chọn tư vấn thiết kế kiến trúc công trình xây dựng
Tư vấn đầu tư và xây dựng là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về kiến thức,
kinh nghiệm chuyên môn cho Bên mời thầu trong việc xem xét quyết định kiểm
nghiệm chuyên môn cho Bên mời thầu trong việc xem xét quyết định kiểm tra quá
trình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư.
Đấu thầu tư vấn là quá trình lựa chọn ra nhà tư vấn có đủ trình độ và kinh
nghiệm để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực
hiện đầu tư.
Việc lựa chọn nhà thầu tư vấn được thực hiện theo quy định củat Luật xây
dựng được Quốc hội thông qua ngày 29-11-2003. Tại Điều 55 của Luật này quy định:
“các công trình sau đây trước khi lập dự án đầu tư xây dựng phải thi tuyển thiết kế

kiến trúc:
+ Trụ sở cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở lên;
+ Các công trình văn hóa, thể thao, các công trình công cộng có quy mô lớn;
+ Các công trình khác có kiến trúc đặc thù.”
 Đấu thầu mua sắm hàng hóa
Đấu thầu mua sắm hàng hóa là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng
hóa đáp ứng được yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở sự cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp. Hàng hóa ở đây có thể là máy móc, phương tiện vận chuyển, thiết bị, bản
quyền sở hữu công nghiệp, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng (thành
phẩm, bán thành phẩm).
Đấu thầu trong xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện những công việc
thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Những
quy định pháp luật cụ thể về đấu thầu trong xây lắp sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau.
 Đấu thầu để lựa chọn đối tác thực hiện dự án
Đây là quá trình lựa chọn đối tác để thực hiện một phần hay toàn bộ công
việc, mục tiêu hoặc yêu cầu nào đó. Căn cứ vào danh mục đầu tư hàng năm do Chính
phủ công bố hoặc nhà đầu tư đề xuất, nếu dự án có từ hai đối tác trở lên quan tâm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thực hiện thì phải tiến hành đấu thầu để người có thẩm quyền có cơ sở xem xét lựa
chọn đối tác để thực hiện dự án dưới dạng sau:
+ Dự án đang là ý tưởng;
+ Dự án đã có Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi được duyệt;
+ Yêu cầu về một số nội dung công việc.
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây dựng
Trong bất cứ hoạt động nào thì chủ thể tham gia đều phải tuân theo một
nguyên tắc cơ bản nhất định và hoạt động đấu thầu cũng không nằm ngoài qui luật
đó. Cuốn “Tài liệu hướng dẫn đấu thầu quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng công
trình theo thể thức hiệp hội các kỹ sư tư vấn (FIDIC), ngân hàng thế giới (WB) và
ngân hàng phát triển liên Mỹ (IDB)” đã trình bày khá rõ ràng và đầy đủ các nguyên

tắc tuân thủ chung trong thông lệ quốc tế. Ngày nay hoạt động đấu thầu ở Việt Nam
cũng tuân theo đúng những nguyên tắc này.
Theo đó, để đảm bảo tính đúng đắn, khách quan, công bằng và hiệu quả trong
đấu thầu, chủ thể quản lý phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Sơ đồ1.1: Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các nguyên tắc cơ bản
trong đấu thầu
Nguyên
tắc cạnh
tranh với
điểu kiện
ngang
nhau
Nguyên
tắc dữ liệu
đầy đủ
Nguyên
tắc bảo
mật hồ sơ,
tài liệu,
thông tin
Nguyên
tắc đánh
giá công
bằng
Nguyên
tắc trách
nhiệm
phân minh

Nguyên
tắc bảo
hành, bảo
lãnh và
bảo hiểm
thích đáng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau
Đặc điểm của đấu thầu là cạnh tranh, vì chỉ như vậy mới giúp nhà đầu tư tìm
ra được nhà thầu đáp ứng được tối ưu nhất yêu cầu của mình. Tuy nhiên sự cạnh
tranh phải diễn ra trên cơ sở công bằng, thể hiện: Mỗi gói thầu phải có sự tham dự
của một số lượng nhà thầu nhất định có năng lực, đủ để đảm bảo sự cạnh tranh giữa
các nhà thầu. Những điều kiện mà Bên mời thầu đưa ra và những thông tin cung cấp
cho các nhà thầu phải ngang bằng nhau, nhằm tạo sự công bằng, bình đẳng về cơ hội
cho mỗi nhà thầu. Các nhà thầu tham gia đấu thầu phải độc lập về tổ chức, không
cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý độc lập về tài chính với chủ đầu tư của dự
án và với nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu.
 Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ
Các nhà thầu phải được cung cấp thông tin đầy đủ các dữ liệu, tài liệu liên
quan đến gói thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng về quy mô, khối lượng, quy cách,
yêu cầu chất lượng, giá cả và điều kiện hợp đồng, kể cả những sửa đổi, bổ sung (nếu
có). Danh mục cụ thể các tài liệu cần có trong Hồ sơ dự thầu cũng cần nói rõ để Bên
dự thầu chuẩn bị.
 Nguyên tắc bảo mật hồ sơ, tài liệu, thông tin
Để bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh cũng như quyền lợi của chủ đầu tư và
các nhà thầu, tất cả các hồ sơ, tài liệu, thông tin có liên quan đến gói thầu trong suốt
quá trình đấu thầu được xem như là những bí mật thương mại phải được bảo mật
theo quy định của pháp luật.
 Nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng
Công bằng luôn là tiêu chí mà bất cứ cuộc cạnh tranh nào đều muốn hướng tới.

Các hồ sơ dự thầu hợp lệ phải được xem xét, đánh giá khách quan, công bằng với cùng
một tiêu chuẩn như nhau và bởi một hội đồng xét thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm và
tư cách. Các tiêu chí đánh giá Hồ sơ, tiêu chuẩn xét thầu phải được công bố trước trong
Hồ sơ mời thầu và trong quá trình xét thầu. Bên mời thầu không được tự ý thay đổi.
Mọi lý do của việc Hồ sơ dự thầu được chọn hay bị loại đều phải được giải thích rõ
ràng bằng văn bản cho các nhà thầu biết khi có yêu cầu của nhà thầu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nguyên tắc trách nhiệm phân minh
Hiện nay, hiện tượng một người làm một người chịu không còn thích hợp nữa.
Quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên có liên quan được đề cập và cụ thể hóa
trong hợp đồng. Để được hưởng những quyền thì mỗi bên liên quan phải thực hiện
những nhiệm vụ nhất định và phải có trách nhiệm đối với việc mình đã làm. Mỗi bên
có liên quan đều biết rõ mình phải gánh chịu những hậu quả gì nếu có sơ suất và do
đó mỗi bên phải nỗ lực tối đa trong kiểm soát bất trắc và phòng ngừa rủi ro. Việc tuân
thủ triệt để nguyên tắc này sẽ là cơ sở cho việc phân định rạch ròi phạm vi trách
nhiệm của mỗi bên để không một sai sót nào không có người chịu trách nhiệm và
cũng không để ai phải chịu trách nhiệm về những thứ mà không thuộc trách nhiệm
của mình.

Nguyên tắc bảo hành, bảo lãnh và bảo hiểm thích đáng
Để thực hiện quá trình đấu thầu một cách thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực
của tất cả các bên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đấu thầu nhiều khi do các
nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà các nhà thầu gây cản trở đến quá
trình đấu thầu như: Đòi rút lại Hồ sơ dự thầu hoặc cung cấp các số liệu không chuẩn
xác, cũng có khi trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng…. Chính vì vậy mà
trong Luật đấu thầu có quy định cụ thể về vấn đề bảo lãnh, bảo đảm, bảo hành trong
đấu thầu.
3

Đây là một chế định giúp cho Bên mời thầu tránh được các rủi ro do các
nhà thầu gây ra.
Những nguyên tắc trên đây là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá
trình đấu thầu được áp dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay. Việc thực hiện những
nguyên tắc này mục tiêu cuối cùng cũng là để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về tiến
độ, chất lượng, tài chính của dự án, bảo đảm lợi ích chính đáng cho cả chủ đầu tư lẫn
nhà thầu.
3
Xem điều 55, Điều 56 Luật đấu thầu ngày 29-11-2006.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3. Vai trò của đấu thầu xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
1.3.1 . Quá trình hình thành và phát triển các quy định về đấu thấu xây dựng
Đấu thầu là một trong những phương thức mua sắm hàng hóa, dịch vụ trong
đời sống xã hội loài người. Nó ra đời và cùng phát triển với phương thức sản xuất
phát triển dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt và các cuộc khủng hoảng đã dẫn tới sự
ra đời của Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20. Độc quyền ra đời, từ tự do cạnh tranh, sau đó đối lập với tự do
cạnh tranh nhưng không thủ tiêu cạnh tranh mà làm cho cạnh tranh càng ngày càng
gay gắt hơn.
Nhà nước tư bản vừa là người đại diện, người bảo vệ cho giai cấp tư sản vừa
là người điều tiết quá trình sản xuất, vừa là người cung cấp vốn để nghiên cứu, ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật. Nhà nước điều tiết các chương trình, các mục
tiêu phát triển kinh tế thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế khác.
Ngoài ra Nhà nước còn bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng
phát triển các ngành kinh tế cần thiết cho xã hội nhưng lại có hiệu quả kinh tế thấp,
lâu hoàn vốn…những mua sắm chi tiêu của chính phủ đã trở thành mục tiêu cạnh
tranh gay gắt giữa các tổ chức kinh tế tài chính.
Do vậy, để điều chỉnh hoạt động nói trên, ở hầu hết các nước tư bản đều có

luật mua sắm công dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động đấu thầu đã xuất hiện
sớm, nhưng luật lệ liên quan đến đấu thầu ra đời muộn hơn và đã xuất hiện đầu tiên ở
Anh. Khi các hiệp hội kỹ sư tư vấn quốc tế (Fidic) thành lập thì quy chế đấu thầu
ngày càng được hoàn thiện dần. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy các quy định về
đấu thầu ở các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên khắp thế giới.
Ở Việt Nam, đấu thầu đã manh nha xuất hiện ở nước ta từ rất lâu. Hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu đã được đặt ra những tiền đề đầu tiên ngay
từ những buổi đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong sắc lệnh của
mình giai đoạn 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý các cơ quan Chính Phủ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khi mua sắm tài sản, đồ vật phải hết sức tiết kiệm và phải lựa chọn những vật phẩm
từ nguồn cung cấp thích hợp nhất để không lãng phí tài sản của dân.
Sau đó, trong suốt thời kỳ chiến tranh từ năm 1946 đến đầu những năm 1980
Việt Nam cũng đã từng có một số văn bản liên quan đến việc lựa chọn người bán khi
mua tài sản công. Tuy nhiên, do đặc thù của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao
cấp với hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động
kinh tế. Hàng hóa ít người mua nhiều người bán, không có sự cạnh tranh. Với mỗi
công trình xây dựng, Nhà nước sẽ chỉ định cho các đơn vị thực hiện xây lắp tùy theo
kế hoạch Nhà nước đề ra hoặc căn cứ vào mối quan hệ giữa các đơn vị đó với cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền mà không qua đấu thầu.
Theo cơ chế này, không tồn tại khái niệm cạnh tranh trong tất cả các ngành
kinh tế nói chung và trong hoạt động đầu tư xây dựng nói riêng, từ đó tạo ra nhiều
tiêu cực, sai lầm gây thất thoát lớn cho xã hội. Các văn bản về hoạt động xây dựng cơ
bản mang tính pháp lý thấp và chỉ nhằm xử lý một vài vụ cụ thể hơn là xác lập cơ sở
pháp lý cho hoạt động đấu thầu.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, hoạt động của
ngành xây dựng cũng có sự thay đổi tương ứng. Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI- 1986, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng một cơ chế mới

phù hợp với quy luật khách quan với trình độ phát triển của nền kinh tế đó là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo cơ chế đó, khái niệm cạnh tranh ngày càng trở nên thông dụng. Trong
hoạt động đầu tư xây dựng, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau
đều bình đẳng trước pháp luật, đều có cơ hội tham gia xây dựng các công trình ngang
nhau nên giữa các doanh nghiệp luôn tồn tại sự cạnh tranh.
Nền kinh tế càng phát triển, thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Đứng trước
thực tế đó hoạt động đấu thầu đã xuất hiện và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
các doanh nghiệp xây dựng có cơ hội được thể hiện mình một cách tốt nhất. Để tạo
môi trường nhằm tăng cường hiệu quả của hình thức đấu thầu, cùng với việc tổ chức
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thực hiện, các văn bản có tính quy chế được xây dựng và bổ sung và sửa đổi ngày
càng hoàn thiện hơn.
- Đầu năm 1990, Bộ xây dựng đã ban hành “ Quy chế đấu thầu trong xây
dựng” kèm theo quyết định số 24/BXD- VKT ngày 12/2/1990 nhưng chưa rõ ràng.
- Tiếp theo đó tháng 3/1994 Bộ xây dựng ban hành “ quy chế đấu thầu trong
xây dựng” (theo quyết định số 06/BXD- VKT thay cho quyết định số 24/BXD- VKT
trước đây). Đây là văn bản được coi là quy chế đầu tiên theo đó quy định tất cả các
công trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước đều phải thực hiện đấu thầu.
- Đến ngày 16/4/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 183 Ttg theo
quy chế này, các dự án dùng vốn Nhà nước (Bao gồm ngân sách cấp, vốn vay, vốn
viện trợ, vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp đều phải qua đấu thầu. Kết quả đấu thầu
có vốn đầu tư trên 10 triệu USD phải thông qua Hội đồng xét thầu quốc gia thẩm
định để trình thủ tướng Chính Phủ xem xét và phê duyệt.
- Năm 1996, Chính Phủ ban hành quy chế đấu thầu kèm theo Nghị đinh số
43/ NĐ- CP ngày 5.5.2000. Từ năm 1999 đến năm 2003, công tác đấu thầu được điều
chỉnh chủ yếu bằng Nghị định số 88/1999/NĐ-CP (NĐ 88/CP) ngày 01/9/1999 và
Nghị định số 14/2000/NĐ- CP (NĐ14/CP) ngày 05/05/2000, so với cơ chế cũ nhiều
vấn đề sáng tỏ hơn, phương pháp đánh giá để đấu thầu đã khoa học hơn chuẩn mực

hơn.
- Nền kinh tế ngày càng phát triển, yêu cầu đặt ra đối với đấu thầu ngày càng
cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, năm 2003 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 66/NĐ-
CP ngày 12/6/2003 sửa đổi bổ sung Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định số 88/CP
và Nghị định số 14/ CP. Với 45% số điều bổ sung NĐ 88/CP và 13% số điều sửa đổi
bổ sung NĐ14/CP. Để thực thi Qui chế đấu thầu đã có một số văn bản hướng dẫn
thực hiện. Bộ KH& ĐT đã có Thông tư 04/ TT-BKH (ban hành năm 2000) và thông
tư 01/ TT- BKH (ban hành năm 2004); Bộ Tài chính có thông tư 121/TT-BTC (ban
hành năm 2000) và thông tư 94/ TT-BTC (ban hành năm 2001); Bộ LĐTB &XH có
Quyết định số 1037/ QĐ- BLĐTBXH (ban hành năm 2000).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các quy định về đấu thầu được ban hành đã tăng cường tính cạnh tranh, công
bằng, minh bạch trong đấu thầu, bảo đảm hiệu quả kinh tế của dự án, tăng cường một
bước công tác thanh tra quản lý hoạt động đấu thầu và thực hiện hợp đồng, nâng cao
công tác quản lý thông tin về đấu thầu và Nhà thầu. Nhờ thực hiện theo quy chế đấu
thầu, Việt Nam đã đạt được một số thành tích, qua đấu thầu đã lựa chọn được nhà thầu
có đủ kinh nghiệm, năng lực để thực hiện gói thầu, có giải pháp, biện pháp thực hiện
khả thi để đảm bảo nguyên tắc là giá trúng thầu không vượt quá giá gói thầu.
- Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 11 đã thông qua việc ban hành
Luật xây dựng và có hiệu lực từ ngày 1-7-2004 thay cho quy chế quản lý đầu tư xây
dựng được ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, với chương 16 về lựa
chọn Nhà thầu và Hợp đồng xây dựng. Có thể nói đây là một sự kiện có tính bước
ngoặt trong quá trình thực hiện hệ thống pháp luật đầu tư xây dựng ở nước ta.
- Đấu thầu là một công việc mới nên bên cạnh những thành tích đã đạt được,
không tránh khỏi những vướng mắc, tồn tại trong thực hiện. Chính vì vậy, ngay từ
năm 1999, trong chương trình xây dựng Luật và Pháp lệnh, Quốc hội đã yêu cầu xây
dựng Pháp lệnh đấu thầu (PLĐT) thay cho quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị
định). Đến tháng 6/2005, Chính phủ thông qua Dự thảo lần 10 PLĐT để trình sang
UBTVQH xem xét, phê duyệt. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của công tác đấu thầu

(trong quan hệ với nhiều Luật khác như Luật phòng, Chống tham nhũng, Luật thực
hành tiết kiệm chống lãng phí…) UBTVQH đã đề nghị nâng PLĐT lên thành Luật
Đấu thầu. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XI của nước CHXHCN Việt Nam đã
thông qua Luật đấu thầu tại ngày họp cuối cùng (29/11/2005). Với quyết tâm của
Chính Phủ và Quốc hội Luật đấu thầu được hình thành và thông qua trong thời gian
chưa đầy 5 tháng, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động đấu thầu sử dụng
nguồn vốn Nhà nước Việt Nam.
Luật đấu thầu xây dựng được xây dựng trên cơ sở quán triệt các quan điểm,
chủ trương của Đảng và Chính sách của Nhà nước, làm cho Luật trở thành một công
cụ quản lý hữu hiệu trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Nó được kế thừa các nội dung phù hợp của QCĐT và Dự thảo Pháp lệnh đấu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thầu đã có, phù hợp với các thông lệ đấu thầu quốc tế. Luật đấu thầu trở thành luật gốc
về đấu thầu, đảm bảo tính thống nhất trong quy định về đấu thầu sử dụng vốn nhà
nước. Theo đó, các hoạt động đấu thầu sử dụng vốn Nhà nước trên đất nước Việt Nam
phải thực hiện theo Luật kể từ ngày 01/4/2006 khi Luật có hiệu lực thi hành.
Nhằm giúp việc thực hiện Luật đấu thầu và Luật xây dựng thủ tướng chính
phủ đã ban hành Nghị định số 111/2006/NĐ- CP ngày 29/9/2006 hướng dẫn thi hành
Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng là khung khổ pháp
lý nguồn vốn ODA và công tác đấu thầu.
Đây thực sự là khung khổ pháp lý quan trọng trong công tác quản lý kinh tế
đầu tư xây dựng, tạo tiền đề thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước và
phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay.
1.3.2. Vai trò của đấu thầu xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
Đấu thầu không phải là một thủ tục mang tính hình thức mà trên thực tế là một
quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong xây dựng cơ bản. Hiệu quả của
hình thức này không chỉ ở Việt Nam mà đã được khẳng định ở nhiều nước trên Thế
Giới. Đấu thầu không chỉ có ý nghĩa quan trọng với các chủ thể tham gia đấu thầu mà
còn mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế quốc dân.

 Đối với chủ đầu tư
Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư sẽ tìm được nhà thầu có khả năng đáp ứng cao
nhất các yêu cầu đề ra vì trong đấu thầu diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà
thầu, chủ đầu tư chỉ lựa chọn nhà thầu nào đáp ứng được yêu cầu giá thành hợp lý,
đảm bảo tiến độ thi công, chất lượng công trình. Với hình thức đấu thầu, hiệu quả
quản lý vốn đầu tư được tăng cường, tình trạng thất thoát vốn đầu tư ở mỗi khâu của
quá trình thực hiện dự án sẽ dần được khắc phục và giảm thiểu. Đấu thầu giúp chủ
đầu tư giải quyết tình trạng phụ thuộc vào một nhà thầu. Tạo cho chủ đầu tư quyền
chủ động trong việc chuẩn bị tất cả các thủ tục pháp lý trước khi tiến hành mời thầu
và tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu. Tuy nhiên, để đánh giá được chúng, các hồ sơ
dự thầu đảm bảo tính công bằng trong đấu thầu, đòi hỏi các cán bộ của chủ đầu tư
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải có trình độ nhất định. Việc quản lý dự án đầu tư với yêu cầu thực tế sẽ thúc đẩy
nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ kinh tế, kỹ thuật của bên chủ đầu tư.
 Đối với Nhà thầu
Trong đấu thầu, do giành được những hợp đồng lớn có khi lên tới cả nghìn tỷ
USD nên các nhà thầu cũng có lợi nhiều mặt. Thứ nhất, phương thức đấu thầu sẽ phát
huy được tính chủ động, linh hoạt, tích cực tìm kiếm các thông tin liên quan đến dự
án, các thông tin về các đối thủ cạnh tranh, gây dựng mối quan hệ với các tổ chức
quốc tế trong và ngoài nước, tìm cách tăng cường uy tín của mình để có thể nắm bắt
được các cơ hội dự thầu.
Mặt khác, thông qua đấu thầu còn giúp cho các nhà thầu có điều kiện thay đổi
thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Như chúng ta đã biết, bên mời thầu
trong bộ hồ sơ mời thầu đã đòi hỏi các nhà thầu trong tương lai phải cung cấp hàng
hóa thiết bị, đạt những chuẩn mực nhất định hoặc sử dụng các công nghệ hiện đại,
tiên tiến. Muốn có đủ điều kiện như trên các nhà thầu không còn con đường nào khác
là phải không ngừng nâng cao về trình độ về mọi mặt: Tổ chức quản lý, đào tạo đội
ngũ cán bộ, đầu tư nâng cao năng lực thiết bị, mở rộng mạng lưới thông tin. Như vậy,
thông qua đấu thầu, nhà thầu sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm cạnh tranh, tiếp thu

được những kiến thức về khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại, có điều kiện để
khẳng định mình ở hiện tại và tương lai, có cơ hội để cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế.
Nếu trúng thầu, uy tín của nhà thầu sẽ được nâng cao, giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán tăng (nếu doanh nghiệp đăng ký niêm yết trên thị trường chứng
khoán), những nhà lãnh đạo công ty, hãng trúng thầu có điều kiện tiến xa hơn trên
con đường danh vọng.
Hơn nữa, do tập trung cung cấp lớn một thời gian dài nên các nhà thầu đã giải
quyết được công ăn việc làm cho nhân công của mình giúp họ có điều kiện cải thiện
đời sống, nâng cao trình độ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Đối với Nhà nước
Thông qua đấu thầu, các cơ quan quản lý Nhà nước có đủ thông tin thực tế và
cơ sở khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự của Nhà thầu. Hoạt động đấu thầu
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đấu thầu dựa trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu
trên mọi mặt (hành chính, kỹ thuật, quản lý,…) sẽ thúc đẩy các đơn vị dự thầu phải
nâng cao trình độ hiệu quả mọi mặt. Nhờ đấu thầu, hiệu quả của các dự án được nâng
cao, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước. Đấu thầu còn góp phần nâng cao hiệu quả
công tác quản lý của Nhà nước về đầu tư và xây dựng, hạn chế và loại trừ được các
tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư và các hiện tượng tích cực khác trong xây
dựng cơ bản. Trong cơ chế thị trường, phương thức đấu thầu ngày càng thể hiện rõ
tính ưu việt và vai trò quan trọng đối với các chủ đầu tư, nhà thầu và nhà nước. Do đó
việc áp dụng phương thức này vào họat động kinh doanh là hết sức cần thiết. Đấu
thầu còn là động lực, là điều kiện để cho các doanh nghiệp trong ngành xây dựng
cạnh tranh lành mạnh với nhau thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp xây dựng, từ
đó tạo tiền đề cho kinh tế phát triển.
1.4. Đấu thầu trong xây lắp và Pháp luật về đấu thầu trong xây lắp
1.4.1. Đấu thầu trong xây lắp
Hiện nay, đấu thầu được sử dụng như là một điều tất yếu trong nền kinh tế thị

trường. Đối với doanh nghiệp xây dựng thì hoạt động đấu thầu trong xây lắp là vấn
đề mà họ rất quan tâm để ký được hợp đồng, qua đó tạo công ăn việc làm cho người
lao động, tăng doanh thu… Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có những nhận thức cơ
bản về hoạt động đấu thầu trong xây lắp- một hình thức cạnh tranh đặc thù của các
doanh nghiệp xây dựng.
Đấu thầu trong xây lắp là phương thức mà chủ đầu tư sử dụng để cạnh tranh
giữa các nhà thầu xây dựng nhằm lựa chọn một đơn vị có khả năng thực hiện tốt nhất
các yêu cầu của dự án đầu tư. Các yêu cầu đó thường là yêu cầu về mặt kinh tế -tài
chính, yêu cầu về mặt kỹ thuật, yêu cầu về mặt tỉến độ thi công.
Thực chất của đấu thầu trong xây lắp là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu
quả kinh tế trong việc lựa chọn tổ chức thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sự so sánh giữa tổ chức xây dựng trên cùng một phương diện (như kỹ thuật hay tài
chính) để chọn lấy một nhà thầu đủ khả năng, sau đó lại so sánh tiếp. Kết quả cuối
cùng sẽ tìm được một tổ chức xây dựng đáp ứng tốt nhất, các yêu cầu của chủ đầu tư.
Đấu thầu trong xây lắp là một hoạt động mua bán, nhưng nó khác những vụ
mua bán thông thường ở chỗ nó bán công việc. Ở đây người mua là chủ đầu tư và
người bán là các nhà thầu. Chủ đầu tư sẽ chọn người bán nào có giá bán thấp nhất với
chất lượng công việc như nhau. Thực chất của đấu thầu trong xây lắp cũng còn là
việc tổ chức cạnh tranh trên hai phương diện : cạnh tranh giữa chủ đầu tư (bên A) và
nhà thầu (Bên B), cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Theo lý thuyết hành vi
người tiêu dùng thì trong một vụ mua bán, bao giờ người mua cũng cố gắng để mua
hàng với giá thấp nhất mà chất lượng vẫn đảm bảo, trong khi đó người bán lại cố
gắng để bán được cùng mặt hàng đó với giá cao nhất. Do đó nảy sinh sự cạnh tranh
giữa người mua và người bán. Giữa các nhà thầu thì họ cố gắng cạnh tranh với nhau
để bán được hàng- là công việc xây dựng mà họ sẽ làm cho chủ đầu tư. Kết quả cạnh
tranh này là có lợi cho chủ đầu tư.
Những đặc điểm giống và khác nhau giữa đấu thầu trong xây lắp và các hình
thức khác

- Điểm giống nhau:
Thông qua hình thức đấu thầu để lựa chọn đơn vị sản xuất có đủ năng lực về
kinh tế, vật chất và lao động kỹ thuật để hoàn thành một công trình, một dự án, một
loại sản phẩm đạt hiệu quả cao nhất.
Về mặt tài chính có thể là bên mời thầu ứng một phần tiền trước cho bên dự
thầu hoặc bên dự thầu tạm bỏ tiền ra thi công và sẽ được thanh toán lại sau khi công
trình đã hoàn thành.
- Điểm khác nhau:
Sản phẩm của xây lắp có đặc điểm mang tính đơn chiếc, công trình đặt tại một
vị trí cố định, phục vụ cho một mục đích cụ thể, một chủ trương quản lý sử dụng,
không phải là hàng hóa thông thường được mua bán trên thị trường, khối lượng vật
chất, tiền vốn tiêu hao, số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất lớn gấp
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhiều lần các loại sản phẩm thuốc lĩnh vực khác, một công trình có nhiều nghành
nghề, tổ chức cùng tham gia.
Thời gian hoàn thành công trình lại dài, khi đã thực hiện các bước như chuẩn
bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng thì không thể dễ dàng thay đổi, trì hoãn. Điều đó chứng
tỏ xây dựng cơ bản là một quá trình sản xuất phức tạp, đa dạng có tác dụng cũng như
hiệu quả lâu dài về sau. Qui mô của công trình càng lớn thì mối quan hệ với các
nghành, các lĩnh vực càng phức tạp và có tác động đến môi sinh, môi trường và cơ sở
hạ tầng kỹ thuật khác. Vì thế việc áp dụng đấu thầu trong xây dựng cơ bản không
những phải đạt được tiêu chuẩn công trình với giá thành rẻ, chất lượng cao mà còn
phải đặt đấu thầu xây dựng trong một tổng thể phát triển của nền kinh tế- xã hội. Và
đây cũng là điểm khác biệt lớn nhất giữa đấu thầu trong lĩnh vực xây lắp với các lĩnh
vực khác.
1.4 .2. Pháp luật về đấu thầu trong xây lắp
Pháp luật về đấu thầu trong xây lắp là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể tham gia vào quá trình đầu tư xây
dựng cơ bản và các quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đấu thầu trong xây lắp.
Là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật về đấu thầu, pháp luật về
đấu thầu trong xây lắp hình thành và hoàn thiện cùng với quá trình xây dựng và phát
triển của hệ thống pháp luật về đấu thầu. Xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối
với đầu tư xây dựng là nhằm mục tiêu tái thiết đất nước và đẩy mạnh công cuộc dựng
xây Chủ nghĩa xã hội. Từ những văn bản pháp quy đầu tiên về đấu thầu mang ý nghĩa
đặt nền móng cho sự hình thành hệ thống các qui phạm pháp luật về đấu thầu, cho đến
nay pháp luật về đấu thầu xây dựng nói chung và pháp luật về đấu thầu trong xây lắp nói
riêng đã có một quá trình gần 15 năm không ngừng được hoàn thiện về cả hình thức và
nội dung, cả về chất lượng lẫn số lượng theo tiến trình xây dựng và phát triển kinh tế- xã
hội, đáp ứng cơ bản các yêu cầu của quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế nói
chung và quản lý lĩnh vực đầu tư xây dựng nói riêng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Xét về cấu trúc hình thức:
Hệ thống pháp luật hiện hành về đấu thầu trong xây lắp bao gồm các nhóm
văn bản pháp luật như sau:
+ Các văn bản pháp luật quy định quản lý lĩnh vực đấu thầu xây dựng bao gồm:
• Luật xây dựng được thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc Hội khoá IX ngày
26-11-2003.
• Luật đấu thầu xây dựng được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29-11- 2005.
• Nghị định số 16/2005/NĐ- CP ngày 07-02-2005 qui định quy chế quản lý
đầu tư xây dựng.
• Nghị định số 112/2006/NĐ- CP ngày 29-9-2006 về sửa đổi bổ sung một số
điều của Nghị định số 16/2005/ NĐ- CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
• Nghị định số 111/2006/NĐ- CP ngày 29-9-2006 hướng dẫn thi hành Luật
đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng .
+ Các văn bản quy định về quản lý các chủ thể hoạt động xây dựng, tư vấn
đầu tư xây dựng. Bao gồm :
• Quyết định số 19/2003/QĐ- BXD ngày 3-7-2003 quy định điều kiện năng

lực họat động xây dựng của Bộ trưởng bộ xây dựng.
• Thông tư số 09/2005/ TT- BXD ngày 7-5-2005 hướng dẫn một số nội
dung về giấy phép xây dựng.
• Quyết định số 15/ 2005/ QĐ- BXD ngày 25.4. 2005 của Bộ trưởng Bộ
xây dựng về việc ban hành quy chế cấp giấy phép xây dựng.
+ Các văn bản quy định về quản lý chất lượng công trình
• Nghị định số 209/2004/NĐ- CP ngày 16-12-2004 của Chính Phủ quy định
về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
+ Các văn bản quy định về bảo hiểm trong xây dựng
• Thông tư số 76/2003/ TT- BTC ngày 4-8-2003 của Bộ tài chính hướng
dẫn về bảo hiểm trong đầu tư và xây dựng.
+ Các văn bản pháp luật quy định về mức xử phạt vi phạm hành chính trong
đấu thầu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×