Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Ứng dụng bài tập thể dục thẩm mỹ trong hoạt động thể thao ngoại khóa nhằm hỗ trợ nâng cao thể lực cho nữ sinh trường Đại học Tây Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.29 KB, 107 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn khoa
học Nhà giáo nhân dân, PGS, TS Vũ Đức Thu, người thầy đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi, người đã đưa ra những ý tưởng khoa
học và định hướng nghiên cứu cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, các
cộng sự trong nhóm làm việc, các đồng nghiệp đã có những chia sẻ, những
thảo luận khoa học và những lời nhận xét bổ ích giúp đỡ tôi.
Đồng thời tôi xin cảm tới Phòng Sau đại học, Thư viện, và hơn nữa
là các thầy cô giáo trong Khoa Giáo dục thể chất trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, những người thân trong gia đình, các bạn học viên lớp Cao học
Giáo dục thể chất K19 đã động viên, đóng góp ý kiến và tạo mọi điều kiện
thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, hoàn thành luận văn và
bảo vệ luận văn thạc sĩ.
Hà Nội, tháng 8 năm 2011
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Điểm
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
cm : centimet
dm : Đềximét
GDTC : Giáo dục thể chất
kg : Kilôgam
m : Mét
mm : Milimet
PHVĐ : Phối hợp vận động
RLTT : Rèn luyện thân thể
s : Giây
SV : Sinh viên
TDTM : Thể dục thẩm mỹ
TDTT : Thể dục thể thao
VĐV : Vận động viên


XPC : Xuất phát cao
MỤC LỤC
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục đích của nền giáo dục nước ta là giáo dục con người xã hội chủ
nghĩa phát triển toàn diện về các mặt: Đức – Trí – Thể – Mỹ – Lao động để
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực hết sức quan
trọng trong đời sống chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển
của mỗi nước. Vì vậy, ngay từ khi giành được chính quyền, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó xác định
Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam
theo từng giai đoạn. Bắt đầu từ Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng
(1979) đã ra quyết định số 14 - NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng:
Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; Thực
thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành;
Thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Chăm sóc sức khỏe, tăng cường thể chất của nhân dân được coi là
một nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Chính phủ. Nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ tổ quốc đòi hỏi nhân dân ta phải có sức khỏe dồi dào, thể chất
cường tráng. Vận động thể dục, thể thao là một biện pháp hiệu quả để tăng
cường lực lượng sản xuất và lực lượng quốc phòng của nước nhà, đó
chính là quan điểm của Đảng ta về phát triển sự nghiệp thể dục thể thao
(TDTT) Việt Nam và cũng là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với
toàn dân ta trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục từ những ngày đầu tiên
xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa “…dân cường thì nước
thịnh…”. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta vẫn không ngừng quan tâm,

chỉ đạo ngành TDTT nước nhà nỗ lực phấn đấu thực hiện bằng được mục
tiêu quan trọng này.
1
Luật thể dục, thể thao được Quốc hội khóa XI chính thức thông qua tại
kì họp thứ 10 ngày 29 tháng 11 năm 2006 là văn bản pháp lí quan trọng đối
với công tác quản lí thể dục, thể thao trong thời kì đổi mới, tạo hành lang
pháp lí cho thể dục, thể thao Việt Nam phát triển đúng định hướng: Vì sức
khỏe và hạnh phúc của nhân dân, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta khẳng định ngay từ những năm
đầu đổi mới (1986), đòi hỏi người Việt Nam “Phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần”. Trong giai đoạn này các
cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh. Kinh tế
tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất. Vì vậy trong nghị quyết Trung Ương II khoá VII của Đảng. Nghị
quyết chuyên đề về giáo dục đào tạo khẳng định: Giáo dục đào tạo cùng với
khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; Là động lực và điều kiện để
thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội; Là chìa khóa để mở cửa tiến vào
tương lai; Là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Là điều kiện để phát huy nguồn
lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững.
Trong hệ thống các nhân tố phát triển giáo dục thì Thể dục thể thao
nói chung và Giáo dục thể chất (GDTC) trong trường học nói riêng là một
mặt giáo dục hết sức quan trọng trong mục tiêu của nền giáo dục nước ta.
Bởi vì sức khỏe là nguồn tài sản vô cùng quý giá của mỗi cơ thể con nguời.
Muốn có sức khoẻ và sống lâu không chỉ dựa trên cơ sở làm trẻ lại một cơ
thể già cỗi và suy nhược mà phải tìm ra biện pháp điều hoà hệ thống các cơ
quan trong cơ thể để tăng cường thể lực ngay từ khi cơ thể còn non trẻ. Sức
khoẻ không chỉ là nguồn hạnh phúc riêng của từng người, nó còn có ý
nghĩa chiến lược của cả một dân tộc.

2
Trong sự nghiệp giáo dục thì giáo dục thể chất là một mặt giáo dục
toàn diện cho học sinh, sinh viên. Trong nhà trường giáo dục thể chất là
phương tiện có hiệu quả để phát triển hài hoà cân đối thể hình, nâng cao
năng lực thể chất của học sinh, sinh viên. Đó là một lĩnh vực sư phạm
chuyên biệt, nó còn có tác động tích cực đối với việc rèn luyện và bồi
dưỡng những phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ trong việc
hình thành nhân cách cho học sinh, sinh viên.
Công tác giáo dục thể chất và thể thao trường học thực sự có vị trí
quan trọng trong sự nghiệp giáo dục đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện
hoàn thiện về nhân cách, trí tuệ và trình độ chuẩn bị thể lực để phục vụ cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giữ vững và tăng cường an ninh
quốc phòng cho đất nước.
Ngày nay, việc giảng dạy GDTC trong các trường Đại học, Cao đẳng
cho sinh viên nhằm nâng cao thể lực cho các em luôn được đặt lên hàng đầu.
Trường Đại học Tây Bắc là trường đại học duy nhất tại khu vực Tây
Bắc. Trường có vị trí, vai trò rất lớn trong sự nghiệp giáo dục đó là Đào tạo
ra nguồn cán bộ có trình độ cao cho toàn bộ khu vực Tây Bắc. Khoa TDTT
là một khoa mới thành lập có nhiệm vụ nâng cao thể lực cho sinh viên toàn
trường, giúp sinh viên trong trường có đủ thể lực để tham gia vào hoạt
động học tập và các hoạt động lao động khác. Với số lượng sinh viên rất
lớn trong khi điều kiện sân bãi dụng cụ tập luyện còn hạn chế. Mặt khác
thời lượng học tập các môn chung và chuyên ngành thì quá căng thẳng.
Chính vì vậy việc tạo ra một sân chơi lành mạnh góp phần nâng cao thể lực
cho sinh viên là hết sức cần thiết.
Đối với nữ sinh viên trường Đại học Tây Bắc, việc phát triển thể lực
càng phải được hoàn thiện hơn bởi vì các em khi mới vào trường các em đã
ở lứa tuổi 17–18 và hầu hết các em chưa được chuẩn bị thể lực một cách
hoàn thiện. Chương trình đào tạo GDTC tại trường yêu cầu các em phải có
3

thể lực tốt để hoàn thiện nội dung học tập. Thêm vào đó các em rất cần thể
lực để có thể thực hiện các nhiệm vụ khác trong cuộc sống. Chính vì lẽ đó
việc nâng cao thể lực cho nữ sinh viên trường đại học Tây Bắc là một vấn
đề hết sức cấp thiết.
Nhằm thực hiện tốt chỉ thị 36/CT/TW ngày 24/3/1994 của ban bí thư
Trung Ương Đảng trong việc định hướng phát triển TDTT trong giai đoạn
mới là: “Phát triển TDTT là một bộ phận không thể thiếu được trong chính
sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước ta”, chỉ thị số 17-
CT/TW của Ban bí thư Trung Ương Đảng các cấp lãnh đạo trường Đại học
Tây Bắc nói chung và khoa TDTT nói riêng nhận thấy bên cạnh việc thực
hiện chương trình GDTC nội khóa cho sinh viên một cách đầy đủ thì công
tác tổ chức hoạt động TDTT ngoại khóa cho sinh viên là một việc vô cùng
cấp bách và cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay việc học tập theo tín
chỉ làm cho chương trình học tập môn GDTC chỉ còn thu gọn trong hai kì
học, điều này có một phần ảnh hưởng tới hiệu quả rèn luyện thể lực của
sinh viên. Thể lực của sinh viên chưa tương ứng với yêu cầu phát triển thể
lực và tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đặc biệt với đối tượng là nữ sinh của
trường việc tập luyện thể thao ngoại khóa nhằm mục đích rèn luyện sức
khỏe lại càng cần thiết nhưng hoạt động này lại diễn ra rất ít. Qua xem xét
thực tế chúng tôi nhận thấy cần phải có một hình thức tập luyện thể thao
ngoại khóa cho đối tượng là nữ sinh của trường Đại học Tây Bắc nhằm
giúp các em có sự chuẩn bị tốt về thể chất cho tương lai.
Theo chương trình GDTC hiện hành trong các trường Đại học và
Cao đẳng (ban hành theo quyết định số 203/TDTT của Bộ Đại học, Trung
học chuyên nghiệp và Dạy nghề nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày
(23/01/1989) và quy chế GDTC và Y tế trường học (ban hành theo quyết
định số 14/2001/QĐ: Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 05/03/2001) và Luật
Thể Thao (2006) thì GDTC trường học được tiến hành với nhiều phương
tiện phong phú trong đó thể dục thẩm mỹ là một loại hình thể dục vì mục
4

đích sức khoẻ với những nét cơ bản của thể dục tự do với sự vận động rất
đa dạng của động tác: Vận động tại chỗ, di chuyển lên xuống với bục và
các thao tác trong phối hợp với âm nhạc có sự truyền cảm cao làm hấp dẫn
người tập ở nhiều đối tượng khác nhau đặc biệt là các bạn nữ. Thêm vào đó
việc tập luyện môn này không đòi hỏi điều kiện tập luyện phức tạp nhưng
lại đem lại hiệu quả cao về sức khỏe, giáo dục nhân cách nếp sống lành
mạnh và tạo vóc dáng khỏe đẹp, cân đối cho người tập.
Tuy nhiên cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa học
nào ứng dụng bài tập thể dục thẩm mỹ cho đối tượng là nữ sinh viên trường
Đại học Tây Bắc trong hoạt động thể thao ngoại khóa. Cần có những thực
nghiệm khoa học để chứng minh tính chất hợp lý của việc sử dụng bài tập
và phương tiện tập luyện nhằm đảm bảo việc rèn luyện thân thể phát triển
thể lực cho nữ sinh viên là vấn đề hết sức cần thiết.
Xuất phát từ lý do trên với mục đích nâng cao công tác đào tạo của
nhà trường, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Ứng dụng bài tập thể dục thẩm mỹ trong hoạt động thể thao ngoại
khóa nhằm hỗ trợ nâng cao thể lực cho nữ sinh trường Đại học Tây Bắc”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở đánh giá thực trạng về hình thái và thể lực của nữ sinh
trường Đại Học Tây Bắc từ đó lựa chọn các bài tập thể dục thẩm mỹ và các
test đánh giá thể lực cho các em trong hoạt động thể thao ngoại khóa, góp
phần nâng cao chất lượng GDTC của trường Đại học Tây Bắc.
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra đề tài tiến hành giải quyết các
nhiệm vụ sau:
3.1. Nhiệm vụ 1
Khảo sát thực trạng thể lực, động cơ và sự ham thích tập luyện thể dục
thẩm mỹ của nữ sinh tại trường Đại học Tây Bắc.
3.2. Nhiệm vụ 2
5

Ứng dụng bài tập và các hình thức tổ chức tập luyện thể dục thẩm mỹ
nhằm nâng cao thể lực cho nữ sinh trường Đại học Tây Bắc.
4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Trên cơ sở chương trình giảng dạy giáo dục thể chất hiện hành cho
nữ sinh trường đại học Tây Bắc. Từ đó ứng dụng hệ thống bài tập thể dục
thẩm mỹ vào hoạt động thể thao ngoại khóa cho các em nhằm góp phần
nâng cao thể lực cũng như tạo điều kiện điều chỉnh theo hướng hoàn thiện,
cân đối hình thái cơ thể các em.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu
Thông qua quá trình đọc các tài liệu có liên quan, các tài liệu chuyên
ngành đối với lĩnh vực TDTT và TDTM đề tài tiến hành phân tích, hệ
thống các tài liệu, giáo trình, chương trình, từ đó xây dựng cơ sở lý luận
cho đề tài.
5.2. Phương pháp quan sát sư phạm
Để hoàn thành việc nghiên cứu, đề tài tiến hành quan sát các vấn đề sau:
- Quan sát thực trạng về việc giảng dạy của giáo viên.
- Quan sát việc học tập của sinh viên.
Thông qua đó nhằm tìm hiểu hiệu quả của việc nâng cao thể lực cho
đối tượng nghiên cứu.
5.3. Phương pháp phỏng vấn tọa đàm
Là phương pháp thu nhận thông tin thông qua hỏi – trả lời giữa người
nghiên cứu vối đối tượng nghiên cứu về vấn đề quan tâm. Đề tài sử dụng
phương pháp phỏng vấn gián tiếp và trực tiếp với đối tượng lựa chọn. Đối
tượng phỏng vấn là các chuyên gia trong lĩnh vực TDTM, các giáo viên
trực tiếp tham gia giảng dạy GDTC tại trường Đại học Tây Bắc, trường
Cao đẳng Sư phạm Sơn La và các sinh viên trong trường nhằm thu thập các
thông tin có liên quan đến đề tài, phát hiện thực trạng và nguyên nhân, từ
6
đó tìm ra các biện pháp nâng cao thể lực cho nữ sinh viên Trường Đại học

Tây Bắc.
5.4. Phương pháp kiểm tra y sinh
Đề tài sử dụng phương pháp này để kiểm tra mức độ phát triển thể
chất của học sinh qua từng năm bao gồm các chỉ số:
5.4.1. Chiều cao đứng (cm)
- Chiều cao đứng là một chỉ tiêu được sử dụng nhiều nhất trong quá
trình kiểm tra cơ bản về hình thái, sinh lí của cơ thể. Chỉ số này nói nên tầm
vóc của con người trong xã hội. Thông qua đó để đánh giá thể lực cũng như
mức độ phát triển thể chất của con người.
- Dụng cụ đo: Thước góc 90
o
, thước dây chính xác đến (cm).
- Phương pháp đo: Chiều cao đứng được tính từ mặt đất lên đỉnh đầu.
Thước dây được dán cố định vào tường theo chiều tăng dần từ mặt đất lên.
Người được đo đứng ở tư thế đứng nghiêm dựa tường sao cho gót chân,
mông, bả vai chạm tường. Người đo đứng bên phải người được đo, tay phải
cầm thước góc. Sống của thước góc đặt sát tường, cạnh còn lại chạm đỉnh
đầu của người được đo. Chiều cao được tính từ mặt đất đến góc vuông của
thước góc.
Trung bình trên thế giới chiều cao của con người nằm trong khoảng
135cm – 190cm
Các nhà nhân chủng học đã xếp loại chiều cao của con người nói
chung như sau:
+ Loại thấp: dưới 160cm
+ Loại trung bình: 160 - 170cm
+ Loại cao: trên 170cm
Tuy nhiên tầm vóc của người Việt Nam thuộc loại nhỏ nên khi nghiên cứu
về hình thái của người Việt Nam phải thấp hơn mức chung một bậc tức là:
+ Loại thấp: dưới 150cm
7

+ Loại trung bình: 150 - 160cm
+ Loại cao: trên 160cm
5.4.2. Cân nặng (kg)
Cân nặng cũng là một chỉ tiêu được sử dụng nhiều trong quá trình
kiểm tra cơ bản về hình thái, sinh lí của cơ thể. Cân nặng nói lên mức độ, tỉ
lệ hấp thụ và tiêu hao năng lượng. Cân nặng là một yếu tố góp phần nói lên
trình độ thể lực của người tập.
- Dụng cụ: Cân y học với độ chính xác tới 100g.
- Phương pháp đo: Người được đo ngồi trên ghế đối diện cân, đặt hai
chân lên trên cân và đứng thẳng lên. Người đo đọc số đo trên đồng hồ cố định.
5.4.3. Vòng bụng (cm)
Đo ở vị trí bé nhất của bụng.
5.4.4. Chỉ số Quetelet (kg/dm)
Chỉ số Quetelet không dùng hiệu số cao - nặng, mà dùng thương số
cân nặng (kg)/chiều cao (dm). Đây là tỉ lệ giữa cân nặng và chiều cao của
một người, nói một cách khác, chỉ số cho biết sức nặng của một đơn vị chiều
cao một đêximet (1dm) của một người, chỉ số này có ưu điểm là cho phép ta
so sánh được sức nặng tương đối của mọi người có chiều cao khác nhau.
5.4.5. Chỉ số BMI
Để giữ cho cân nặng tương xứng với chiều cao, tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
đã đưa ra công thức tính chỉ số khối cơ thể (Body mass Index- viết tắt BMI)
Gọi W là cân nặng, tính bằng kilogam (kg)
H là chiều cao, tính bằng mét (m) thì trung bình cân nặng sẽ theo công
thức sau:

2
W
BMI
H
=

Bình thường BMI từ
19 24,9−
ở nam giới,
18,5 23,8−
ở nữ giới.
8
Thông thường đối với các bạn trẻ, chỉ số BMI lí tưởng nhất là
18,5 20−
;
đối với phụ nữ trung niên và người lớn tuổi thì chỉ số BMI lí tưởng là
20 22−
.
5.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Để đánh giá thể lực của đối tượng nghiên cứu, đề tài sử dụng những
test sau:
5.5.1. Chạy con thoi 4 x 10m (s)
Dùng để đánh giá tố chất sức nhanh và khả năng phối hợp vận động.
Dụng cụ: Đồng hồ bấm giây Nhật Bản, sân có chiều dài 10m, khoảng
không hai đầu là 5m.
Thực hiện test: Người thực hiện đứng ở vạch xuất phát với tư thế xuất
phát cao, khi nghe lệnh xuất phát người thực hiện nhanh chóng rời vạch
xuất phát. Khi chạy đến vạch 10m, người thực hiện nhanh chóng với tay
xuống chạm vạch đích, rồi nhanh chóng quay trở lại vạch xuất phát. Khi
đến vạch xuất phát lại với tay xuống chạm vào vạch xuất phát thì quay lại
đích. Thực hiện lặp lại cho đến hết quãng đường, tổng số 2 vòng với 3 lần
quay. Chỉ cần chạy một lần.
5.5.2. Chạy 30m xuất phát cao (s)
Dùng để đánh giá tố chất sức nhanh và sức mạnh tốc độ.
Dụng cụ đo: Đồng hồ bấm giây Nhật Bản, đo chính xác tới 0,01 (s),
đường chạy có chiều dài thẳng ít nhất 50m, chiều rộng ít nhất 2m, sau đích

ít nhất có khoảng trống 10m để hoãn xung khi về đích. Kết quả được tính
bằng giây và chính xác đến 1/100 (s).
Người thực hiện đứng tại vạch xuất phát với tư thế xuất phát cao,
khi nghe lệnh xuất phát người thực hiện nhanh chóng rời vạch xuất phát,
dùng kĩ thuật chạy cụ li ngắn để chạy nhanh qua vạch đích. Đồng hồ bấm
chạy khi có lệnh xuất phát và bấm dừng khi người chạy chạm mặt phẳng
thẳng góc vạch đích.
5.5.3. Nằm ngửa gập bụng (lần)
9
Dùng để đánh giá sức mạnh cơ bụng. Kết quả được đánh giá bằng số
lần thực hiện trong 30 (s).
Thực hiện test: Người thực hiện ngồi trên sàn phẳng, chân co ở gối
90
o
, bàn chân áp sát mặt sàn, các ngón tay đan chéo vào nhau, lòng bàn tay
áp chặt sau đầu, khuỷu tay chạm gối. Người hỗ trợ giữ 2 bàn chân để người
thực hiện không rời hai bàn chân khỏi sàn. Khi có hiệu lệnh bắt đầu, người
thực hiện ngả người, lưng và bả vai chạm sàn, sau đó nhanh chóng gập
người về tư thế ngồi, hai khuỷu tay chạm đùi.
Kết quả được tính bằng số lần từ khi có hiệu lệnh bắt đầu đến khi kết
thúc 30 (s).
5.5.4. Bật xa tại chỗ (cm)
Dùng để đánh giá sức mạnh bột phát.
Được tiến hành ở hố nhảy xa.
Thực hiên test: Sinh viên đứng trên ván dậm nhảy, mặt hướng vào hố
nhảy, hai bàn chân song song với nhau, trọng tâm dồn đều vào hai chân,
ngón chân đặt sát mép vạch giới hạn, giơ tay lên cao, hạ thấp trọng tâm, gối
hơi khuỵu, gập chân, người hơi đổ về trước, đầu hơi cúi, hai tay hạ xuống
và ra sau, dùng hết sức và phối hợp toàn thân, bật nhảy xa ra trước, hai
chân tiếp đất cùng một lúc.

Kết quả đo: Thước để từ vạch giới hạn đến điểm chạm gần vạch giới
hạn nhất của hai gót chân. Chiều dài mỗi lần bật nhảy được tính bằng cm,
thực hiện ba lần, lấy kết quả cao nhất.
5.5.5. Chạy 5 phút tùy sức, tính quãng đường (m)
Để đánh giá sức bền chung (sức bền ưa khí)
Đường chạy dài ít nhất 50m, rộng ít nhất 2m, hai đầu kẻ hai vạch giới
hạn, có khoảng trống ít nhất 1m để chạy quay vòng. Giữa hai đầu đường
chạy đặt vật chuẩn để quay vòng trên đoạn đường 50m, đánh dấu từng đoạn
10m, để xác định phần lẻ quãng đường (±5m) sau khi hết thời gian chạy.
Dụng cụ: Đồng hồ bấm giây
10
Thực hiện test: Người được kiểm tra thực hiện theo khẩu lệnh: “Vào
chỗ – Sẵn sàng – Chạy”. Khi có lệnh chạy, người được kiểm tra chạy trong
ô chạy, hết quãng đường 50m, vòng bên trái qua vật chuẩn, chạy lặp lại
trong 5 phút. Nếu chạy từ từ những phút đầu, phân phối đều và tùy sức của
mình mà tăng tốc dần. Nếu mệt có thể chuyển thành đi bộ cho đến hết giờ.
Mỗi sinh viên có một số đeo ở ngực. Khi có lệnh dừng thì lập tức đứng
nguyên tại chỗ để người đo đánh dấu vị trí.
5.5.6. Nằm ngửa gập bụng co gối (lần)
Dùng để đánh giá sức mạnh cơ bụng. Kết quả được đánh giá bằng số
lần trong 30 (s).
Thực hiện test: Sinh viên ngồi trên sàn phẳng, sạch sẽ. Co gối 90
o
bàn
chân áp sát mặt sàn, các ngón tay đan chéo vào nhau, lòng bàn tay áp chặt
sau gáy, người hỗ trợ giữ hai bàn chân để người thực hiện không rời hai
bàn chân khỏi sàn khi có hiệu lệnh bắt đầu, sinh viên ngả người, lưng và bả
vai chạm sàn, sau đó nhanh chóng gập người về tư thế ngồi, hai khuỷu tay
chạm đùi.
Kết quả được tính bằng số lần từ khi có hiệu lệnh bắt đầu đến khi kết

thúc 30 (s).
5.6. Phương pháp toán học thống kê
Đề tài tiến hành sử dụng phương pháp này nhằm xử lí các số liệu thu
thập được trong quá trình nghiên cứu. Trong quá trình xử lí số liệu đề tài
tiến hành sử dụng các chỉ số
x
, ±δ, t với công thức sau:
Số trung bình cộng:
i
x
x (n 30)
n
= ≥

Phương sai:
i
2
(x x)
x (n 30)
n

δ = ≥

Độ lệch chuẩn:
2
i
2
x x
(x x)
x (n 30)

n

δ = δ = ≥

11
Hệ số biến sai:
v
C 100%
x
δ
=
So sánh hai số trung bình quan sát:
A B
2 2
A B
A B
x x
t (n 30)
n n

= ≥
δ δ
+
6. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Bài tập thể dục thẩm mỹ cho nữ sinh trường Đại học Tây Bắc.
6.2. Khách thể nghiên cứu
100 Nữ sinh năm thứ hai không chuyên ngành GDTC tại trường Đại
học Tây Bắc.
45 Cán bộ giáo viên đang trực tiếp giảng dạy GDTC tại trường Đại

học Tây Bắc và Cao đẳng Sư phạm Sơn La cùng các chuyên gia trong lĩnh
vực TDTM.
6.3. Thời gian nghiên cứu
- Giai đoạn 1: Từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 11 năm 2010
Đọc và tham khảo tài liệu, xác định tên đề tài, xây dựng đề cương,
báo cáo đề cương trước hội đồng khoa học.
- Giai đoạn 2: Từ tháng 11 năm 2010 đến tháng 6 năm 2011
Tiếp tục thu thập tài liệu, lựa chọn và ứng dụng hệ thống bài tập thể
dục thẩm mỹ vào giảng dạy, lấy số liệu và phân tích số liệu để giải quyết
các nhiệm vụ của đề tài.
- Giai đoạn 3: Từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 11 năm 2011
Hoàn thiện đề tài, báo cáo trước hội đồng khoa học của trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
- Địa điểm nghiên cứu:
Trường Đại học Tây Bắc
Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
12
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về thể chất và phát triển thể
chất trong các trường Đại học
Ngày nay việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện cả về “ Đức –
Trí – Thể – Mĩ – Lao động” được xem là quốc sách hàng đầu. Trong đó
vấn đề phát triển thể lực cũng là một trong những vấn đề đòi hỏi sự quan
tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước ta. Các quan điểm của Đảng về phát
triển TDTT là những định hướng cơ bản để xác định vị trí và mối quan hệ
của toàn bộ sự nghiệp TDTT đối với các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã
hội và các mối quan hệ nội tại của TDTT. Vì vậy đó chính là các cơ sở để
lựa chọn, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp TDTT trong một thời kỳ tương đối

dài. Công tác TDTT có hiệu quả tích cực trong việc nâng cao sức khoẻ của
nhân dân, góp phần làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần, xây dựng
lối sống lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Đảng ta luôn coi phát triển TDTT
là một bộ phận quan trọng thuộc chính sách xã hội. Các nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX và X của Đảng đã xác định
những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn để chỉ đạo công tác TDTT
trong sự nghiệp đổi mới đó là:
Một là, Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan
trọng của chính sách xã hội, một biện pháp tích cực để giữ gìn và nâng cao
sức khoẻ, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, góp
phần mở rộng giao lưu quốc tế, phục vụ tích cực các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, an ninh quốc phòng của đất nước.
Hai là, Phát triển TDTT phải đảm bảo tính dân tộc, tính khoa học và
nhân dân.
13
Ba là, Phát triển TDTT chú trọng tới đối tượng thanh thiếu niên,
củng cố phong trào TDTT trong các trường học. Kết hợp phát triển
phong trào TDTT quần chúng với xây dựng lực lượng vận động viên,
nâng cao thành tích các môn thể thao là phương châm quan trọng đảm
bảo cho TDTT phát triển nhanh và đúng hướng.
Bốn là, Thực hiện xã hội hoá tổ chức, quản lý TDTT, kết hợp chặt
chẽ sự quản lý của nhà nước, của các tổ chức xã hội.
Năm là, Kết hợp phát triển TDTT trong nước với mở rộng các quan
hệ quốc tế về TDTT.
Giáo dục thể chất là bộ phận hữu cơ trong mục tiêu giáo dục toàn diện
đối với lực lượng lao động tương lai của đất nước. Đó là lực lượng có tri
thức, sức khỏe để tham gia các hoạt động xã hội. Nhận thức được tầm quan
trọng của giáo dục thể chất, hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tại Chương 3, điều 35, 36, 41 Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “…
việc dạy và học TDTT trong trường học là bắt buộc…”. Giáo dục thể chất

trong nhà trường các cấp được hiểu là “quá trình sư phạm nhằm giáo dục,
đào tạo thế hệ trẻ hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng
làm việc và kéo dài tuổi thọ của con người”.
Trong đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã mở đầu cho công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước Về TDTT, nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
VI đã đề cập đến các vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng trong các lĩnh
vực: TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao. GDTC trong các trường học
và phát triển lực lượng VĐV trẻ. Nghị quyết cũng ghi rõ: “…Mở rộng và
nâng cao chất lượng, phong trào TDTT quần chúng, từng bước đưa rèn
luyện thân thể thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân ta, trước
hết là thế hệ trẻ nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học ”.
Trước yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nghị quyết TW4 khóa VII năm 1993 đã bàn chuyên đề về Giáo
14
dục - Đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu
chuẩn bị tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa Nghị quyết đã một lần nữa
nhấn mạnh sức khỏe thể chất và tinh thần được coi như vốn quý của con
người và xã hội. Chỉ thị 36/CT - TW ngày 24/3/1994 về công tác giáo dục
thể chất trong giai đoạn mới đã nêu rõ: “… cải tiến chương trình giảng dạy,
tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các
cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ bắt
buộc ở tất cả các trường học…” chỉ thị này của Ban Bí thư đã yêu cầu Bộ
Giáo dục - Đào tạo phối hợp với ngành TDTT tổng kết đánh giá công tác
GDTC để tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát
triển thể chất cho học sinh, sinh viên trong các trường học.
Văn kiện đại hội VIII của đảng đã chỉ rõ: “Phát triển phong trào
TDTT sâu rộng trong cả nước, trước hết là trong thanh thiếu niên, tạo
sự chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả của GDTC trong
trường học ”.
Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

hội nhập toàn diện về ngoại giao và kinh tế. Trong nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ IX và X đã khẳng định: “…Giáo dục và Đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu…”. Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.
Như vậy để nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường thể chất cho
nhân dân đáp ứng nhu cầu xã hội, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chính
sách, chủ chương để nâng cao chất lượng GDTC và phát triển TDTT sâu
rộng trong cả nước. Với lí do: Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của
bản thân con người, đồng thời là vốn quý tạo ra sản phẩm trí tuệ và vật chất
cho xã hội. Vì vậy, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của
toàn xã hội nói chung và của ngành TDTT nói riêng. Đó là mục tiêu cơ
bản, quan trọng nhất của nền TDTT nước ta.
15
1.2. Vị trí, vai trò của GDTC trong giáo dục Đại học
* Khái niệm GDTC:
GDTC là một bộ phận của TDTT (văn hóa thể chất); hay nói một
cách chính xác hơn đó là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có
định hướng rõ của TDTT trong xã hội. Do vậy, GDTC đã trở thành một
trong những vấn đề quan trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nhằm
đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có tri thức, có đạo đức và hoàn
thiện về thể chất.
Với tầm quan trọng như vậy, để đi tới một khái niệm thống nhất của
GDTC thì các nhà lí luận TDTT đã có rất nhiều cách phân tích GDTC dưới
nhiều góc độ khoa học khác nhau:
Như: GDTC là một loại hình giáo dục nên nó là một quá trình giáo
dục có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo từ thế hệ này cho thế hệ khác.
Hay: GDTC cũng như các loại hình giáo dục khác, nó là một quá trình
sư phạm có đầy đủ các đặc điểm của của nó như: vai trò chủ đạo của nhà sư
phạm, tổ chức hoạt động của các nhà sư phạn phù hợp với học sinh, phù

hợp với nguyên tắc sư phạm.
Hoặc: GDTC là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có định
hướng rõ ràng của TDTT trong hệ thống giáo dục, giáo dưỡng chung.
Cũng có khi thì: GDTC là dòng kênh để chuyển giao những giá trị văn
hóa thể chất của thế hệ này cho thế hệ khác, đồng thời đó cũng là một trong
những con đường làm tăng thêm giá trị văn hóa thể chất, vì rằng thế hệ trẻ
không tiếp thu một cách đơn giản, thụ động những gì đã có trước đó, mà
khi đã tiếp thu chúng họ sẽ phát triển lên và tiến tới những thành tựu mới.
Hay như về mặt luật pháp thì lại khẳng định GDTC là hiện tượng sư
phạm của TDTT và là nội dung bắt buộc đối với học sinh, sinh viên được
thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân từ Mầm non đến Đại học.
16
Và: GDTC là một quá trình sư phạm nhằm bảo vệ, nâng cao sức khỏe,
hoàn thiện thể chất, rèn luyện tính tích cực xã hội và nhân cách cho thế hệ
trẻ. GDTC như một phạm trù vĩnh cửu, nó ra đời từ khi xuất hiện loài
người và sẽ tồn tại tiếp tục như một trong những điều kiện cần thiết của nền
sản xuất xã hội.
Tóm lại các mảng phân tích từ các khía cạnh khác nhau trên thì vẫn
đều đi đến một mặt quy ước chung thống nhất trong GDTC đó là:
GDTC là một loại hình giáo dục mà một nội dung chuyên biệt là dạy
học vận động (giáo dưỡng thể chất) và phát triển có chủ định các tố chất
thể lực (giáo dục các tố chất thể lực) của con người.
Giáo dục thể chất đối với học sinh, sinh viên trong các trường Đại
học, Cao đẳng bao giờ cũng là mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà
nước ta. Bộ giáo dục và Đào tạo đã đặt vấn đề giáo dục thể chất là một mặt
không thể thiếu trong chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ
quản lí về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng để phục vụ nhiệm vụ chính
trị, phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nhằm thực hiện mục tiêu nêu
trên Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức triển khai các quy hoạch, kế hoạch
để đảm bảo các trường học có chương trình giảng dạy thống nhất, có đội

ngũ cán bộ giảng viên, giáo viên được đào tạo chuyên ngành, có cơ sở vật
chất sân bãi phục vụ việc học TDTT và thi đấu thể thao không chỉ trong hệ
thống toàn quốc mà còn tham gia thi đấu quốc tế góp phần nâng cao tính
đoàn kết, hợp tác hữu nghị, hòa bình với sinh viên quốc tế.
Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác là quá trình sư
phạm với đầy đủ đặc điểm của nguyên tắc sư phạm, có vai trò chủ đạo tổ
chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh. Giáo dục thể chất là
một loại hình của giáo dục nên nó là một quá trình giáo dục có tổ chức, có
mục đích, có kế hoạch để truyền thụ những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo… về
thể dục thể thao từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục thể chất bao gồm
17
hai mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo dục kĩ năng, kĩ xảo) và
giáo dục tố chất thể lực.
Giáo dục thể chất là lĩnh vực TDTT xã hội với nhiệm vụ là: Phát triển
toàn diện các tố chất thể lực, trên cơ sở đó phát triển các năng lực hoạt
động, hoàn thiện cấu trúc hình thể.
Chương trình GDTC trong các trường Đại học và Cao đẳng được Bộ
Giáo dục và Đào tạo xác định với các nhiệm vụ cơ bản như sau:
+ Giáo dục đạo đức Xã hội chủ nghĩa rèn luyện tinh thần tập thể, ý
thức tổ chức kỷ luật, xây dựng niềm tin, lối sống lành mạnh tích cực, tinh
thần tự giác tích cực học tập và rèn luyện thể lực, chuẩn bị thể lực, sẵn sàng
phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ quốc.
+ Cung cấp cho sinh viên kiến thức lí luận cơ bản về nội dung và
phương pháp luyện tập TDTT kĩ năng vận động và kĩ thuật cơ bản một số
môn thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó bồi dưỡng khả năng sử dụng các
phương tiện nói trên để tự rèn luyện thể lực, tham gia tích cực vào việc
tuyên truyền và tổ chức các hoạt động TDTT ở cơ sở.
+ Góp phần duy trì và củng cố sức khoẻ của sinh viên, phát triển cơ
thể một các hài hòa cân đối, xây dựng thói quen sống lành mạnh và khắc
phục những thói quen xấu trong cuộc sống, nhằm đạt hiệu quả tốt trong

quá trình học tập và đạt chỉ tiêu thể lực quy định cho từng đối tượng và
năm học.
+ Giáo dục tinh thần thẩm mỹ cho sinh viên, tạo điều kiện nâng cao
trình độ thể thao cho VĐV và sinh viên.
1.3. Khái quát về các bài tập thể dục thẩm mỹ (TDTM)
1.3.1. Khái niệm TDTM
TDTM là các bài tập thể dục được chọn lọc, sáng tạo và phân định
mức độ tập luyện và thực hiện kết hợp với âm nhạc trong một chế độ nhất
định, nhằm phát triển sức chịu đựng của người tập, ảnh hưởng tích cực đến
18
sự phát triển hình thể tạo vóc dáng hài hòa, cân đối, năng lực vận động, tính
nhịp điệu, óc thẩm mĩ…
TDTM là thể dục làm đẹp, TDTM thông qua hệ thống bài tập được
lựa chọn theo chủ đích giúp cho người tập có thân hình gọn gàng, cân đối
nâng cao thể lực. Tập TDTM làm con người trở nên năng động, sáng tạo,
yêu đời hơn đồng thời là phương pháp giảm cân đối với người béo, săn
chắc với người khỏe mạnh.
1.3.2. Đặc điểm và nguyên tắc biên soạn bài tập TDTM
1.3.2.1. Những đặc điểm của bài tập TDTM
TDTM là hệ thống các bài tập được soạn thảo trên nền âm nhạc có
thiên hướng vũ đạo và hiện đại hóa trong việc thực hiện bài tập. Dạng bài
tập này cần phải được thực hiện bằng phương pháp nguyên vẹn, nghĩa là
khi thực hiện bài tập giữa các động tác phải liên tục không có sự phân
đoạn. Người hướng dẫn trong quá trình giảng dạy cần cố gắng sử dụng ít
nhất lời giải thích để tăng hiệu quả của bài tập.
1.3.2.2. Nguyên tắc biên soạn bài tập TDTM
Khi biên soạn bài tập TDTM cần phải tuân theo các nguyên tắc cơ
bản sau:
- Bài tập phải có nhạc, âm nhạc phải phù hợp với nội dung tập luyện.
- Bài tập phải phù hợp với giới tính, lứa tuổi, ngành nghề.

- Bài tập phải có tác dụng tốt với từng nhóm cơ, đặc biệt là những
nhóm cơ nhỏ.
- Thời gian của bài tập phải phù hợp với đối tượng tập luyện.
1.3.2.3. Phương pháp biên soạn bài tập TDTM
Như chúng ta đã biết các động tác được lựa chọn đưa vào bài tập
TDTM rất phong phú và đa dạng, do vậy khi soạn thảo giáo án phải xác
định mục đích cần phát triển của đối tượng tập luyện.
19
VD: - Phát triển tố chất thể lực
- Tăng cường sức khỏe
- Hoàn thiện khả năng phối hợp vận động
- Sửa chữa tư thế cơ bản

Để hình thành các bài tập cần hướng vào giải quyết các nghiệm vụ
cụ thể.
Quá trình hình thành các bài tập bao gồm 6 bước:
Bước 1: Xác định số lượng động tác
Bước 2: Xác định chuỗi, nhóm động tác trong từng bài tập
Bước 3: Chọn giảng dạy chi tiết trong mỗi nhóm bài tập, mà
phải tính cho liên kết giữa các động tác phải thật hợp lý, các động tác
phải từ dễ đến khó.
Bước 4: Soạn thảo âm nhạc
Bước 5: Xét nghiệm và hiệu chỉnh
Bước 6: Ghi nhớ các động tác trong bài tập
1.4. TDTT đối với phụ nữ
Được khỏe mạnh là điều mong muốn tự nhiên của mọi người nói
chung và của phụ nữ nói riêng. Đối với phụ nữ khỏe mạnh không chỉ đơn
thuần là không có bệnh tật mà còn là sự cân bằng về mặt tâm lí, thể lực và
xã hội. Sự hài hòa về tâm lí và thể lực làm tăng khả năng tiềm tàng của sức
khỏe tạo điều kiện sáng tạo trong cuộc sống, người phụ nữ khỏe mạnh trở

nên năng động hơn, đồng thời luôn thấy mình trẻ trung và mong muốn
vươn tới cái đẹp cả về diện mạo lẫn tâm hồn. Trong xã hội, người phụ nữ là
một nửa của xã hội, trong mỗi gia đình với chức năng làm mẹ, làm vợ,làm
cô giáo và làm bạn của con cái. Trong xã hội văn minh, người phụ nữ bình
đẳng với nam giới, đó là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, giải
20

×