Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

luận văn thạc sĩ thương mại QUẢN LÝ CỦA TỔNG CỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI MỨC ĐỘ TUÂN THỦ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 123 trang )

1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu trong Luận văn này là chính xác và có nguồn gốc rõ ràng.
Bản luận văn “QUẢN LÝ CỦA TỔNG CỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI MỨC
ĐỘ TUÂN THỦ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU,
NHẬP KHẨU” là đề tài nghiên cứu của bản thân, chưa được ai công bố trong bất kì
công trình nào khác.
Học viên
Phạm Thanh Hương
1
1
2
MỤC LỤC
2
2
3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
STT Ký hiệu Tên sơ đồ, bảng biểu
Tran
g
1 Hình 1.1 Kim tự tháp tuân thủ 15
2 Biểu 2.1
Tình hình vi phạm pháp luật Hải quan
giai đoạn 2006-2013
38
3 Biểu 2.2
Cơ cấu vi phạm theo tuyến địa bàn
hoạt động hải quan
49
4 Bảng 2.1
Số liệu vụ việc vi phạm theo tuyến địa bàn


hoạt động hải quan giai đoạn 2006-2013
48
5 Bảng 3.1
Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam
giai đoạn 2006-2013
67
3
3
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
CHỮ VIẾT
TẮT
Ý NGHĨA
1 AAT Công cụ hoạt động tài chính
2 BL Buôn lậu
3 BOT Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao
4 BT Xây dựng – Chuyển giao
5 BTO Xây dựng – Chuyển giao – Vận hành
6 CAPPS Hệ thống hồ sơ cảng tự động hóa Hải quan
7 CFS Địa điểm thu gom hàng lẻ
9 CIS Hệ thống thông tin tình báo
10 CNTT Công nghệ thông tin
11 CP Cổ phần
12 CQHQ Cơ quan Hải quan
13 GLTM Gian lận thương mại
14 ICMP Chương trình theo dõi tuân thủ nhà nhập khẩu
15 KTSTQ Kiểm tra sau thông quan
16 NACCS Hệ thống thông quan
17 NC Nhập cảnh

18 NK Nhập khẩu
19 PLHQ Pháp luật Hải quan
20 QLRR Quản lý rủi ro
21 TAP Chương trình lựa chọn mang tính phân tích
22 TK Tờ khai
23 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
4
4
5
24 TT&TKHQ Thông tin và thống kê Hải quan
25 TTHQ Thủ tục hải quan
26 WCO Tổ chức Hải quan thế giới
27 XC Xuất cảnh
28 XK Xuất khẩu
29 XNC Xuất nhập cảnh
30 XNK Xuất nhập khẩu
5
5
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết
Những năm qua mặc dù kinh tế, tài chính thế giới đang trong tình trạng
khủng hoảng, chì trệ nghiêm trọng, nhưng với đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta, nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục được duy trì phát triển ở
mức từ 5 – 6%, lạm phát được kiểm soát, bình ổn.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, trong những năm qua, cộng đồng doanh
nghiệp ở Việt Nam đã có những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Năm
2001, số lượng doanh nghiệp đăng ký chính thức hoạt động theo Luật doanh nghiệp
ở nước ta có khoảng 50.000, thì đến năm 2010, số lượng doanh nghiệp đã tăng lên
gấp hơn hai lần, trên 100.000. Cùng với đó, trên toàn quốc hiện có trên 2600 văn
phòng đại điện và chi nhánh các doanh nghiệp nước ngoài; hàng ngàn tổ chức khoa

học kỹ thuật và trên 1 triệu hộ gia đình kinh doanh cá thể, trang trại.
Trên lĩnh vực hoạt động XK, NK, theo số liệu của ngành Hải quan, năm 2002
cả nước có 15.486 doanh nghiệp tham gia hoạt động XK, NK, năm 2012 số lượng
doanh nghiệp tham gia hoạt động này là 48.678, tăng gấp hơn 3 lần so với năm
2002, riêng năm 2013, số lượng doanh nghiệp hoạt động đã tăng hơn nữa với
50.686 (số liệu tính đến tháng 10/2013).
Doanh nghiệp hoạt động XK, NK là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
môi trường hoạt động hải quan. Trong quá trình tham gia vào hoạt động XK, NK,
đa phần doanh nghiệp tuân thủ tốt PLHQ, tuy vậy, vẫn còn một bộ phận doanh
nghiệp, do những lệch lạc trong cách thức đạt đến lợi ích kinh tế hoặc giành lợi thế
trong việc cạnh tranh đã lợi dụng những kẽ hở trong hệ thống pháp luật về hải quan,
trong thực thi quản lý nhà nước về hải quan để thực hiện các hành vi buôn lậu, vận
chuyển hàng cấm, trốn thuế, buôn bán, vận chuyển ma túy, hàng giả, vi phạm sở
hữu trí tuệ… Những hành vi này đã làm phương hại đến đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước về hải quan. Theo số liệu thống kê của ngành Hải
quan, trong năm 2013 (tính đến tháng 10/2013), cả nước có gần 4.000 doanh nghiệp
vi phạm pháp luật hải quan (chiếm gần 8% trên tổng số 50.686 doanh nghiệp hoạt
động XNK), với tổng số 8.501 vụ, xử phạt và thu nộp ngân sách trên 361 tỷ đồng.
Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu quản lý hải quan, quản lý thuế đối với hàng
hóa XK, NK, thời gian qua TCHQ cũng như toàn ngành đã thực hiện quản lý mức
độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp trong hoạt động XK, NK theo các phương
pháp khá đa dạng, như: đánh giá doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan, chấp
hành tốt pháp luật thuế, đánh giá rủi ro doanh nghiệp, đánh giá công nhận doanh
nghiệp ưu tiên… Trong tiến trình cải cách hiện đại hóa hải quan, nhằm đạt tới
phương thức quản lý hải quan hiện đại dựa trên nền tảng áp dụng quản lí rủi ro và tự
động hóa, thì việc quản lí mức độ tuân thủ của doanh nghiệp hoạt động XK, NK ngày
càng trở lên quan trọng và có tính xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động nghiệp vụ của
ngành Hải quan.
Tuy vậy, từ thực tiễn công tác quản lý của TCHQ cho thấy công tác quản lí
mức độ tuân doanh nghiệp vẫn còn là một lĩnh vực khá mới cả về lý luận cũng như

kinh nghiệm thực tiễn. Việc tổ chức quản lý này còn ở mức độ đơn giản, thiếu tính
đồng bộ và thống nhất, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu quản lý của ngành Hải quan.
Xuất phát từ những trình bày ở trên, cho thấy rằng việc lựa chọn vấn đề “Quản lí
của Tổng cục Hải quan đối với mức độ tuân thủ của doanh nghiệp trong hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu” làm đề tài luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài làm rõ nhận thức lý luận về quản lí đối với mức độ tuân thủ doanh
nghiệp trong hoạt động XK, NK và thực trạng công tác quản lí đối với mức độ tuân
thủ doanh nghiệp hoạt động XK, NK tại TCHQ hiện nay; đưa ra dự báo các yếu
tố tác động có liên quan, qua đó xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng
công tác này.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu, phân tích các vấn
đề lý luận, thực tiễn về công tác quản lí mức độ tuân thủ doanh nghiệp hoạt động
XK, NK; khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lí mức độ tuân thủ doanh
nghiệp hoạt động XK, NK tại TCHQ; nghiên cứu dự báo và xây dựng giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này.
4. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lí luận và thực tiễn của doanh nghiệp hoạt động XK, NK và
công tác quản lí của Tổng cục Hải quan đối với mức độ tuân thủ đối với doanh
nghiệp hoạt động XK, NK; thời gian từ năm 2006 đến tháng 6/2013.
5.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp nghiên
cứu dữ liệu thứ cấp (với nguồn dữ liệu, thông tin được tác giả thu thập từ số liệu
thống kê của các cơ quan quản lí, website, tạp chí…); phương pháp tổng hợp các
phân tích; phương pháp kết hợp nghiên cứu lí luận với khảo sát thực tiễn, phương
pháo thống kê so sánh; lấy ý kiến chuyên gia và các phương pháp khác.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được bố cục gồm 03 Chương:

+ Chương 1. Tổng quan quản lí nhà nước về hải quan đối với mức độ tuân
thủ của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Chương 2. Thực trạng công tác quản lí của Tổng cục Hải quan đối với
mức độ tuân thủ doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
+ Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lí của Tổng
cục Hải quan đối với mức độ tuân thủ doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HẢI QUAN
ĐỐI VỚI MỨC ĐỘ TUÂN THỦ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
1.1 Một số lý luận cơ bản về quản lý nhà nước về kinh tế
1.1.1 Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh
tế thị trường có điều tiết - nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là, nền kinh tế nước ta chịu sự
điều tiết của thị trường và chịu sự điều tiết của nhà nước (sự quản lý của Nhà nước).
Do vậy, có thể hiểu “Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là sự tác động
có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể
có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện
hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế”. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản
lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội.
Quản lý Nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và
quản lý kinh tế của Nhà nước.
1.1.2 Công cụ và phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế
1.1.2.1 Công cụ quản lý nhà nước về kinh tế
Công cụ quản lý nói chung là tất cả các phương tiện mà chủ thể quản lý sử
dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Chính nhờ
các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn các quyết định quản lý mà Nhà

nước truyền tải được ý định của mình lên mọi tổ chức và cá nhân tham gia vào các
hoạt động kinh tế. Các công cụ chủ yếu mà Nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế bao
gồm: hệ thống pháp luật, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế và tài sản quốc gia.
- Hệ thống pháp luật
Pháp luật thường được hiểu là hệ thống các quy tắc ứng xử có tính chất bắt
buộc chung do Nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm bảo toàn và phát triển xã
hội theo các định hướng đã định.
Hệ thống văn bản pháp luật trong QLNN về kinh tế bao gồm những văn bản
pháp luật do cơ quan QLNN về kinh tế ban hành và các văn bản pháp luật do cơ
quan quyền lực và các cơ quan nhà nước khác ban hành. Trong thực tế, có hai loại
văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động QLNN về kinh tế là văn bản quy phạm pháp
luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Hai loại này gồm: luật, pháp lệnh,
nghị định, quyết định, nghị quyết, thông tư, chỉ thị…được ban hành bởi cơ quan nhà
nước trung ương và địa phương.
- Kế hoạch hóa
Kế hoạch theo nghĩa hẹp là phương án hành động trong tương lai; theo nghĩa
rộng là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực
hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch với tính cách là một công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bản thân là một hệ thống bao gồm nhiều nội
dung hoạt động. Kế hoạch QLNN về kinh tế bao gồm: chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch trung hạn (kế hoạch 3 năm,
kế hoạch 5 năm), kế hoạch hàng năm, chương trình, dự án, ngân sách…
- Chính sách
Chính sách là một trong những công cụ của Nhà nước sử dụng để quản lý
nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách cụ thể là một tập các giải pháp nhất định để
thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của kinh
tế - xã hội. Chính sách là một hệ thống phức tạp nhiều loại, theo lĩnh vực hoạt động,
có thể phân thành hai nhóm:
+ Các chính sách kinh tế chủ yếu là: Chính sách cơ cấu kinh tế; Chính sách
tài chính; Chính sách tiền tệ; Chính sách giá cả; Chính sách kinh tế đối ngoại;…

+ Các chính sách xã hội (hoặc các chính sách phi kinh tế) chủ yếu là: Chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Chính sách lao động và việc làm; Chính sách
giáo dục; Chính sách văn hóa; Chính sách khoa học và công nghệ;…
- Tài sản quốc gia
Tài sản quốc gia theo nghĩa rộng bao gồm tất cả mọi nguồn lực của đất nước,
theo nghĩa hẹp ở đây là nguồn vốn và các phương tiện vật chất - kỹ thuật mà Nhà
nước có thể sử dụng để tiến hành quản lý kinh tế quốc dân.
Tài sản quốc gia bao gồm: công sở, ngân sách nhà nước, tài nguyên thiên
nhiên, công khố (kho bạc Nhà nước), kết cấu hạ tầng, doanh nghiệp nhà nước, hệ
thống thông tin nhà nước.
1.1.2.2 Phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế
Phương pháp QLNN về kinh tế là tổng thể những cách thức tác động có chủ
đích và có thể có của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân và các bộ phận hợp thành
của nó để thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân (tăng trưởng kinh tế, ổn
định kinh tế và công bằng kinh tế).
Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước về kinh tế bao gồm:
- Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính trong QLNN về kinh tế là cách thức tác động trực
tiếp của Nhà nước thông qua các quyết định dứt khoát có tính bắt buộc lên đối
tượng QLNN về kinh tế, nhằm thực hiện các mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô trong
những tình huống nhất định.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính là tính bắt buộc, tính quyền
lực. Tính bắt buộc đòi hỏi các đối tượng quản lý phải chấp nhận nghiêm chỉnh các
tác động hành chính, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời thích đáng. Tính quyền lực
đòi hỏi các cơ quan QLNN chỉ được phép đưa ra các tác động hành chính đúng với
thẩm quyền của mình.
- Phương pháp kinh tế
Phương pháp kinh tế trong QLNN về kinh tế là cách thức tác động gián tiếp
của Nhà nước, dựa trên những lợi ích kinh tế có tính hướng dẫn lên đối tượng
QLNN về kinh tế, nhằm làm cho họ quan tâm tới hiệu quả cuối cùng của sự hoạt

động, từ đó mà tự giác, chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không cần
phải có sự tác động thường xuyên của Nhà nước bằng phương pháp hành chính.
Đặc điểm của phương pháp kinh tế là tác động lên đối tượng quản lý không
bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu nhiệm vụ phải
đặt ra, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất
có thể sử dụng để họ tự tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
- Phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục trong QLNN về kinh tế là cách thức tác động của Nhà
nước vào nhận thức và tình cảm của những con người thuộc đối tượng QLNN về
kinh tế, nhằm nâng cao tính tự giác, tính tích cực và nhiệt tình lao động của họ
trong việc thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc
trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho người lao động phân
biệt phải – trái, đúng – sai, thiện – ác, từ đó nâng cao ý thức tự giác làm việc và gắn
bó với doanh nghiệp.
1.2 Tổng quan về quản lý nhà nước về hải quan đối với mức độ tuân thủ của
doanh nghiệp trong hoạt động XK, NK
1.2.1 Tổng quan về doanh nghiệp hoạt động XK, NK
1.2.1.1 Tiếp cận chung về doanh nghiệp và doanh nghiệp hoạt động XK, NK
Doanh nghiệp là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong hệ thống các văn
bản pháp luật của Nhà nước cũng như trong hoạt động kinh tế, đời sống, xã hội. Tuy
nhiên dưới góc độ học thuật, khái niệm doanh nghiệp được tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau và có nhiều cách diễn đạt khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt, doanh nghiệp được giải thích là: “Tổ chức hoạt
động kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân, nhằm mục đích kiếm
lời ở một hoặc nhiều ngành”
1
. Luật doanh nghiệp cũng đưa ra khái niệm về doanh
nghiệp “là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt

động kinh doanh”
2
. Từ các định nghĩa trên có thể rút ra những dấu hiệu đặc trưng
của doanh nghiệp:
Thứ nhất, là đơn vị kinh tế cơ sở: doanh nghiệp phải là một thể nhân hoặc
pháp nhân có tư cách pháp lý độc lập, có các quyền và nghĩa vụ độc lập, có năng lực
pháp lý và năng lực hành vi tham gia các hoạt động kinh tế và pháp lý liên quan. Tiêu
1 Đai từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin năm 1999, tr 543.
2 Luật doanh nghiệp, NXB Chính trị quốc gia năm 2002, tr 8.
chí này giúp cho việc phân biệt doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước, các
tổ chức sự nghiệp, các đơn vị kinh tế phục thuộc của bản thân doanh nghiệp.
Thứ hai, tính hợp pháp của doanh nghiệp: doanh nghiệp phải được đăng ký
chính thức, được phép hoạt động và tiến hành các hoạt động theo chế độ và thủ tục
pháp lý của một quốc gia cụ thể.
Thứ ba, tính mục đích của doanh nghiệp: là thu lợi nhuận tối đa (đối với các
doanh nghiệp kinh doanh) hoặc đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất (đối với một
số doanh nghiệp đặc biệt dạng công ích hoặc dạng đặc thù do Chính phủ chỉ định).
Tiêu chí này giúp cho việc phân biệt doanh nghiệp với các tổ chức phi lợi nhuận.
Như vậy, theo nghĩa rộng, doanh nghiệp bao gồm tất cả các cơ sở sản xuất –
kinh doanh từ các tổng công ty quốc gia, các tập đoàn xuyên quốc gia đến các hộ
gia đình kinh doanh cá thể hoặc thậm chí cả những cá nhân đăng ký kinh doanh
riêng lẻ. Tuy vậy, khi xem xét ở từng khu vực, lĩnh vực quản lý, doanh nghiệp chỉ
bao gồm các cơ sở thuộc khu vực chính thức (có đăng ký tư cách theo Luật doanh
nghiệp và các pháp luật kinh doanh hiện hành). Việc nhìn nhận doanh nghiệp theo
các nghĩa rộng, hẹp khác nhau có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoạch định và
thực hiện các chế độ quản lý của nhà nước với các cơ sở kinh tế.
Phân tích ở trên đã làm rõ những nhận thức cơ bản về doanh nghiệp nói
chung, trong đó bao gồm các doanh nghiệp tham gia hoạt động XK, NK hàng hóa.
Các doanh nghiệp này được thành lập theo các quy định của pháp luật, có đăng ký
ngành nghề kinh doanh XNK và thực hiện hoạt động XK, NK hàng hóa. Như vậy

có thể rút ta định nghĩa về doanh nghiệp hoạt động XK, NK: là doanh nghiệp được
thành lập và hoạt động theo các quy định của pháp luật, đáp ứng các điều kiện hoạt
động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu và có tham gia vào hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa.
Hoạt động XK, NK hàng hóa, theo Luật Thương mại quy định: “Xuất khẩu
hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu
đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ
Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được
coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”
3
. Theo Luật hải quan,
hoạt động XK, NK hàng hóa được phân chia thành 12 loại hình cụ thể (quy định từ
Điều 33 đến Điều 44 Luật hải quan). Đồng thời, để phù hợp với thực tế hoạt động
XK, NK, các văn bản quy định, hướng dẫn Luật hải quan đã phát triển thêm nhiều
loại hình XK, NK khác nhau phù hợp với thực tế đặc thù của từng hoạt động này,
như: XK, NK tại chỗ; tạm nhập – tái xuất xăng dầu; XK, NK khu kinh tế cửa khẩu
Ngoài ra, trong hoạt động XK, NK hàng hóa còn phân chia làm hai loại, đó
là: kinh doanh xuất, nhập khẩu hàng hóa theo hợp đồng thương mại (mậu dịch) và
các hoạt động XK, NK không có hợp đồng thương mại (phi mậu dịch), như: hàng
XK, NK để phục vụ triển lãm, hàng quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân Việc
quản lý hoạt động XK, NK hàng hóa này đang được thực hiện theo các chế độ chính
sách riêng đối với từng loại hình hoạt động.
1.2.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp hoạt động XK, NK
- Đặc điểm về điều kiện và các chế độ chính sách quy định đối với doanh
nghiệp hoạt động XK, NK
Pháp luật hải quan hiện nay không giới hạn doanh nghiệp hoạt động XK,
NK; mọi doanh nghiệp thành lập theo quy định của pháp luật đều được tham gia
hoạt động XK, NK hàng hóa. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu quản lý doanh nghiệp
cũng như việc quản lý chế độ chính sách hải quan, chính sách thuế đối với hàng hóa

XK, NK, đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng những điều kiện nhất định mới được
tham gia đầy đủ vào các lĩnh vực hoạt động XK, NK. Một số quy định cụ thể như:
Một là, doanh nghiệp khi tham gia hoạt động XK, NK thương mại phải đăng
ký mã số thuế của Sở kế hoạch đầu tư thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố. Mã
số thuế của doanh nghiệp được áp dụng thống nhất trong các cơ quan quản lý nhà
nước, đặc biệt là cơ quan thuế và cơ quan hải quan.
Hai là, theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp phải có những điều kiện
nhất định mới được tham gia hoạt động trong một số lĩnh vực, ngành hàng hoặc loại
hình xuất khẩu, nhập khẩu cụ thể, ví dụ như: kinh doanh cửa hàng miễn thuế; kinh
3 Luật thương mại năm 2005 – NXB Lao động – xã hội năm 2007, tr 21
doanh kho ngoại quan, kho bảo thuế; hoặc kinh doanh một số mặt hàng đặc thù như
xăng, dầu, vàng, kim loại quý, đá quý
Ba là, trên lĩnh vực hoạt động XK, NK, để đáp ứng yêu cầu quản lý, thúc đẩy
hoạt động kinh tế, thương mại phát triển, Nhà nước áp dụng các chế độ chính sách
ưu tiên hoặc cưỡng chế đối với doanh nghiệp tham gia hoạt động XK, NK trong các
trường hợp cụ thể.
- Đặc điểm về hoạt động của các doanh nghiệp XK, NK
Hoạt động của các doanh nghiệp XK, NK chịu sự tác động của các chính
sách nhà nước, trong đó, có một số loại hàng hóa được khuyến khích NK hoặc XK,
ngược lại một số hàng hóa khác lại bị cấm NK hoặc XK hoặc bị quản lý bằng các
chính sách thuế, hạn ngạch, giấy phép, chính sách quản lý tỷ giá… và danh mục
hàng hóa này thay đổi theo từng thời kỳ phát triển, tùy thuộc vào mục tiêu phát triển
của thời kỳ đó.
Thị trường của hoạt động của các doanh nghiệp XK, NK bao gồm thị trường
trong nước và thị trường quốc tế. Thị trường quốc tế đóng vai trò thị trường đầu vào
của doanh nghiệp là đầu mối cung cấp hàng hóa cho toàn bộ hoạt động kinh doanh
nhập khẩu, còn thị trường trong nước với vai trò thị trường đầu ra là nơi tiêu thụ sản
phẩm nhập khẩu. Ngược lại, thị trường trong nước đóng vai trò là thị trường cung
cấp hàng hóa cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu và thị trường quốc tế đóng vai trò
là thị trường đầu ra nơi tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu. Sản phẩm XK cũng như NK

phải đảm bảo yêu cầu của cả hai khu vực thị trường trên về mặt giá cả, chất lượng,
mẫu mã sản phẩm….
Các doanh nghiệp XK, NK thực hiện thanh toán bằng đồng ngoại tệ, cũng vì
vậy mà khả năng rủi ro lớn hơn so với các doanh nghiệp kinh doanh trong nước.
Đặc điểm này đỏi hỏi các doanh nghiệp XK, NK tùy điều kiện phải lựa chọn đồng
tiền thanh toán, các hình thức thanh toán bảo vệ quyền lợi của mình.
- Đặc điểm về mối quan hệ tương tác đối với doanh nghiệp XK, NK trong
môi trường kinh doanh
Xuất nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia
khác nhau, chính vì vậy các hoạt động của các doanh nghiệp XK, NK rất phong
phú, thường xuyên bị chi phối bới các yếu tố như chính sách, luật pháp, văn hóa,
chính trị…của các quốc gia khác nhau.
1.2.1.3 Phân loại doanh nghiệp hoạt động XK, NK
Doanh nghiệp hoạt động XK, NK được chia thành ba loại chủ yếu:
Một là, doanh nghiệp là chủ sở hữu của hàng hóa XK, NK: trong trường hợp
này, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động XK, NK có thể với tư cách vừa là chủ
hàng hóa vừa trực tiếp tham gia vào quá trình làm thủ tục hải quan hoặc thuê đại lý,
người ủy thác thực hiện một số khâu hoặc toàn bộ quá trình làm thủ tục hải quan.
Hai là, doanh nghiệp làm đại lý làm thủ tục hải quan: theo quy định của Luật
hải quan, “Người đại lý làm thủ tục hải quan là người khai hải quan theo uỷ quyền
của người có quyền và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu”
4
. Điều 1 Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2012 đã
giải thích rõ hơn về đại lý hải quan “là thương nhân thay mặt người có hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu (sau đây gọi chung là chủ hàng) thực hiện trách nhiệm của
người khai hải quan theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Hải quan và thực hiện
các công việc khác về thủ tục hải quan theo thỏa thuận trong hợp đồng”
5
.

Ba là, doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng hóa, kinh doanh kho bãi, cảng,
lưu giữ hàng hóa, như: xí nghiệp kinh doanh cảng, kho CFS, doanh nghiệp kinh
doanh kho ngoại quan, doanh nghiệp kinh doanh kho bảo thuế, doanh nghiệp kinh
doanh cửa hàng miễn thuế Cho đến nay, Luật hải quan mới chỉ quy định đối tượng
áp dụng của Luật này bao gồm: “Tổ chức, cá nhân thực hiện XK, NK, QC hàng
hóa, XC, NC, QC phương tiện vận tải”
6
mà chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm
của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng hóa.
4 Luật hải quan năm 2005, NXB Chính trị quốc gia năm 2005, tr 54
5 Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2012 quy định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm
thủ tục hải quan, tr 1.
6 Luật hải quan năm 2005, NXB Chính trị quốc gia năm 2005, tr 33
Tuy vậy, Nghị định 154/NĐ-CP ngày 15/12/2005, đã có quy định khá cụ thể
về doanh nghiệp kinh doanh kho ngoại quan, doanh nghiệp kinh doanh kho bảo
thuế, như: quy định về địa điểm, điều kiện thành lập kho ngoại quan, kho bảo thuế,
các hoạt động kinh doanh, dịch vụ trong kho ngoại quan, kho bảo thuế, thủ tục đưa
hàng hóa ra vào kho ngoại quan kho bảo thuế Quyết định số 24/2009/QĐ-TTg
ngày 17/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định về Quy chế kinh doanh hàng
miễn thuế quy định về điều kiện doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh hàng
miễn thuế; địa điểm, hàng hóa, thủ tục bán hàng tại cửa hàng miễn thuế
1.2.2 Tổng quan về mức độ tuân thủ của doanh nghiệp trong hoạt động XK, NK
1.2.2.1. Khái niệm tuân thủ, không tuân thủ trong hoạt động XK, NK
- Khái niệm tuân thủ trong hoạt động XK, NK
Tuân thủ là một khái niệm khá phức tạp và đa dạng, được sử dụng trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, như: tuân thủ chuẩn mực xã hội, tuân thủ pháp luật, tuân
thủ các quy tắc, quy ước nhóm Nghiên cứu về học thuật, theo từ điển Tiếng Việt,
tuân thủ là việc “giữ đúng, làm đúng theo điều đã quy định”
7
. Tuân thủ có thể được

hiểu là một hành động hoặc một quá trình hoạt động tuân theo các quy định hoặc
đáp ứng các yêu cầu trong từng giai đoạn cụ thể. Sự tuân thủ chịu ảnh hưởng của
các yếu tố khách quan, như các điều kiện về môi trường, vật chất, tài chính, phương
tiện và các yếu tố ngoại cảnh bên ngoài; đồng thời mang tính chủ quan, như thái độ,
sự mong muốn, ý thức, đạo đức, phẩm chất, năng lực của chủ thể.
Tuân thủ trong hoạt động XK, NK là dạng tuân thủ bắt buộc, các đối tượng
tham gia hoạt động này phải tuân theo các quy định của pháp luật hải quan, pháp
luật thuế và các thủ tục, quy định của ngành Hải quan.
Việc tuân thủ trong lĩnh vực này được thực hiện bởi các chủ thể dưới đây:
+ Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện XK, NK, bao gồm: chủ hàng hoá
XK, NK, người nộp thuế, đại lý hải quan, người được chủ hàng hoá, người nộp thuế
uỷ quyền thực hiện thủ tục hải quan, thủ tục thuế. Những người phải chấp hành các
7 Đại Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông tin, năm 1998, tr 1744
quy định của pháp luật, chế độ chính sách quản lý hải quan, quản lý thuế đối với
hàng hóa XK, NK;
+ Cán bộ, công chức tại Hải quan vừa là chủ thể thực thi pháp luật hải quan,
pháp luật thuế, đồng thời cũng là người phải chấp hành các quy định của pháp luật
trên lĩnh vực này.
+ Các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động XK, NK cũng là đối
tượng có tác động ảnh hưởng nhất định đến việc tuân thủ PLHQ, pháp luật thuế,
như: Ngân hàng, cơ quan thuế nội địa, đơn vị quản lý cảng, kho, bãi
Như vậy, tuân thủ trong hoạt động XK, NK bao gồm việc tuân thủ của các
thành viên tham gia hoặc liên quan đến việc tham gia vào môi trường hoạt động
XK, NK; trong đó doanh nghiệp phải tuân theo các yêu cầu của pháp luật về việc
khai và đăng ký khai hải quan, nộp thuế và việc thanh toán đúng hạn, yêu cầu báo
cáo và các yêu cầu thủ tục khác. Đối với công chức hải quan, sự tuân thủ bao gồm
việc thực hiện, tuân theo các quy định của pháp luật, các quy trình, quy định, hướng
dẫn của ngành Hải quan. Ngoài ra, tuân thủ trong hoạt động XK, NK còn bao gồm
sự đáp ứng về mặt cơ sở hạ tầng kỹ thuật để đảm bảo việc khai và làm thủ tục đối
với hàng hóa XK, NK theo đúng quy trình, quy định.

Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa tuân thủ trong hoạt động
XK, NK là sự tuân theo, sự đáp ứng các quy định của pháp luật hải quan, pháp luật
thuế và các quy trình, quy định của ngành Hải quan trong thủ tục hải quan, kiểm
tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa XK, NK.
- Khái niệm không tuân thủ trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
Trong hoạt động XK, NK, đối lập với khái niệm tuân thủ là hành vi không
tuân thủ. Điều này có thể được nhận diện ở các góc độ sau đây:
+ Thực hiện hành vi vi phạm các quy định của pháp luật hải quan, pháp luật
thuế trong hoạt động XK, NK;
+ Không chấp hành các quy trình, quy định của ngành Hải quan trong thủ tục
hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa XK, NK;
+ Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ
về thuế và các nghĩa vụ khác trong hoạt động XK, NK;
+ Không hợp tác hoặc không đáp ứng các yêu cầu của cơ quan hải quan và
các cơ quan chức năng liên quan trong hoạt động XK, NK.
Việc không tuân thủ trong hoạt động XK, NK có thể bị các cơ quan quản lý
nhà nước xử lý ở các hình thức, mức độ khác nhau, như: truy tố trước pháp luật về
hành vi vi phạm pháp luật hình sự; hoặc bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính
về hải quan, vi phạm hành chính về thuế; hoặc có thể bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế làm thủ tục hải quan, thủ tục thuế; hoặc có thể bị áp dụng các biện pháp
có tính chất tương tự cưỡng chế, như: kiểm tra hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hóa,
giám sát trọng điểm
Từ định nghĩa về tuân thủ và nội dung phân tích trên có thể rút ra định nghĩa
không tuân thủ trong trong hoạt động XK, NK là sự không tuân theo, sự không đáp
ứng các quy định của pháp luật hải quan, pháp luật thuế và các quy trình, quy định
của ngành Hải quan trong thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với
hàng hóa XK, NK.
1.2.2.2. Tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
- Khái niệm tuân thủ của doanh nghiệp trong hoạt động XK, NK
Phân tích ở trên đã chỉ ra doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp tuân thủ các quy

định của pháp luật, chế độ chính sách quản lý hải quan, quản lý thuế trong hoạt
động XK, NK. Vì vậy, tuân thủ của doanh nghiệp XK, NK là việc chấp hành, việc
đáp ứng các yêu cầu của pháp luật hải quan, pháp luật thuế và các quy trình, quy
định của ngành Hải quan khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa.
- Phân nhóm mức độ tuân thủ của doanh nghiệp trong hoạt động XK, NK
Thứ nhất, theo nghiên cứu tài liệu hướng dẫn quản lý tuân thủ của Tổ chức
hải quan thế giới (WCO) cho thấy sự phân chia mức độ tuân thủ doanh nghiệp
thành bốn nhóm chính:
Hình 1.1: Kim tự tháp tuân thủ
+ Nhóm 1. Doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ pháp luật: luôn có thái độ sẵn
sàng làm những việc đúng quy định của pháp luật. Điều này bắt nguồn từ nhận thức
của doanh nghiệp thấy rằng phải có trách nhiệm tuân thủ pháp luật; coi việc tuân
thủ như là một vần đề thuộc về khía cạnh đạo đức và đạo lý. Do đó, họ sẵn sàng và
chủ động thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình; đồng thời có ý thức tự điều
chỉnh sự tuân thủ khi có những thay đổi hoặc xuất hiện nguy cơ rủi ro liên quan đến
việc tuân thủ.
+ Nhóm 2. Doanh nghiệp luôn cố gắng tuân thủ nhưng không đôi khi không
thành công: nguyên nhân của sự không thành công chủ yếu là do thiếu kỹ năng,
kiến thức, năng lực tuân thủ. Nhóm này sẵn sàng thừa nhận những lỗi vô ý gây ra và
sẵn sàng hợp tác, thậm chí yêu cầu thêm sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý để thực hiện
trách nhiệm, nghĩa vụ trước pháp luật.
+ Nhóm 3. Doanh nghiệp sẽ có xu hướng không tuân thủ nếu có cơ hội: trong
thực tế đây là nhóm doanh nghiệp khó nhận biết nhất, vì bình thường họ chấp hành
đầy đủ các quy định của pháp luật, nhưng luôn tìm các kẽ hở của chính sách, pháp
luật để lợi dụng và khi có cơ hội sẽ không để lỡ việc thực hiện các hành vi gian lận.
Doanh nghiệp nhóm này thường là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động không
thường xuyên, trong các lĩnh vực, ngành hành có tính nhạy cảm. Về thái độ, những
doanh nghiệp này thường không mong muốn thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm theo
quy định của pháp luật; khi bị phát hiện thường không muốn thừa nhận, tìm cách
trốn tránh trách nhiệm, biện minh cho các hành vi vi phạm đã thực hiện trước đó.

+ Nhóm 4. Doanh nghiệp hoàn toàn không tuân thủ: đây là những doanh
nghiệp không có ý thức chấp hành pháp luật, thậm chí luôn tìm cách vi phạm pháp
luật; họ không quan tâm đến việc mình làm đúng hay sai cũng như không tỏ rõ
động thái để thay đổi tình hình tuân thủ.
Thứ hai, tiếp cận theo cơ chế áp dụng quản lý rủi ro hiện nay của ngành Hải
quan, vấn đề tuân thủ của doanh nghiệp XK, NK được xác định bao gồm 10 nhóm
dưới đây:
- Tuân thủ quy trình, quy định trong thực hiện thủ tục hải quan, thủ tục thuế,
kiểm tra, giám sát hải quan;
- Tuân thủ chính sách quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh;
- Tuân thủ pháp luật thuế trong quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu;
- Tuân thủ quy định về phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Tuân thủ quy định về trị giá hải quan;
- Tuân thủ quy định về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Tuân thủ quy định về kiểm tra chất lượng; kiểm dịch động vật, thực vật; kiểm
tra vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh hàng hóa;
- Tuân thủ quy định của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa;
- Tuân thủ các quy định về hợp tác trao đổi, cung cấp thông tin liên quan đến
hoạt động XK, NK.
Thứ ba, tiếp cận theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính trên lĩnh vực hải quan,
vấn đề tuân thủ của doanh nghiệp XK, NK bao gồm 06 nhóm dưới đây:
- Tuân thủ quy định về khai và làm thủ tục hải quan, thủ tục thuế; thời hạn
làm thủ tục hải quan, thủ tục thuế đối với hàng hóa XK, NK;
- Tuân thủ quy định của pháp luật trong kiểm tra hải quan đối với hàng hóa
XK, NK;
- Tuân thủ quy định của pháp luật trong giám sát hải quan đối với hàng hóa

XK, NK;
- Tuân thủ quy định của pháp luật về kiểm soát hải quan đối với hàng hóa
XK, NK;
- Tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế;
- Tuân thủ trong thực hiện các yêu cầu của cơ quan hải quan.
1.2.3 Nội dung quản lý nhà nước về hải quan đối với mức độ tuân thủ của doanh
nghiệp trong hoạt động XK, NK:
1.2.3.1 Khái niệm quản lý nhà nước về hải quan đối với mức độ tuân thủ của doanh
nghiệp trong hoạt động XK, NK
Quản lý tuân thủ là việc cơ quan, tổ chức thực hiện các biện pháp có tính tổ
chức theo hệ thống nhằm đánh giá, phân tích và hướng dẫn việc thực hiện các quy
định pháp luật có liên quan một cách có hiệu quả nhất. Quản lý tuân thủ được áp
dụng ở nhiều lĩnh vực ngành, nghề trong hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, chính
trị của các quốc gia. Ví dụ, ngành An ninh đã thực hiện quản lý tuân thủ đối với các
đối tượng kinh doanh nhà hàng, khách sạn, quán bar, sàn nhảy vũ trường nhằm ngăn
chặn, hạn chế các hoạt động tiêu cực, gây mất an ninh, trật tự an toàn nơi công
cộng. Ngược lại, đối tượng được quản lý phải nhận được sự hướng dẫn, giải thích,
tập huấn cho các nội dung cần thiết trong việc kinh doanh của mình để tránh vi
phạm pháp luật.
Quản lý nhà nước đối với mức độ tuân thủ của doanh nghiệp trong hoạt động
XK, NK là hoạt động của cơ quan hải quan nhằm tiến hành các biện pháp có tính hệ
thống và tổ chức cao trên cơ sở dựa vào nguyên tắc quản lý rủi ro hiện tại.
Quản lý mức độ tuân thủ trong lĩnh vực hải quan là công cụ hữu hiệu nhất
giúp cơ quan Hải quan giám sát, đánh giá được đầy đủ nhất các hoạt động của
doanh nghiệp, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật hải quan, pháp luật thuế và các biện
pháp, chế tài xử phạt có tính ngăn chặn, giáo dục đối với các hoạt động liên quan
đến XK, NK không tuân thủ pháp luật.
1.2.3.2 Nội dung quản lý nhà nước về hải quan đối với mức độ tuân thủ của doanh
nghiệp trong hoạt động XK, NK
Nghiên cứu nội dung này trong bối cảnh QLNN về hải quan đối với mức độ

tuân thủ của doanh nghiệp trong hoạt động XK, NK ở trên thế giới và thực tiễn Việt
Nam cho thấy, các CQHQ đều sử dụng hai công cụ là đo lường tuân thủ và đánh giá
tuân thủ làm công cụ hữu hiệu để thẩm định mức độ chấp hành pháp luật, xác định
những rủi ro tuân thủ, chẩn đoán những tổn thất, đặc biệt là thất thu ngân sách do
việc không tuân thủ pháp luật gây ra.
- Khái niệm về đo lường tuân thủ trong hoạt động XK, NK
Đo lường tuân thủ là việc cơ quan hải quan lựa chọn mẫu, tổng hợp, phân
tích các chỉ số tuân thủ trên từng lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất
cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cụ thể:
+ Đơn vị, công chức hải quan thu thập thông tin dữ liệu từ các nguồn khác
nhau thông qua các hệ thống thông tin hoặc thực hiện thu thập thủ công để thống
kê, phân tích, đưa ra những kết luận hợp lý về mức độ tuân thủ trên các lĩnh vực
hoạt động hải quan. Những tỷ lệ này cho phép xác định từng bước của một quy
trình nghiệp vụ, ví dụ như đối với hàng nhập khẩu là từ công đoạn xem xét bản lược
khai cho đến việc khai báo hàng hoá và thu thuế.
+ Sử dụng phương pháp lấy mẫu theo thống kê theo tỷ lệ nhất định để lựa
chọn các lô hàng XK, NK hoặc doanh nghiệp hoạt động XK, NK nhằm kiểm tra sự
tuân thủ trong khai báo, tiến hành thủ tục hải quan. Kết quả thu được cho phép cơ
quan hải quan xác định mức độ tuân thủ của trên một phạm vi, lĩnh vực cụ thể, qua
đó làm cơ sở cho việc xem xét điều chỉnh một cách thích hợp đối với các lĩnh vực
hoặc đối tượng tương ứng.
Việc xác định mức độ tuân thủ được áp dụng theo khung trong giới hạn dung
sai có thể chấp nhận. Mức độ này còn có tên gọi khác là mức độ dung sai. Để thực
hiện việc đo lường tuân thủ, cơ quan hải quan phải đưa ra các khung chỉ số đo
lường tuân thủ. Ví dụ, Hải quan Hoa Kỳ chấp nhận tỷ lệ tuân thủ 95% của các lô
hàng hoặc doanh nghiệp được xem xét trong một lĩnh vực cụ thể.
- Khái niệm về đánh giá tuân thủ trong hoạt động XK, NK
Khái niệm đánh giá mức độ tuân thủ được sử dụng rộng hơn rất nhiều so với
đo lường tuân thủ.
Đánh giá tuân thủ là việc cơ quan hải quan sử dụng tổng hợp các biện pháp,

kỹ thuật (trong đó bao gồm cả đo lường tuân thủ) để xác định mức độ tuân thủ pháp
luật hải quan, pháp luật thuế trên từng lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
Trong hoạt động XK, NK, cơ quan hải quan thường sử dụng các hình thức
đánh giá tuân thủ chủ yếu dưới đây:
+ Sử dụng kết quả đo lường tuân thủ, khung chỉ số đánh giá và các thông tin
liên quan để xác định mức độ tuân thủ;
+ Sử dụng kết quả phân tích thông tin, dữ liệu về tình hình vi phạm pháp luật
hải quan, pháp luật thuế để đánh giá mức độ tuân thủ trên từng lĩnh vực hoạt động
XK, NK cụ thể;
+ Sử dụng bảng câu hỏi điều tra và khảo sát: là phương pháp có sự tham gia
của cán bộ, công chức hải quan và người tham gia hoạt động XK, NK. Phương pháp
này có xu hướng độc lập và người trả lời phải là người liên quan và khách quan để
trả lời chính xác câu hỏi;
+ Cán bộ, công chức tiến hành quan sát, khảo sát trực tiếp trên địa bàn và
việc tiến hành các hoạt động tác nghiệp;
+ Xây dựng tiêu chí, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để tự động đánh
giá tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp;
+ Nghiên cứu chuyên đề, tập trung đánh giá các lĩnh vực trọng điểm về quản
lý hải quan để xác định các rủi ro tuân thủ pháp luật hải quan;
+ Cán bộ, công chức tiến hành thẩm tra, xác minh cụ thể để đánh giá mức độ
tuân thủ của từng doanh nghiệp;
+ Phân tích SWOT để xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ. Phương
pháp này sử dụng để phân tích dữ liệu định lượng và tổng hợp kết quả đánh giá.
- Nội dung quy trình về đo lường, đánh giá tuân thủ doanh nghiệp hoạt động
XK, NK
Đo lường tuân thủ doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu là việc lựa chọn
mẫu kiểm tra, tổng hợp, phân tích các chỉ số tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp.
Đánh giá tuân thủ doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu là việc sử
dụng các biện pháp, cách thức để xác định mức độ tuân thủ pháp luật và mức độ rủi

ro tuân thủ pháp luật của từng doanh nghiệp cụ thể.
Việc đo lường, đánh giá tuân thủ doanh nghiệp hoạt động XK, NK là một
bộ phận cấu thành và mang những đặc điểm chung của đo lường, đánh giá tuân
thủ trong hoạt động XK, NK. Tuy nhiên, do doanh nghiệp là một thành tố trong
quản lý hải quan nên việc đo lường, đánh giá tuân thủ doanh nghiệp hoạt động
XK, NK được thực hiện bằng các biện pháp có tính đặc thù riêng.
+ Lấy mẫu ngẫu nhiên kiểm tra lô hàng XK, NK để đo lường tuân thủ của
doanh nghiệp;
+ Lựa chọn ngẫu nhiên doanh nghiệp để tiến hành kiểm tra hồ sơ, kiểm tra
thực tế hàng hóa, kiểm tra sau thông quan;
+ Xây dựng tiêu chí, tổ chức đánh giá tuân thủ của doanh nghiệp theo các
cấp độ khác nhau;
+ Xây dựng tiêu chí, tổ chức đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro tuân thủ của
doanh nghiệp;
+ Lập danh sách doanh nghiệp kiểm tra sau thông quan theo kế hoạch hàng
năm để đánh giá tuân thủ doanh nghiệp;
+ Theo dõi, phân tích hoạt động của các nhóm doanh nghiệp hoặc theo từng
doanh nghiệp cụ thể.
1.2.3.3 Các yếu tố tác động đến công tác quản lý mức độ tuân thủ của doanh
nghiệp trong hoạt động XK, NK
- Các yếu tố thương mại quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong những năm qua đã tạo
ra sự gia tăng mạnh mẽ các dòng lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn công nghệ,

×