Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.39 KB, 13 trang )

Lời nói đầu :
Từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 , đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được tổ
chức tại Hà Nội , đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong lịch sử nước nhà . Trên cơ sở
phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới
tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.
Một trong những biểu hiện của quá trình Đổi mới là quyết định thay đổi cơ chế quản lí
kinh tế, từ cơ chế bao cấp sang hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa (XHCN) . Đây có thể coi là quyết định quan trọng nhất, và có ý nghĩa nhất với nền
kinh tế nước ta vào thời điểm đó. Và để tạo cơ sở pháp lí cho quá trình Đổi mới, Hiến
pháp 1992 đã được ban hành, trong đó điều 15 có nêu rõ : “Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng…” . Một trong
những thành phần kinh tế mới được Hiến pháp (HP)1992 ghi nhận là thành phần kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Vậy Nhà nước đã có những chính sách như thế nào đối với
thành phần kinh tế này ? Những chính sách đó có ý nghĩa như thế nào ?

1
1. Khái niệm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân
Kinh tế cá thể , tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân là kinh tế những người không phải là
cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước tại chức hoặc xã viên hợp tác xã, có vốn, tư liệu
sản xuất., kỹ thuật chuyên môn và sức lao động đứng ra sản xuấn kinh doanh dưới hình
thức hộ cá thểm hộ tiểu chủ công nghiệp, xưởng, cửa hang, xí nghiệp tư nhân ( bao gồm
những tổ chức sản xuấn kinh doanh cùng tính chất như công ti tư doanhm công ti cổ phần,
tổ hợp tư doanh …. )
Tuy cùng được xây dựng trên cơ sở hình thức sở hữu tư nhân song có sự khác biệt giữa
hình thức cá thể với tiểu chủ và tư bản tư nhân. 3 loại hình kinh tế này khác nhau về mức
độ, quy mô sản xuất. Thành phần cá thể là hình thức kinh doanh mang tính cá nhân, nhỏ
lẻ; hình thức tiểu chủ đã mang tính quy mô, có tổ chức hơn nhưng chưa có tư cách pháp
nhân. Còn thành phần tư bản tư nhân đã có sự hoàn thiện về tổ chức, quy mô… tuân theo
các quy định của pháp luật bởi thành phần kinh tế này đã có tư cách pháp nhân.
Các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân đã xuất hiện từ lâu .


Nhưng chúng đã không được thừa nhận trong một thời gian dài, phải đến
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI , Đảng và nhà nước đã thay đổi chính sách đối với kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân. Xuất phát từ quan điểm “giải phóng mọi năng lực sản
xuất , phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế “(Điều 16 – Hp 1992). Nhà nước
thừa nhận sự tồn tại lâu dài của kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân trong nền kinh tế
quốc dân :
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân ….. ( trích
điều 15 – Hp 1992 )
Ở nước ta, ban đầu, do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, kinh tế cá thể, tiểu chủ có
vị trí quan trọng, lâu dài trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước. Còn trong
thời kỳ quá độ, thành phần kinh tế tư bản tư nhân có vai trò đáng kể để phát triển lực
lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, khai thác các nguồn vốn, giải quyết việc làm và góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động, nhạy bén với
kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh
tế của đất nước. Hiện nay, kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân đều có sự chuyển biến
2
tích cực cả về lượng và chất. Một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thành
phần kinh tế này chính là những chính sách hợp lí của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện
qua HP 1992.
2 .Chính sách của Nhà nước đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân
Nhà nước ta thông qua HP 1992 đã đưa ra những chính sách với mục đích khuyến khích
sự phát triển của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Có thể phân tích những chính
sách trên 2 bình diện: quyền và nghĩa vụ của thành phần kinh tế này.
2.1 Quyền hạn của thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân
Điều 21 HP 1992 sửa đổi năm 2001 nước CHXHCN Việt Nam quy định:
“Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh
doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những
ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh…”

Điều 22 Hp 1992 cũng viết : “ Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp
luật … “
Như vậy HP 1992 quy định cho thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ , tư bản tư nhân :
1.Quyền được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh .
2. Quyền được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt dộng trong
những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.
3.Quyền được bình đẳng trước pháp luật như mọi thành phần kinh tế khác
+ Đê làm rõ chính sách quan điểm của đảng và nhà nước về quyền hạn của thành phần
kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân ,chúng ta hãy cũng đi sâu phân tích theo 3 hướng
này :
2.1.1 .Quyền được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
- Từ điều 21 hiến pháp 1992 , luật doanh nghiệp 2005 đã mở rộng và quy định chi tiêt
các quyền của doanh nghiệp trên thị trường tại điều 8 với những nội dung sau :
1. Doanh nghiệp được tự chủ trong họat động kinh doanh và phát triển thị trường bằng
các quyền cơ bản: Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức
kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước
khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch
3
vụ công ích; Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; Kinh doanh
xuất khẩu, nhập khẩu .
2. Trong việc quản lý, điều hành nội bộ, doanh nghiệp được quyền tự quyết nhằm nâng
cao khả năng kinh doanh và năng lực cạnh tranh, bao gồm các quyền: Tự chủ quyết định
các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ; Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của
doanh nghiệp; Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh; Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh
doanh.
3. Các doanh nghiệp được quyền họat động trong môi trường kinh doanh lành mạnh,
bình đẳng và ổn định. Theo đó, doanh nghiệp có quyền: Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các
nguồn lực không được pháp luật quy định; Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về

khiếu nại, tố cáo; Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật.
- Luật Thương mại 2005 cũng nói cụ thể về quyền của thành phần kinh tế cá thể, tư
nhân tư bản qua điều 12 : “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp khác
của thương nhân thuộc các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân trong thương mại;
khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân thuộc các thành phần này hợp tác,
liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức đại lý hoặc hình thành các
doanh nghiệp tư bản nhà nước, các hình thức sở hữu hỗn hợp khác nhằm phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế, tạo nội lực cho các doanh nghiệp thương mại Việt Nam
phát triển, mở rộng thương mại hàng hoá và dịch vụ thương mại.”
Nhiều nội dung mới cũng được đưa vào luật thương mại 2005 như: bổ sung các hình thức
khuyến mãi, làm rõ các thông tin phải thông báo công khai trong hoạt động khuyến mại;
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo thương mại; ghi nhận thêm hoạt
động dịch vụ cũng được giới thiệu và bổ sung hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hoá,
dịch vụ qua Internet; trách nhiệm của các bên trong hoạt động hội chợ, triển lãm...Luật
Thương mại năm 2005 cũng bổ sung một số quy định về nguyên tắc đấu giá, người tổ
chức đấu giá, người bán hàng và các quyền, nghĩa vụ của họ; quy định cụ thể những người
không được tham gia đấu giá; thời hạn niêm yết việc bán đấu giá và trình tự tiến hành cuộc
đấu giá... tất cả thay đổi này tăng thêm khả năng lựa chọn cho thành phàn kinh tế cá thể ,
tư bản tư nhân về hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh.
4
2.1.2 . Quyền được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt dộng trong
những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.
Để tạo môi trường pháp lý bảo đảm sự phát triển của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản
tư nhân, Nhà nước đã thông qua Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty . Trong đó
nêu rõ quyền được tổ chức hoạt động , sản xuất không bị giới hạn về quy mô của doanh
nghiệp theo hiến pháp 1992 :
- Điều 21 Luật Doanh nghiệp tư nhân: Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư
nhân còn có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư ban đầu để mở rộng hoặc thu hẹp quy mô
sản xuất, nhưng việc tăng giảm vốn đều phải ghi chép đầy đủ trong sổ sách kế toán .

-Điều 22 Luật Doanh nghiệp tư nhân và Điều 12 Luật Công ty:Pháp luật thừa nhận các
quyền của Doanh nghiệp tư nhân: Lựa chọn ngành, nghề, quy mô kinh doanh; Lựa chọn
hình thức và cách thức vay vốn; Lựa chọn khách hàng, trực tiếp giao dịch, ký kết hợp đồng
với khách hàng; Tuyển dụng và thuê mướn lao động theo yêu cầu kinh doanh; Sử dụng
ngoại tệ thu được;Quyết định việc sử dụng phần thu nhập còn lại; Chủ động trong các hoạt
động kinh doanh.
Các quyền này đều nhắm đến mục đích giúp Doanh nghiệp tư nhân có thể tự do phát
triển, trong khuôn khổ pháp luật, về cả quy mô lẫn hình thức trong lĩnh vực hoạt động của
mình .
2.1.3. Quyền được bình đẳng trước pháp luật như mọi thành phần kinh tế khác
Từ điều 22 Hiến pháp 1992 , Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty cũng có các
điều khoản đảm bảo công nhận và bảo vệ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập
hợp pháp của các hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân ,công nhận tư cách pháp
nhân cũng như thừa nhận sự bình đẳng giữa thành phần này với các thành phần kinh tế
khác . Trong đó khoản 1 điều 4 luật doanh nghiệp 2005 có nói : Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh .
- Điều 3 Luật Doanh nghiệp tư nhân và Điều 4 Luật Công ty: Nhà nước công nhận sự tồn
tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật
của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác và tính sinh lợi hợp pháp của việc
kinh doanh .
5

×