Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

môi giới thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.01 KB, 14 trang )

Mở đầu
Phương thức kinh doanh thương mại qua trung gian thương mại chủ yếu
bao gồm: các hoạt động đại diện thương mại, môi giới thương mại, ủy thác
thương mại được coi là những phương thức kinh doanh truyền thống, được các
thương nhân sử dụng khá sớm trong lịch sử phát triển thương mại và ngày nay
vẫn được ưa chuộng. Việc sử dụng các dịch vụ trung gian thương mại có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh doanh của thương nhân cũng như nền kinh
tế quốc dân đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Chính vì vậy, trong
bài viết này chúng ta cùng tìm hiểu pháp luật về môi giới thương mại.
1. Khái niệm và đặc điểm môi giới thương mại
1.1 Khái niệm môi giới thương mại
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, môi giới được hiểu là
người làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc, giao thiệp với nhau. Tương tự với
cách hiểu thông thường về môi giới, Điều 150 Luật thương mại (LTM) đã định
nghĩa môi giới thương mại như sau: “Môi giới thương mại là hoạt động thương
mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm
phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo
hợp đồng môi giới”.
1.2 Đặc điểm của môi giới thương mại
Môi giới thương mại có những đặc điểm sau:
- Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại gồm bên môi giới và bên được
môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân, có đăng kí kinh doanh để
thực hiện dịch vụ môi giới thương mại và không nhất thiết phải có ngành nghề
đăng kí kinh doanh trùng với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới.
Pháp luật hiện hành không quy định bên được môi giới có nhất thiết phải là
thương nhân hay không. Trong hoạt động môi giới thương mại, không phải tất
cả các bên được môi giới đề có quan hệ môi giới thương mại với bên môi giới
mà chỉ có bên được môi giới nào kí hợp đồng môi giới với bên môi giới thì giữa
họ mới phát sinh quan hệ môi giới thương mại. Ví dụ: Công ty Nhà nước A kí
1


hợp đồng thuê công ty Trách nhiệm hữu hạn B làm môi giới trong việc tiêu thụ
sản phẩm do công ty sản xuất ra, giữa công ty A và công ty B phát sinh quan hệ
môi giới thương mại. Công ty B tìm được công ty C có nhu cầu mua các sản
phẩm của công ty A và giới thiệu công ty A với công ty C. Do đó, giữa B và C
có thể tồn tại hợp đồng môi giới hoặc không, nếu B và C kí hợp đồng môi giới
thì giữa họ cũng phát sinh quan hệ môi giới thương mai.
Khi sử dụng dịch vụ môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính
mình để quan hệ với các bên được môi giới và làm nhiệm vụ giới thiệu các bên
được môi giới với nhau. Sau đó, các bên được môi giới trực tiếp giao kết hợp
đồng với nhau. Nếu họ thay mặt bên được môi giới kí hợp đồng với khách hàng
thì họ sẽ trở thành bên đại diện không đúng thẩm quyền của bên được môi giới.
Tuy nhiên, LTM của Việt Nam không cấm bên được môi giới ủy quyền cho bên
môi giới kí hợp đồng với khách hàng. Trong trường hợp này, bên môi giới hành
động với tư cách của bên đại diện.
- Nội dung hoạt động môi giới rất rộng, bao gồm nhiều hoạt động như:
tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới,
tiến hành các hoạt động giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để
các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, tiếp xúc các bên được môi giới soản
thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Mục đích của hoạt đồng môi giới là các
bên được môi giới giao kết hợp đồng với nhau.
Môi giới thương mại là một hoạt động kinh doanh thuần túy. Mục đích
của bên môi giới thương mại khi thực hiện việc môi giới là tìm kiếm lợi nhuận.
Bên môi giới thông thường được hưởng thù lao khi các bên được môi giới đã
giao kết hợp đồng với nhau.
- Phạm vi của môi giới thương mại theo LTM năm 2005 được mở rộng
chứ không bị bó hẹp như quy định của LTM năm 1997 chỉ bao gồm những hoạt
động môi giới mua, bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại liên quan đến
mua bán hàng hóa. Do đó, môi giới thương mại bao gồm tất cả các hoạt động
môi giới có mục đích kiếm lợi như môi giới mua bán hàng hóa, môi giới chứng
khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới tàu biển, môi giới thuê máy bay, môi giới

2
bất động sản…Tuy nhiên, LTM là luật chung điều chỉnh các hoạt động thương
mại nên những quy định về môi giới thương mại trong luật này chỉ mang tính
nguyên tắc còn các hoạt động môi giới trong từng lĩnh vực riêng biệt lại được
luật chuyên ngành quy định cụ thể. Ví dụ: môi giới bảo hiểm được quy định
trong Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, môi giới hàng hải được quy định
trong Luật hàng hải năm 2005…
- Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi
giới
Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới,
bên môi giới phải là thương nhân còn bên được môi giới không nhất thiết phải là
thương nhân (vì pháp luật không quy định gì về điều kiện bên được môi giới).
Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới nhằm chắp nối
quan hệ giữa các bên được môi giới với nhau. Hình thức của hợp đồng môi giới
thương mại không được LTM 2005 quy định.
LTM 2005 đã bỏ quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng môi giới
nhưng xuất phát từ bản chất của quan hệ môi giới và để hạn chế tranh chấp xảy
ra trong quá trình thực hiện hợp đồng môi giới, khi giao kết hợp đồng này các
bên có thỏa thuận những điều khoản về nội dung cụ thể của việc môi giới, mức
thù lao mà bên môi giới sẽ được nhận, thời hạn thực hiện hợp đồng môi giới,
quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; hình thức
giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng môi giới.
2. Hợp đồng môi giới
2.1 Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng môi giới
Quan hệ môi giới thương mại phát sinh giữa bên môi giới và bên được
môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân. LTM 2005 chỉ quy định
chung chung bên môi giới phải là thương nhân mà chưa quy định cụ thể các điều
kiện của thương nhân thực hiện hoạt động môi giới. Tuy nhiên, trong trường
hợp môi giới hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều
kiện đòi hỏi bên môi giới phải có các điều kiện theo quy định của Nghị định

59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 và các luật chuyên ngành. Ví dụ, bên môi giới
3
bảo hiểm phải là doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đáp ứng đầy đủ các quy định
về điều kiện thành lập doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Luật Kinh doanh bảo
hiểm và Nghị định hướng dẫn thi hành. Tổ chức kinh doanh dịch vụ môi giới bất
động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã có đăng kí kinh doanh
dịch vụ môi giới bất động sản theo quy định của pháp luật và phải có ít nhất một
người có chứng chỉ môi giới bất động sản. Cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới
bất động sản độc lập phải đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật và có
chứng chỉ môi giới bất động sản (Điều 8 Luật kinh doanh bất động sản 2006).
Đối với bên được mô giới, các quy định của mục 2 chương V LTM 2005
về môi giới thương mại không thể hiện bên được môi giới có nhất thiết phải là
thương nhân hay không? Nhưng nếu căn cứ vào Điều 3 khoản 11 định nghĩa về
các hoạt động trung gian thương mại trong đó có hoạt động môi giới thương mại
thì bên được môi giới cũng phải là thương nhân. Điều này dẫn đến những bất
hợp lí sau: (i) bên được môi giới là chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ môi giới
chứ không thực hiện dịch vụ này do đó không thể bắt buộc phải là thương nhân;
(ii) nếu bên được môi giới cũng là thương nhân thì quan hệ giữa bên môi giới (là
thương nhân hoạt động thương mại) với bên được môi giới không phải là thương
nhân sẽ không phải là môi giới thương mại và sẽ không chịu sự điều chỉnh của
LTM mà chỉ chịu sự điều chỉnh của BLDS. Các quy định về môi giới thương
mại sẽ không được áp dụng cho bên là thương nhân.
Theo LTM 2005 và các luật hiện hành khác quy định về môi giới thương
mại như Bộ luật hàng hải, Luật kinh doanh bảo hiểm, chức năng của người môi
giới thương mại ở Việt Nam tương tự người môi giới thương mại theo pháp luật
của các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Điều đó có nghĩa là, khi
thực hiện hoạt động môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính mình để
quan hệ với các bên được môi giới và là người trung gian cho các bên trong
quan hệ giao dịch thươm mại, giới thiệu cho các bên cơ hội giao kết hợp đồng,
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ có liên quan đến những giao dịch thương mại. Đó là

những hoạt động trung gian nhằm chắp nối cho những giao dịch rất phong phú
và đa dạng, có thể là những giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ
4
thương mại để giúp các bên được môi giới đến với nhau. Khi thực hiện dịch vụ
môi giới, bên môi giới có thể thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cung cấp các
thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt động
giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới
tiếp xúc với nhau, giúp đỡ các bên soant thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu.
Sau đó, các bên được môi giới trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau. Nếu bên
môi giới thay mặt bên được môi giới kí hợp đồng với bên thứ ba thì họ sẽ trở
thàn bên đại diện không đúng thẩm quyền của bên được môi giới. Tuy nhiên,
LTM 2005 của Việt Nam không cấm bên được môi giới ủy quyền cho bên môi
giới kí hợp đồng với khách hàng. Trong trường hợp này, bên môi giới hành
động với tư cách của bên đại diện.
Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi
giới. Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới.
Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới, cung cấp cơ hội
giao kết hợp đồng giữa bên được môi giới với bên thứ ba.
Về hình thức, LTM 1997 quy định rõ ràng, hợp đồng môi giới phải được
lập thành văn bản (Điều 94). LTM 2005 không quy định về hình thức của hợp
đồng môi giới thương mại trong khi hầu hết các hoạt động trung gian thương
mại như ủy thác, đại diện, đại lý thương mại lại quy định phải lập thành văn bản
hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào
khoản 1 Điều 153 LTM 2005 thì hợp đồng môi giới phải được lập thành văn
bản, vì điều này quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù
lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với
nhau”. Do đó, LTM cần phải quy định rõ về hình thức của hợp đồng môi giới,
tránh dẫn đến cách hiểu khác nhau về vấn đề này.
2.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới
thương mại

Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới và bên được môi giới khi tham gia
quan hệ hợp đồng môi giới được quy định trong LTM 2005, trong các luật về
những hoạt động môi giới đặc thù như: Môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải,
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×