Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

phân tích môi trường Nam Phi-đề xuất phương thức kinh doanh quốc tế cho sản phẩm dệt may.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.77 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

Đề tài 2: Phân tích môi trường của Nam Phi.
Trên cơ sở đó đề xuất phương thức kinh
doanh quốc tế cho một sản phẩm cụ thể của
Việt Nam.
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trên thế giới, không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển mà không có sự quan
hệ, giao lưu với phần còn lại của thế giới. Đó là một xu thế tất yếu của thời đại mới-xu thế toàn cầu hóa.
Xu thế mới này đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho các quốc gia, cũng như các công ty đa quốc gia.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, nó cũng tạo ra vô vàn những khó khăn, thách thức; nếu như chúng ta không hiểu
rõ, không nắm bắt kịp thời cơ hội. Chính vì thế, nghiên cứu các hoạt động kinh doanh quốc tế là một bước
rất quan trọng, giúp chúng ta có thể hiểu rõ môi trường kinh doanh quốc tế, vạch ra những chính sách,
chiến lược đúng đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình của mỗi quốc gia, mỗi công ty. Từ đó, có thể phát
huy mạnh mẽ tiềm lực, thế mạnh của mình, cũng như né tranh được những thách thức.
Nam Phi, với địa thế thuận lợi-là cửa ngõ chiến lược của lục địa đen, là quốc gia phát triển hàng
đầu châu Phi, bạn hàng lớn của Việt Nam và là một quốc gia được nhiều doanh nghiệp lựa chọn để phát
triển kinh doanh quốc tế. Từ trước đến nay, khách hàng quen thuộc của các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam
vẫn là các quốc gia thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa, hay những bạn hàng truyền thống như Mỹ, châu
Âu… Khi quan hệ hợp tác với những quốc gia trên chúng ta có các lợi thế: hiểu được môi trường kinh
doanh, có những đối tác quen thuộc, được khách hàng biết tới và có những ưu đãi nhất định về thuế
quan… Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, tìm kiếm một thị trường mới có tiềm năng phát
triển đang là xu hướng tất yếu, mà châu Phi là một trong những châu lục điển hình. Từ năm 1996, Việt
Nam thực hiện quan hệ buôn bán 2 chiều với nhiều quốc gia châu Phi. Đặc biệt từ năm 2000 đến nay, thị
trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang châu Phi chủ yếu từ 2 hướng: Thứ nhất, từ Bắc Phi qua thị
trường Ai Cập, Libi; Thứ hai, từ Cộng hòa Nam Phi để thâm nhập các quốc gia Nam Phi và Trung Phi.
Là cửa ngõ của châu Phi, phát triển kinh doanh quốc tế tại Nam Phi,có thể nói chúng ta đã một
mặt thâm nhập được vào toàn thị trường này. Mặt khác, với một thị trường hơn 40 triệu dân không quá
khắt khe, đồng thời là một thành viên của WTO, một nền kinh tế ổn định và phát triển nhất châu Phi,
Nam Phi thể hiện là một thị trường hấp dẫn phù hợp với xuất khẩu Việt Nam.
Dưới đây là những phân tích về thị trường này.


2
Giới thiệu chung:
Thị trường Châu Phi nói chung đang đứng trước nhiều triển vọng của sự đổi thay trong những năm
tới. Chưa bao giờ Châu Phi thể hiện sự gắn bó như hiện nay. Liên minh Châu Phi (AU) đã ra đời.
Chiến lược cho một thiên niên kỷ Châu Phi đã được. các nhà lãnh đạo các nước Châu Phi thể hiện sự
quan tâm đặc biệt. Chiến lược NEPAD (Đối tác mới vì sự Phát triển của Châu Phi ) đã và đang được
triển khai một cách tích cực và nghiêm túc. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo các nước Châu Phi cũng
nhận thức rõ quan điểm phải dựa trên sức mình là chính .mới "phục hưng" được Châu Phi. Trong năm
2004, theo Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF), trong 10 nước có tốc độ GDP phát triển cao nhất thì Châu Phi
chiếm tới năm (5) nước, có ba mươi (30) nước Châu Phi đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 4%.
Nam Phi là cường quốc ở Châu Phi, là một trong những nước sáng lập Liên minh Châu Phi và chiến
lược đối tác mới vì sự phát triển của Châu Phi". Về mặt địa lý, Nam Phi được xem như cửa ngõ chiến
lược của châu lục tạo điều kiện thâm nhập cho các quốc gia Nam và Trung Phi. Do đó, đây được coi
là một thị trường tiềm năng đầy hấp dẫn.
Môi trường dân số:
Dân số (7/2005): 44,34 triệu người.
Tỷ lệ tăng trưởng dân số (ước 2005): -0,31%.
Tuổi thọ trung bình (ước 2005): 43,27 tuổi trong đó nam 43,47 tuổi và nữ 43,06 tuổi.
3
Giáo dục: Tỷ lệ dân số trên 15 tuổi biết đọc biết viết là 86,4%.
Tỷ lệ thất nghiệp: gần 28%
Y tế: Nam Phi đang đứng trước thách thức lớn là đại dịch HIV/AIDS. Đây là nước có số người nhiễm
HIV nhiều nhất trên thế giới, khoảng 6 triệu người, chiếm hơn 10% dân số, trong đó tỷ lệ nhiễm
HIV/AIDS ở độ tuổi thanh thiếu niên vào khoảng hơn 20%.
Thu nhập:
GDP (2004): 162,1 tỉ USD
GDP (PPP)/người (2004): 11.100 USD
Phân phối thu nhập:
Thu nhập bình quân của 33 triệu người da đen ở đây nằm trong khoảng 1.100USD/người/năm, trong
khi của 5,5 triệu người da trắng là 7.000USD/người/năm. Số ít những người da đen giàu có thu nhập

tăng tới 30% kể từ năm 1994 tới nay. Ngược lại, khoảng 45% số người da đen ở tốp dưới có thu nhập
giảm xấp xỉ 10%. [4]
4
 Trình độ dân cư khá cao so với các nước trong khu vực, tuy nhiên sự phân hóa giàu nghèo giữa
các thành phần dân cư cũng đang là vấn đề bức xúc.
Môi trường kinh tế:
Một góc Johannesburg, thành phố lớn nhất của Cộng hòa
Nam Phi
1.Các chỉ số kinh tế thương mại, đầu tư cơ bản
GDP (2004): 162,1 tỉ USD
GDP (PPP)/người (2004): 11.100 USD
5
Tỉ lệ lạm phát (2004): 4,5%
Tỷ lệ thất nghiệp (2004): 26,2%
Thu chi ngân sách 2004:
- Thu ngân sách: 47,43 tỷ USD
- Chi ngân sách: 42,54 tỷ USD
Nợ nước ngoài (2004): 27,42 tỷ USD
Năm tài chính : 1/4-31/3
Tỷ giá hối đoái (2004): rand/US dollar = 6.4597
Mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp (2004): 5,5%
Sản xuất và tiêu thụ điện năng (2002):
- Sản xuất: 202,6 tỷ kWh
- Tiêu thụ: 189,4 tỷ kWh
Các sản phẩm nông nghiệp chủ đạo: ngô, lúa mì, mía đường, hoa quả, các loại rau, cừu, thịt cừu, lông
cừu, gia cầm, các sản phẩm sữa
6
2. Kinh tế
Kinh tế Nam Phí chịu ảnh hưởng nhiều của kinh tế Mỹ, nhất là sau sự kiện 11/9. Bên cạnh đó, khủng
hoảng tài chính ở Achentina và diễn biến phức tạp của nền kinh tế, chính trị Zinbabwe cũng có tác

động đến nền kinh tế Nam Phi.
Kinh tế Nam Phi đã trải qua một thời kỳ quá độ trong suốt 50 năm qua. Ngày nay, lĩnh vực sản xuất
và dịch vụ tài chính đã trở thành hai lĩnh vực kinh tế lớn nhất của đất nước. Mỗi lĩnh vực này đóng
góp cho GDP lớn cấp 2 lần so với khai khoáng và nông nghiệp cộng lại. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên
khoáng sản giàu có của đất nước vẫn giữ một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế về mặt tạo
công ăn việc làm, xuất khẩu và thu ngoại tệ. Mặc dù nền kinh tế Nam Phi khá nhỏ (chiếm 0,5%) GDP
của toàn thế giới), nhưng vẫn là nền kinh tế vượt trội nhất của Châu Phi, chiếm là ¼ GDP của cả châu
lục. Nền công nghiệp và tài chính hiện đại của Nam Phi được hỗ trợ bởi hệ thống viễn thông, đường
sá, cầu cảng rất phát triển. Tỉnh Gauteng là tỉnh đầu tầu của nền kinh tế. đóng góp khoản 37 %GDP
toàn quốc.
3.Về cơ cấu kinh tế
Nam Phi có GDP lớn nhất Châu Phi, trong đó sản xuất chiếm 23,9% của toàn châu lục, tài chính và
kinh doanh dịch vụ 19%, thương mại 16,1%, khai khoáng 7,8%, vận tải và truyền thông 7,8%, nông
lâm nghiệp và nghề cá 4,5%, điện khí nước 3,9% và các ngành khác là 14,1%
GDP của Nam Phi lớn gấp bốn lần các nước miền Nam Châu Phi bằng 25% GDP của toàn Châu Phi.
Nam Phi đứng đầu châu lục về sản lượng công nghiệp (chiếm 40%), sản xuất khoáng sản (chiếm
45%) và sản lượng điện (chiếm hơn 50%).
Sức mạnh của nền kinh tế Nam Phi còn được thể hiện ở hạ tầng cơ sở hiện đại và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên khổng lồ như vàng, kim cương, than đá và bạch kim... Hầu hết thị trường kim
7
cương thế giới được kiểm soát từ đây. Bên cạnh đó, Nam Phi còn có nền công nghiệp cơ khí đang
phát triển mạnh mẽ và ngành du lịch có tiềm năng lớn.
Nam Phi có khối lượng hàng vận chuyển bằng đường hàng không lớn hơn cả phần còn lại của Châu
Phi cộng lại, diện tích đường rải nhựa lớn gấp 15 lần so với mức trung bình của Châu Phi tính trên
1000 km
2
đất, gấp 10 lần về đường ray xe lửa với cách so sánh trên và chiếm gần 60% tổng số thuê
bao điện thoại của toàn châu lục.
Bốn trung tâm kinh tế của Nam Phi bao gồm: tỉnh Gauteng (Johannesburg), tỉnh KwaZulu – Natal
(Durban), tỉnh miền Tây (Cape Town) và tỉnh miền Đông (Port Elizabeth/ Uitenhage). Tuy nhiên,

trung tâm tài chính và công nghiệp của Nam Phi tập trung chủ yếu tại tỉnh Gauteng. Tỉnh này đóng
góp 37% cho tổng GDP của cả nước
Theo đánh giá của IMF, nếu GDP của Nam Phi tăng 1% sẽ góp phần tạo nên mức tăng trưởng từ 0,4
đến 0,75% GDP của toàn châu Phi do đóng góp của Nam Phi trong các lĩnh vực đầu tư, chuyển giao
công nghệ và đào tạo nghề.
Một số chỉ số kinh tế, thương mại cơ bản của Nam Phi (1999-2004)
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
GDP(tỷ USD) 130,9 127,8 114 104,5 156,9 162,1
Mức tăng trưởng GDP
(%/năm
2 3,5 2,8 3 1,9 3,7
Dân số (triệu người) 43 43,7 44,3 45 45,7 45,8
Xuất khẩu (FOB, triệu USD) 28.62
6
31.63
6
30.71
7
31.08
5
36.773,
4
45.929,6
Nhập khẩu (FOB, triệu USD) 24.55
4
27.32
0
25.85
5
26.71

2
33.901,
3
40.130,1
Tổng nợ nước ngoài (tỷ USD) 23,9 24,9 24 24,4 25,9 27,427
Tỷ giá trung bình (Rand/USD) 6,12 6,95 8,63 10,52 7.53 6,45
(Nguồn: EIU)
Nhờ ưu thế về kỹ thuật, công nghệ cùng với chính sách tự do hóa thương mại, Nam Phi trở thành
nước lớn nhất đầu tư vào Châu Phi. Các tập đoàn siêu quốc gia của Nam Phi như Sasol (hóa chất),
Sapi (giấy), MTN (viễn thông) và Angogold (khai thác vàng) đều có dự án đầu tư tại các nước thuộc
Châu Phi.
Do ảnh hưởng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trước dây, kinh tế Nam Phi là một trong những nền
kinh tế bất bình đẳng lớn nhất trên thế giới. Đây là lý do một nước lại tồn tại song song hai nền kinh
tế khác nhau: nền kinh tế của thế giới thứ nhất và nền kinh tế của thế giới thứ ba. Thế giới thứ nhất sở
hữu hệ thống cơ sở hạ tầng, cầu cảng tiên tiến. Hệ thống dịch vụ cao cấp, đặc biệt trên lĩnh vực tài
chính, bảo hiểm, ngân hàng, hệ thống viễn thông và năng lượng. Thị trường chúng khoán
8
Johannesburg ở Nam Phi đã ra đời hơn 100 năm nay và là một trong 20 thị trường chứng khoán lớn
nhất thế giới. Nam Phi có rất nhiều tập đoàn lớn tầm cỡ quốc tế như SASOL, ESKOM, TELKOM,
VODACOM, SAPI, DENEL... Nền kinh tế Nam Phi là nền kinh tế mở. Do tính chất này, Nam Phi dễ
bị ảnh hưởng một khi các nước có quan hệ buôn bán chủ lực với Nam Phi như Mỹ, EU, các nước
Viễn Đông có biến động.
Hệ thống dường bộ, cầu cảng, sân bay hiện đại cùng với vị trí chiến lược nằm Ở cực Nam Châu Phi
đã giúp Nam Phi trở thành cửa nhà chiến lược vào khu vực nói riêng và cả châu lục nói chung. Là
một nước năm trên lục địa Châu Phi, sự phát triển của kinh tế Nam Phi không thể tách rời sự phát
triển chung của Châu Phi.
Nam Phi là một trong những nước khởi xướng và sáng lập ra chương trình "Đối tác mới vì sự phát
triển của Châu Phi - NEPAD" và thành viên sáng lập "Liên minh Châu Phi - AU". Với tiềm lực kinh
tế khá mạnh trong khối các nước đang phát triển, Nam Phi trở thành một trong những nước giữ vai trò
đứng đầu thế giới thứ ba cùng với Braxin, Trung Quốc và ấn Độ.

 Từ những nhận định trên ta có thể thấy được những điểm sáng của nền kinh tế Nam Phi
- Sở hữu cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng tiên tiến,
- Dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực khai thác mỏ;
- Nền công nghiệp sản xuất khá đa dạng;
- Thị trưởng viễn thông bùng nổ;
- Mạng lưới giao thông hiện đại;
- Công nghiệp năng lượng phát triển.
- Công nghiệp hóa chất rất năng động
- Ngành du lịch tiềm năng.
 Một số thách thức đối với sự phát triển kinh tế Nam Phi trong giai đoạn sắp tới
- Sự thiếu hụt lao động có tay nghề.
- Tỷ lệ tiết kiệm rất thấp so với thế giới
- Khoảng cách giầu nghèo còn quá lớn, đặc biệt là giữa người da đen và người da trắng.
- Nạn thất nghiệp trên 30%.
- Nạn dịch AIDS/HIV gây tác động lớn tới lực lượng lao động.
9
- Năng suất lao động Nam Phi còn thấp, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, cộng thêm việc
Chính phủ chuyển trọng tâm vào việc tạo công ăn việc làm lên trên lợi nhuận và chính sách Trợ
quyền cho người da đen (BEE) được coi là những rủi ro trong kinh doanh.
Môi trường chính trị và luật pháp:
Thủ đô: Pretoria.
Các thành phố chính: Cape Town (Trung tâm lập pháp) và Bloemfontein (Trung tâm hành pháp).
Cơ cầu chính quyền: Theo chế độ dân chủ cộng hòa.
Đứng đầu nhà nước: Tổng thống Thabo MBEKI (kể từ 16/6/1999); phó tổng thống, Jacob ZUMA (từ
17/6/1999); Tổng thống vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu chính phủ.
Nội các: Nội các được bổ nhiệm bởi Tổng thống.
Các đảng phái chính trị chính:
• Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo Phi (ACDP) [ Chủ tịch: Kenneth MESHOE];
• Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC) [ Chủ tịch: Thabo MBEKI];
• Đảng Liên minh Dân chủ (DA) [ Chủ tịch: Anthony LEON];

• Đảng tự do Inkatha (IFP) [ Chủ tịch: Mangosuthu BUTHELEZI];
• Đảng Dân tộc mới (NNP) [Chủ tịch: Marthinus VANSCHALKWYK];
• Đảng Đại hội Pan Phi (PAC) [ Chủ tịch: Stanley MOGOBA];
• Liên đảng Dân chủ Vận động (UDM) [Chủ tịch: Bantu HOLOMISA]
Hệ thống pháp luật: Dựa trên hệ thống pháp luật của Hà Lan và Anh.
Hệ thống chính trị: Hình thức điều hành - cộng hoà. Người đứng đầu quốc gia - Tổng thống. Người
đứng đầu chính quyền - thủ tướng. Cơ quan lập pháp - Nghị viện. Phân chia hành chính lãnh thổ: 9
tỉnh.
10
Nam Phi xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô dựa trên ba mục tiêu chính:
- Phát triển kinh tế.
- Tạo công ăn việc làm.
- San lấp khoảng cách bất bình đẳng giữa người da đen và người da trắng do chế độ phân biệt
chủng tộc để lại.
 Chính sách nêu trên có tên gọi bằng tiếng Anh là GEAR (Growth. Phát triển. Employment: tạo
công ăn việc làm And: và Resdistribution: phân phối lại). Với chính sách này, Nam Phi được
đánh giá là một trong những nước có chính sách vĩ mô được ngân hàng Thế giới (WB) đánh
giá cao xa, chưa bao giờ có khủng hoảng về nợ hoặc tài chính.
Chính sách về sự cạnh tranh và đầu tư
Đạo luật quy định về việc cạnh tranh vào năm 1998 (Điều 89 của năm 1998), bắt đầu có hiệu lực vào
ngày 1/12/1999, có nội dung quy định về việc cạnh tranh hoàn toàn trái ngược với các thông lệ cũ,
loại bỏ việc lạm dụng ưu thế và đẩy mạnh việc quản lý liên doanh. Đạo luật này đã tạo nên ủy Ban và
Toà án giải quyết tranh chấp cùng Tòa án phúc thẩm về việc tranh chấp để thay cho Hội đồng giải
quyết tranh chấp trước đó. Quy định của đạo luật này được áp dụng để cấm một số điều trong thực
tiễn kinh doanh như sau:
- Cấm các thủ đoạn trong kinh doanh, các thủ đoạn gây trở ngại cho việc cạnh tranh lành mạnh giữa
nhà cung cấp và khách hàng. Các các thủ đoạn này bao gồm sự cố định về mức giá, sự thông đồng
trong quá trình đấu thầu, việc hạn chế năng suất, hạn chế đầu tư và phân chia thị trường.
- Cấm việc lạm dụng lợi thế, mà theo như quy định của đạo luật này, được xác định là việc chiếm từ
35 % thị phần trở lên.

Từ chính luật thứ hai vào năm 2000, (Luật 39 trong năm 2000) quy định về vấn đề tranh chấp, chịu
trách nhiệm trực tiếp đối với các thiếu sót trong việc thực hiện ở năm đầu tiên của Đạo luật quy định
việc tranh chấp năm 1998.
Từ chính luật thứ hai vào năm 2000, (Luật 39 trong năm 2000) gây ra một loạt những thay đổi, trong
đó sự thay đổi lớn nhất là việc xoá bỏ phần 3 (1) (d), cũng như việc bổ sung một số các điều khoản
quy định rằng chỉ có Bộ trưởng mới được phép thay đổi ngưỡng quản lý sự liên doanh liên kết cùng
sự lạm dụng ưu thế mỗi giai đoạn 5 năm.
Phần 3 (1) (d) được điều chỉnh nhằm phục vụ cho quyền xét xử xảy ra đồng thời đối với các vấn đề
tranh chấp giữa quyền được cạnh tranh và những điều chỉnh trong ngành. Thêm vào đó, Bộ trưởng
chính phủ bây giờ sẽ có quyền thay đổi ngưỡng quản lý sự liên doanh liên kết cùng việc lạm dụng ưu
thế bất kỳ lúc nào chúng phát sinh.
Bên cạnh đạo luật này, các luật lệ mới cho các tiến trình trong ủy Ban giải quyết tranh chấp và Tòa án
giải quyết tranh chấp, cho những ngưỡng mới của việc liên doanh liên kết và các thành tựu đạt được,
cũng như cho các hình thái mới, sẽ trở nên có hiệu lực.
11
Với danh nghĩa là các quy tắc mới, ngưỡng thấp hơn của việc liên doanh liên kết đã tăng từ 50 triệu
rand đối với doanh số hàng năm trên giá trị tài sản lên 200 triệu, và tỉ lệ giá trị phân xưởng của ngành
cơ bản /giá trị tài sản cho tới thời điểm này tăng từ 5 triệu rand lên 30 triệu rand.
Thêm vào đó, chi phí cho việc khai báo thành lập liên doanh đã được đơn giản hóa và giảm thiểu
đáng kể. Mức phí đơn cho các liên doanh mới thành lập là 75 000 rand vừa được đưa ra. Trước khi có
đạo luật bổ sung này thì mức phí trên đựơc bố trí từ 5 000 rand đến 250 000 rand. Phí cho việc thành
lập các liên doanh quy mô được chia đôi, từ 500 000 rand xuống còn 250 000 rand.
Các vấn đề luật pháp liên quan tới hàng hoá xuất nhập khẩu
- Bảo vệ bản quyền
Các quyền sở hữu, trong đó bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ bằng nhiều nguồn luật và
quy định khác nhau. Nam Phi có một hệ thống tư pháp độc lập theo đó tất cả sự vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ đều có thể xảy ra không dính líu đến chính trị.
Có thể đăng ký bằng sáng chế theo Đạo luật bằng sáng chế 1978 và có hiệu lực trong vòng 20 năm.
Nhãn hiệu thương mại có thể đăng ký theo Đạo luật nhãn hiệu thương mại 1993, có thời hạn 10 năm
và có thể xin gia hạn thêm 10 năm. Các kiểu mẫu thương mại mới có thể đăng ký theo Đạo luật về

kiểu mẫu thương mại 1967, có bản quyền trong năm năm. Bản quyền tác giả các tác phẩm văn học,
âm nhạc và các tác phẩm nghệ thuật, phim truyền hình ... tuân theo các quy định về bản quyền theo
Đạo luật bản quyền 1978. Đạo luật này dựa trên các điều khoản của Hiệp ước Berne được sửa đổi tại
Paris năm 1971 và được sửa đổi năm 1992 có đề cập đến phần mềm máy tính. Bản đăng ký bản
quyền, nhãn hiệu thương mại, kiểu mẫu thương mại và bằng sáng chế của Bộ thương mại có trách
nhiệm thực hiện các đạo luật này.
Nam Phi là một thành viên của Hiệp hội Paris và đã tán thành chủ đề Stockholm trong Hiệp ước Paris
về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp. Nam Phi cũng là một thành viên của Tổ chức bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Chính phủ đã thông qua hai luật có liên quan đến IPR trong thượng viện
vào cuối năm 1997 - Luật đối với hàng giả và Luật sửa đổi luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, do đó đã
cải tiến các quy định về bảo vệ IPR.
Mặc dù các luật lệ và quy định của Nam Phi về IPR tuân theo các quy định TRIPS (Bảo vệ sở hữu trí
tuệ liên quan đến thương mại), vẫn có nhiều người lo lắng về việc vi phạm bản quyền ngày càng tăng
và làm giả nhãn hiệu thương mại. Chính phủ Nam Phi đã nỗ lực tìm ra cách nâng cao nhận thức và
đảm bảo rằng tất cả các văn phòng chính phủ ở Nam Phi đều sử dụng các phần mềm hợp pháp. Gần
đây chính phủ Nam Phi đã có những bước đi tích cực nhằm thực hiện chiến lược của Đạo luật về
hàng giả năm 1997, làm cho nó có hiệu lực pháp lý hơn. Nam Phi cũng cần phải làm cho các quy định
về IPR phù hợp hơn với các quy định của TRIPS.
Biện pháp quản lý xuất nhập khẩu
Nam Phi là một thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và tuân theo Hệ thống điều hoà
thuế quan (HS) đối với việc phân loại nhập khẩu. Hàng hóa vận chuyển bằng đường biển của Nam
Phi tuân theo hệ thống ưu đãi chung (GSP) và đạo luật về Cơ hội và Phát triển của Nam Phi.
12
Có sự trao đổi thương mại tự do giữa Nam Phi và bốn nước khác (Botswana, Lesotho, Namibia, và
Swaziland) tạo thành liên minh thuế quan Bắc Phi (SACU). Cho đến năm 2008 giữa Nam Phi và EU
cũng sẽ có mối quan hệ thương mại tự do sau Hiệp định thương mại tự do giữa hai bên. Cộng đồng
phát triển Nam Phi (SADC) cũng sẽ cho phép thực hiện thương mại tự do giữa 14 nước trong khu vực
khi Hiệp định thương mại tự do giữa các nước này có hiệu lực thực sự.
- Hàng rào thương mại
Các thương nhân đều phải tuân theo các quy định kiểm soát trao đổi ngoại hối, do ngân hàng dự trữ

Nam Phi quy định. Bộ thương mại và công nghiệp cũng có quyền quy định, cấm hoặc hạn chế hàng
hoá nhập khẩu vào Nam Phi vì lợi ích quốc gia nhưng hầu hết hàng hoá nhập vào Nam Phi không
phải chịu hạn ngạch. Giấy phép nhập khẩu chỉ cần thiết đối với một số danh mục hàng hoá đặc biệt và
do Ban xuất nhập khẩu cấp. Nhà nhập khẩu phải có giấy phép nhập khẩu trước khi nhận hàng. Nếu
không có giấy phép nhập khẩu có thể sẽ bị phạt
- Kiểm soát xuất khẩu
Nhiều hàng hoá phải tuân theo các quy định kiểm soát xuất khẩu và cấp giấy phép, như các mặt hàng
thuộc lĩnh vực quân sự, tài nguyên đang cạn kiệt, rác thải kim loại và phế liệu. Kim cương dành cho
xuất khẩu phải đăng ký với Ban kim cương SA. Các mặt hàng dầu khí không có sự kiểm soát giá cả
được sản xuất ở các nhà máy chất đốt được phép xuất khẩu. Đà điểu sống và trứng đã được thụ tinh
của chúng bị cấm xuất khẩu.
 Việc trao đổi và giao thương buôn bán giữa các nước trong khu vực và các khối kinh tế gặp
nhiều thuận lợi.
Giấy phép nhập khẩu
Luật Kiểm soát nhập khẩu và xuất khẩu của Nam Phi năm 1963 cho phép Bộ Thương mại và Công
nghiệp nghiêm cấm, hạn chế cũng như kiểm soát hàng nhập khẩu vì lý do an ninh, môi trường và sức
khoẻ và đảm bảo quy định kỹ thuật về chất lượng tối thiểu. Trong một vài năm gần đây, danh mục
các mặt hàng bị hạn chế nhập khẩu cần phải có giấy phép nhập khẩu đã giảm đi đáng kể, điều này
chứng tỏ chính sách của Bộ Thương mại và Công nghiệp (DTI) không bảo vệ các ngành công nghiệp
trong nước bằng các rào cản phi thuế quan.
Những mặt hàng cần phải có giấy phép nhập khẩu là cá và các sản phẩm từ cá, hàng đã qua sử dụng,
phế liệu, chất thải, tro hoả táng, chất cặn bã, dầu mỏ, hoá chất huỷ hoại tầng ôzôn, vũ khí và đạn
dược, thiết bị dùng cho đánh bạc và các nguyên tố hoá học phóng xạ. DTI đang dần huỷ bỏ Giấy phép
nhập khẩu thay vào đó là đánh thuế. DTI đang phát triển một hệ thống cung cấp giấy phép tự động và
kết nối DTI với hải quan và với những người muốn xin giấy phép nhập khẩu để làm đơn giản hoá quá
trình thông quan và khai báo hải quan. Giấy phép nhập khẩu phải được cấp từ ban lãnh đạo về xuất
khẩu và nhập khẩu trước ngày gửi hàng.
 Cho thấy chính sách của chính phủ trong việc làm đơn giản hóa các thủ tục nhập khẩu bằng
thuế quan, thuận lợi cho các nhà xuất khâu của nước ngoài.
Yêu cầu về nhập khẩu ôtô và các phương tiện có động cơ

13
Cục thuế và hải quan Nam Phi quy định thêm một số thông tin vào Dự luật nhập khẩu đối với ôtô và
các phương tiện có động cơ vận chuyển qua Durban sang các nước trên thế giới, các nước liên minh
hải quan chung và nội địa.
Dưới đây là danh mục về các chi tiết phương tiện cần phải được thông quan:
- Kiểu dáng và số seri
- Năm sản xuất
- Số động cơ
- Khung gầm/ số VIN
- Loại phương tiện (chẳng hạn như xe ôtô mui kín, xe tải)
- Màu sắc
- Format(chẳng hạn như lắp ráp hoàn toàn)
- Tình trạng (chẳng hạn như mới tinh hoặc đã qua sử dụng)
- Giá trị
- Trọng lượng
- Công suất xylanh
- Động cơ xăng hay diesel
ôtô và các phương tiện có động cơ sẽ không được thông quan nếu không có đầy đủ các thông tin yêu
cầu trên.
Những mặt hàng bị cấm nhập khẩu vào Nam Phi
- Ma tuý hoặc thuốc gây nghiện ở bất kỳ hình thức nào.
- Vũ khí không số, dùng trong quân đội và hoàn toàn tự động, chất nổ và pháo.
- Các chất, tài liệu, đồ kích thích và kiêu dâm.
- Các chất, tài liệu, đồ gây phản và kích động.
- Thuốc độc và các chất độc hại khác.
- Thuốc lá với khối lượng nhiều hơn 2kg/1000.
- Những mặt hàng được kinh doanh hoặc nhãn hiệu đăng ký bị vi phạm luật (chẳng hạn như hàng giả)
- Các bản sao chép bất hợp pháp của bất kỳ một tác phẩm nào có bản quyền.
- Các mặt hàng do các nhà tù làm ra.
14

×