Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.61 KB, 3 trang )
Ngân hàng quốc doanh: vốn điều lệ ít, tỷ lệ
an toàn vốn thấp
Trong nỗ lực hội nhập của mình, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
có nhiều cố gắng như việc triển khai hệ thống thanh toán điện tử,
áp dụng nhiều hệ thống kế toán tiêu chuẩn quốc tế... được nhiều tổ
chức tín dụng quốc tế đánh giá cao, đi đến hợp tác triển khai các dự
án tín dụng cũng như dịch vụ.
Tuy nhiên, có một điểm yếu của các ngân hàng Việt Nam mà các tổ chức tín dụng quốc tế
luôn lưu ý là tỷ lệ an toàn vốn đang ở mức thấp. Mặc dù đã được cấp bổ sung vốn, nhưng
cả 5 ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam (cũng là 5 ngân hàng lớn nhất nước),
gồm: Công thương, NN&PTNT, ĐT&PT, Ngoại thương, Phát triển Nhà ĐBSCL, mới có
tổng vốn điều lệ khoảng hơn 15.000 tỷ đồng (chưa đạt tới 1 tỷ USD); chỉ chiếm 4% trên
tổng tài sản. Con số này rất khiêm tốn so với yêu cầu 8% thông lệ quốc tế. Trong khi đó, số
nợ quá hạn của các ngân hàng này lại khá cao và chưa được xử lý dứt điểm, nên hoạt động
của các ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế.
Theo các chuyên gia, để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế thì tốc độ tăng trưởng
của các ngân hàng trung bình phải đạt 25%; tốc độ cho vay đối với nền kinh tế phải ở mức
20%. Muốn thế, các ngân hàng quốc doanh cần phải nâng mức vốn tự có lên khoảng
60.000 tỷ vào năm 2010 không chỉ đủ sức huy động vốn một cách an toàn mà hoàn toàn có
thể yên tâm về tỷ lệ 8% vốn tự có trên tổng tài sản theo thông lệ quốc tế.
Trong mấy năm gần đây, tất cả các ngân hàng đều tự cải cách để tăng vốn điều lệ. Điều đó
có thể nhận thấy rõ nhất ở các ngân hàng cổ phần khi hầu hết đều quyết định tăng vốn điều
lệ. Ngân hàng lớn như ACB, SACOMBANK thì hướng tới con số hơn 1.000 tỷ đồng và
tiến tới đưa cổ phiếu ra niêm yết. Ngân hàng nhỏ hơn như VIB lên mức 250 tỷ đồng trong
1-2 năm tới. Các ngân hàng quốc doanh cũng đang trong quá trình này khi được Chính phủ
quyết định cấp thêm vốn điều lệ. Tuy nhiên, Tổng giám đốc một ngân hàng quốc doanh đã
cho rằng, các ngân hàng cổ phần đang thuận lợi và linh hoạt hơn các ngân hàng quốc
doanh trong việc tăng vốn điều lệ vì họ chủ động trong việc phát hành cổ phiếu và huy
Dịch vụ ngân hàng
ngày càng phổ biến
động vốn từ nhiều nhà đầu tư tự do; còn ngân hàng quốc doanh không thể làm được điều