Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN DO GÂY THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.53 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng được quy định khá cụ
thể trong BLDS 2005. Tuy nhiên, trách nhiệm này không phải trong mọi trường hợp đều
được đặt ra cho người trực tiếp gây thiệt hại. Việc tìm hiểu những quy định của pháp luật
về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về
ai trong từng trường hợp cụ thể, đảm bảo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, bảo
vệ lợi ích cho người bị thiệt hại.
NỘI DUNG
A. TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của
pháp luật thế giới cũng như pháp luật Việt Nam. Kế thừa những quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, pháp luật dân sự ngày
nay đã có những quy định khá chi tiết về vấn đề này, cụ thể tại Điều 307 về trách nhiệm
bổi thường thiệt hại nói chung và chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm BTTH mà chỉ
nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm,

Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lí, ta có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một
loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lí của
mình, gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra 1.
Trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng là một loại trách nhiệm BTTH. Khái niệm về
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng chỉ được xây dựng dưới dạng quan điểm mà
chưa được ghi nhận chính thức trong bất cứ một văn bản pháp luật nào. Theo đó, trách
nhiệm BTTH ngồi hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự theo đó, người
có hành vi trái pháp luật dân sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

ThS. Nguyễn Minh Oanh – Khoa pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội, Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1


1


Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi chủ thể luật dân sự có hành vi
vi phạm nói chung như xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra, trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng còn phát sinh ngay cả khi hai bên có quan hệ hợp đồng trong trường hợp
gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại
xảy ra không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
Là một loại trách nhiệm dân sự nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm dân sự
nói chung, trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng cịn có những đặc điểm riêng như:
-

Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn những điều kiện nhất
định do pháp luật quy định, giữa các bên khơng có quan hệ hợp đồng, thiệt hại xảy ra
không liên quan đến hợp đồng.

-

Thiệt hại xảy ra rất đa dạng.

-

Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản, hậu quả pháp lí mà người
gây thiệt hại phải gánh chịu là hậu quả bất lợi về tài sản.

-

Người gây thiệt hại phải bồi thường trong một số trường hợp khơng có lỗi.


2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp
luật quy định. Các điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra; hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra; có lỗi.
Lỗi khơng phải là điều kiện bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng,
trong một số trường hợp, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người
gây thiệt hại khơng có lỗi (Khoản 3 Điều 623, Điều 624 BLDS 2005).
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Việc BTTH ngoài hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau:
-

Thiệt hại phải được bồi thường tồn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức
bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công
việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.

2


-

Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

-

Khi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người
gây thiệt hại có quyền u cầu tịa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi
mức bồi thường.


B. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN
DO GÂY THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
I - Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
Người gây thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà
nước,… Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và
chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể
khơng phải do chính họ thực hiện. BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH
của cá nhân (Điều 606) mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Bởi vậy, các chủ thể khác được mặc nhiên coi là có năng lực chịu trách nhiệm BTTH.
Việc xác định cá nhân nào có năng lực chịu trách nhiệm BTTH và phải BTTH trong
trường hợp nào có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thiệt hại.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật
quy định. Khi có thiệt hại xảy ra, thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật, có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi thì trong đa số trường
hợp, người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau như người gây thiệt hại bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, khơng có tài sản hoặc có tài sản nhưng khơng đủ để thực
hiện trách nhiệm bồi thường mà người gây thiệt hại không thể trực tiếp bồi thường cho
người bị thiệt hại. Vậy, câu hỏi đặt ra là ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường trong
những trường hợp trên?
Pháp luật cũng đã dự liệu cách giải quyết cho những tình huống này. Trong từng
hoàn cảnh cụ thể, luật dân sự xác định trách nhiệm BTTH thuộc về cha, mẹ của người

3


gây thiệt hại là người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, người giám hộ của người gây
thiệt hại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,… Cá thể hóa
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng là việc xác định người có trách nhiệm

bồi thường thiệt hại chính trong từng trường hợp gây thiệt hại cụ thể bất luận người đó
có phải là người trực tiếp gây ra thiệt hại hay không.
Việc cá thể hóa trách nhiệm bồi thường chính là việc quy trách nhiệm bồi thường
cho một chủ thể cụ thể. Đây là việc làm có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong vấn đề
BTTH ngồi hợp đồng. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ giúp cho việc giải
quyết vấn đề bồi thường thiệt hại diễn ra dễ dàng hơn, xác định đúng người có trách
nhiệm bồi thường sẽ tạo ra tính khả thi cho cơng tác thi hành án sau này; cá thể hóa trách
nhiệm để xác định trách nhiệm thuộc về ai giảm bớt nguy cơ việc lạm dụng việc mất
năng lực hay không đầy đủ khả năng nhận thức của người khác mà kích động họ gây
thiệt hại cho người khác và thu lợi bất chính, đồng thời nâng cao tinh thần, trách nhiệm
của những người có nghĩa vụ trơng nom, giáo dục những người khơng có năng lực hành
vi hoặc có năng lực hành vi một phần.
Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường có thể dựa trên những tiêu chí nhất định như
độ tuổi và trình độ nhận thức. Cụ thể:
-

Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ gây thiệt hại thì phải tự mình BTTH.

-

Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, do đó khi người chưa thành niên gây
thiệt hại cần lưu ý:
+ Nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà cịn cha, mẹ thì cha, mẹ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại bằng tài sản của mình; nếu tài sản của cha mẹ
khơng đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì
lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
+ Nếu người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản
của mình; nếu khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần
cịn thiếu bằng tài sản của mình.


-

Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người
giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi

4


thường; nếu người được giám hộ khơng có tài sản hoặc khơng đủ tài sản để bồi
thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ
chứng minh được mình khơng có lỗi trong việc giám hộ thì khơng phải lấy tài sản của
mình để bồi thường.
-

Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian
trường học, bệnh việc, tổ chức khác trực tiếp quản lí thì các tổ chức này phải BTTH.
Nếu tổ chức này chứng minh được mình khơng có lỗi thì cha mẹ người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự phải BTTH.

II - Năng lực bồi thường thiệt hại của người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Khoản 1 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường”, tuy nhiên, qua việc xem xét mối liên hệ giữa quy định
này với quy định tại Khoản 3 Điều 606 thì thấy rằng cá nhân có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ thì phải tự bồi thường nếu gây thiệt hại.
Điều 19 về năng lực hành vi dân sự của người thành niên quy định: “Người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23
của Bộ luật này”. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người thành
niên nếu không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình mà bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự; khơng
nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình mà

bị Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được coi là có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ. Ở mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức
và tự ý thức. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã hội, khả
năng đó mới có thể trở thành hiện thực. Những người đáp ứng đủ các điều kiện trên, xét
về cơ bản tâm sinh lí của họ đều đã phát triền một cách hồn thiện. Họ hồn tồn có đầy
đủ khả năng để nhận thức về sự vật, sự việc, và tự quyết định về hành động của mình,
hồn tồn có khả năng nhận biết được thế giới khách quan. Họ có nghĩa vụ phải biết
trước những hành vi của mình sẽ đem lại những hậu quả như thế nào, hành vi đó có xâm

5


phạm đến lợi ích của các chủ thể khác hay khơng từ đó lựa chọn cách xử sự phù hợp,
đảm bảo cân bằng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích của các chủ thể khác và xã hội.
Việc xác định người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ phải bồi thường cho những thiệt hại mà mình gây ra là hồn tồn phù hợp. Bởi lẽ,
người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đủ điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật do
vây, họ hồn tồn có năng lực để tham gia và trở thành chủ thể của quan hệ BTTH và
nếu là người gây thiệt hại thì họ hồn tồn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi
thường. Ở độ tuổi này, họ đã có khả năng lao động, có thể tạo ra thu nhập, hình thành
khối tài sản riêng của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số những người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là những người mới trưởng thành, họ vẫn cịn đi học, chưa có cơng
việc làm, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn sống phụ thuộc vào cha, mẹ. Vậy,
trong trường hợp những người từ đủ mười tám tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
nhưng khơng có tài sản riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai? Nếu
họ vẫn là những người phải chịu trách nhiệm BTTH thì họ phải thực hiện trách nhiệm đó
như thế nào? Nếu họ khơng thực hiện được thì phải chăng họ phải gánh chịu những hậu
quả pháp lí bất lợi và những người bị thiệt hại cũng không được bồi thường? Đây là một
tình huống xảy ra khá phổ biến trong những vụ về xác định trách nhiệm BTTH ngồi

hợp đồng. Nếu Tịa án áp dụng một cách tuyệt đối và cứng nhắc những quy định của
pháp luật thì sẽ phải hoãn việc thi hành án cho đến khi người gây thiệt hại là người mới
trưởng thành có việc làm, có thu nhập. Tuy nhiên, việc làm này lại trái với nguyên tắc
bồi thường toàn bộ và kịp thời, khơng đảm bảo khơi phục lại tình trạng ban đầu hoặc
khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người bị thiệt
hại trước khi bị xâm phạm. Vậy nên chăng trong trường hợp này Tồ án có thể chủ động
giải thích, khuyến khích cha mẹ người thành niên đó tự nguyện bồi thường thiệt hại do
người mới trưởng thành gây ra. Tồ án có thể cơng nhận sự tự nguyện đó, những về mặt
pháp lý, không thể quyết định cha mẹ họ phải bồi thường. Ngồi ra, trong trường hợp
người thành niên có thu nhập, còn ở chung và chung kinh tế với cha mẹ, mà gây thiệt hại
thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng phần thu nhập thường xuyên của

6


bản thân và phần tài sản chung với cha mẹ. Toà án cần triệu tập cha mẹ họ đến phiên toà
với tư cách là dự sự.
 Năng lực bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại do tài sản của vợ chồng
gây ra
Liên quan đến vấn đề năng lực BTTH của người đã thành niên, có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự, theo ý kiến chủ quan, em xin được đề cập đến vấn đề BTTH ngoài
hợp đồng do tài sản của vợ chồng gây ra. Trên thực tế, có khơng ít những trường hợp tài
sản gây thiệt hại là tài sản thuộc sở hữu chung hoặc riêng của vợ chồng trong thời kì hơn
nhân. Việc xác định trách nhiệm BTTH thuộc về ai trong những trường hợp này vẫn cịn
được ít được nhắc tới.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về tài sản, tài sản của vợ chồng bao
gồm vật, tiền và các quyền tài sản. Tài sản của vợ chồng có thể là động sản hay bất động
sản… Tất cả các tài sản này dựa vào các căn cứ khác nhau mà được phân thành tài sản
chung và tài sản riêng; việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ,
chồng là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng

khi có thiệt hại xảy ra.
Việc xác định trách nhiệm BTTH trong trường hợp thiệt hại do tài sản của vợ
chồng gây ra, bên cạnh việc xem xét các yếu tố để xác định trách nhiệm BTTH còn phải
căn cứ vào các loại tài sản cụ thể để xác định trách nhiệm BTTH. Chính vì vậy, trách
nhiệm BTTH do tài sản của vợ chồng gây ra cần phải được xem xét trên những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, cần phải xác định có căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngồi hợp
đồng hay không khi tài sản của vợ chồng gây thiệt hại. Điều này được xác định dựa trên
các căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, cụ thể: có thiệt hại xảy ra, có
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
và thiệt hại xảy ra, có lỗi (không phải điều kiện bắt buộc).
Thứ hai, cần xác định xem tài sản gây thiệt hại là tài sản chung hay tài sản riêng
của vợ, chồng. Đây là vấn đề quan trọng để chúng ta xác định trách nhiệm BTTH là
trách nhiệm của một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng. Chính vì thế, việc xác định

7


một cách chính xác trách nhiệm của vợ chồng đối với việc BTTH trong trường hợp này
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của vợ
chồng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại.
Thứ ba, mặc dù là trách nhiệm BTTH được xác định là của một bên vợ, chồng
nhưng bên kia đã tự nguyện dùng tài sản chung của vợ chồng để bồi thường hoặc có khi
dùng tài sản riêng của mình để bồi thường cho phía bị thiệt hại, điều này hồn tồn được
chấp nhận, miễn là thiệt hại được bồi thường toàn bộ và kịp thời theo đúng quy định của
pháp luật.
Theo nguyên tắc trách nhiệm thuộc về chủ sở hữu tài sản, trong trường hợp tài sản
gây thiệt hại là tài sản chung của vợ chồng thì trách nhiệm BTTH phát sinh là trách
nhiệm của cả hai vợ chồng. Điều này hồn tồn phù hợp vì đối với tài sản chung hợp
nhất của vợ chồng thì vợ, chồng hồn tồn bình đẳng về căn cứ tạo lập tài sản, bình đẳng

về quyền và nghĩa vụ. Vì lẽ đó, cả hai vợ chồng phải có trách nhiệm BTTH bằng tài sản
chung của mình.
Cũng theo ngun tắc nói trên, khi vợ, chồng có tài sản riêng gây thiệt hại thì
trách nhiệm BTTH lúc này chỉ phát sinh đối với một bên vợ, chồng. Tuy nhiên, trong đời
sống hơn nhân gia đình, thiệt hại này cũng có thể được vợ chồng thỏa thuận bồi thường
bằng tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp này được thể hiện khá rõ trong tình huống
tài sản riêng của vợ, chồng là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng lại do bên còn lại sử dụng
và trong thời gian đó gây thiệt hại cho người khác. Khoản 2 Điều 623 quy định: “Chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra; nếu chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải
bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Cũng liên quan đến vấn đề này, Nghị
quyết 03/2006/NQ – HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về
BTTH ngoài hợp đồng bổ sung: “Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao
nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường
hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại”. Quan hệ giữa chủ sở hữu tài sản và người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp trong

8


trường hợp này phải được thể hiện dưới dạng một hợp đồng thuê, mượn tài sản. Tuy
nhiên, do tính chất đặc thù của quan hệ hơn nhân và gia đình, thơng thường hai bên vợ
chồng thường khơng có thỏa thuận cụ thể về vấn đề này mà một bên để mặc cho bên kia
sử dụng tài sản này vì lợi ích chung. Thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường trong
trường hợp tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ở đây rất khó. Vì vây, nên chăng
trong trường hợp này nên xác định trách nhiệm BTTH là trách nhiệm chung của vợ
chồng, trừ trường hợp người kia sử dụng tài sản riêng của một bên không vì nhu cầu
chung của gia đình mà gây thiệt hại hoặc vợ chồng thỏa thuận người sử dụng tài sản sẽ
phải BTTH khi tài sản gây thiệt hại cho người khác, bất luận tài sản đó là chung hay

riêng.
Xác định trách nhiệm BTTH của vợ, chồng trong các trường hợp tài sản của vợ,
chồng gây thiệt hại cho đến nay cịn khá nhiều phức tạp. Bình thường trong cuộc sống
vợ chồng, ranh giới giữa tài sản chung và tài sản riêng rất mờ nhạt. Khi cuộc sống vợ
chồng hạnh phúc, người ta ít phân định “của anh – của tơi” mà thường “hịa làm một” vì
lợi ích của gia đình. Tuy nhiên, khi động chạm đến quyền lợi, người ta lại ý thức rất rõ
về cái chung, cái riêng để tránh thua thiệt. Vì vậy, việc xác định trách nhiệm BTTH khi
tài sản của vợ chồng gây thiệt hại cần được xem xét một cách thấu đáo và đặt trong từng
trường hợp cụ thể.
III - Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
Điều 18 BLDS 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa
thành niên”. Người chưa thành niên là những người bắt đầu có sự nhận thức về hành vi
của mình, tuy nhiên sự nhận thức này vẫn cịn những hạn chế nhất định. Căn cứ vào độ
tuổi và trình độ nhận thức và khả năng chịu trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, pháp
luật dân sự Việt Nam phân chia người chưa thành niên thành hai nhóm: những người
dưới 15 tuổi và những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo đó, năng lực chịu trách
nhiệm BTTH của hai nhóm này cũng khơng giống nhau.
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên dưới
mười lăm tuổi

9


Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người chưa thành niên dưới mười lăm
tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại; nếu tài
sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản
riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều
621 Luật này”. Như vậy, trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên dưới mười lăm
tuổi gây thiệt hại trước tiên được xác định cho cha, mẹ của người đó.
Căn cứ vào sự phát triển về khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của cá nhân dựa

tên cơ sở về độ tuổi, người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi được phân thành hai
nhóm:
-

Cá nhân chưa đủ 6 tuổi. Những người thuộc nhóm tuổi này khơng thể nhận thức, làm
chủ được hành vi của mình, được coi là những người khơng có năng lực hành vi dân
sự. Họ khơng thể tự mình thực hiện các giao dịch dân sự do khơng nhận thức được
hành vi của mình và hậu quả pháp lí của những hành vi đó. Vì vậy, giao dịch dân sự
của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Cá
nhân ở độ tuổi này cũng ít có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác và
hầu như khơng có năng lực để thực hiện trách nhiệm BTTH do mình gây ra, vì vậy,
cha, mẹ của những người ở độ tuổi này là những người đại diện đương nhiên với tư
cách bị đơn dân sự trước tòa.

-

Cá nhân từ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một
phần. Những người thuộc nhóm tuổi này chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như
về tâm – sinh lí, trình độ nhận thức cịn hạn chế vì vậy khi xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Pháp luật không quy định thế
nào là giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi, tuy
vậy, cần phải hiểu đó là những giao dịch có giá trị không lớn, nhằm thỏa mãn nhu cầu
học tập, sinh hoạt vui chơi trong một giới hạn tài sản nhất định phù hợp với điều kiện
sinh hoạt tại địa phương nơi cá nhân đó sinh sống. Nếu cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa
đủ 15 tuổi tham gia các giao dịch dân sự có giá trị lớn, khơng được sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật thì người đại diện theo pháp luật có quyền u cầu tịa

10



án tun bố giao dịch dân sự đó vơ hiệu. Như vây, ta có thể thấy, sự phụ thuộc của
những người chưa thành niên trong độ tuổi này vào bố mẹ - người đại diện theo pháp
luật hợp pháp vẫn cịn rất lớn.
Điều này một mặt xuất phát từ tính chất nhân đạo của pháp luật đối với những
người chưa thành niên phạm tội hoặc gây những thiệt hại khác, mặt khác đề cao vai trị
quản lí, giáo dục người chưa thành niên của cha mẹ. Cha me, hay nói một cách khái
qt hơn là gia đình có vai trị rất lớn trong việc giáo dục, quản lí người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, đây cũng là đối tượng rất được sự quan tâm của nhà trường và toàn xã hội.
Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, do chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất
cũng như nhận thức nên thường là những đối tượng dễ uốn nắn, dễ bị ảnh hưởng, tác
động từ bên ngoài. Sự giáo dục của cha mẹ trong giai đoạn này có tính chất quyết định
đến việc định hình nhân cách của người chưa thành niên sau này. Người đó sẽ trở thành
một công dân tốt hay xấu phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển trong giai đoạn này. Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vấn đề BTTH do con dưới mười lăm tuổi gây
ra tại Điều 40 như sau: “Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên, con
đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định tại Điều 611 của Bộ
luật dân sự năm 1995”. Ngoài ra, Điều 17 Luật Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em
ngày 12/08/1991 cũng quy định: “Cha mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm dân sự về những thiệt hại do hành vi của những đứa trẻ mình ni
dạy gây ra”. Kết hợp với các quy định tại Điều 609 BLDS 2005 có thể thấy, pháp luật
nước ta rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc BTTH do hành vi
trái pháp luật của con từ dưới mười lăm tuổi gây ra. Chính vì thế, cha mẹ của những
người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự, có nghĩa vụ bồi thường
tồn bộ cho thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con, trong khi chính cá nhân gây thiệt
hại lại hồn tồn khơng có trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, pháp luật cũng dự liệu những trường hợp mà cá nhân gây thiệt hại là
người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, cha mẹ lại không có hoặc khơng đủ khả năng
bồi thường. Trong trường hợp này, nếu con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng
thì lấy tài sản đó để bồi thường. Quy định này không nhằm loại trừ trách nhiệm của cha


11


mẹ. Thực tế, dù cha mẹ có lấy tài sản riêng của con để bồi thường trong trường hợp tài
sản của cha mẹ khơng đủ hoặc khơng có tài sản cũng khơng có nghĩa là trách nhiệm
BTTH đã chuyển sang cho người con. Giả sử người con khơng có tài sản riêng để thực
hiện nghĩa vụ cho phần còn thiếu thì trách nhiệm vẫn ln thuộc về cha mẹ. Như vậy,
trong mọi trường hợp gây thiệt hại trái pháp luật mà khơng có căn cứ loại trừ trách
nhiệm BTTH theo quy định của pháp luật, người bị thiệt hại đều được bồi thường, vấn
đề là trách nhiệm bồi thường đó thuộc về ai mà thơi. Cần phải nói thêm, một lí do tham
khảo nữa khiến luật quy định như vậy là do người chưa thành niên ở độ tuổi này khơng
có hoặc chưa có khả năng lao động. Pháp luật hiện hành quy định độ tuổi lao động từ đủ
mười lăm tuổi trở lên, trừ những công việc liên quan đến năng khiếu, nghệ thuật như
múa, xiếc,… thì mới có người lao động dưới mười lăm tuổi, nhưng hợp đồng lao động
giữa họ và người sử dụng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp
luật cho họ. Chính vì thế, đa số người dưới mười lăm tuổi khơng có thu nhập hoặc tài sản
riêng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại
2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
Khoản 2 Điều 606 quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình”. Như vậy, cùng một điều
luật quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên nhưng lại
có sự khác nhau cơ bản giữa trách nhiệm của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi
và người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Nếu người
dưới mười lăm tuổi, trách nhiệm BTTH được đặt ra trực tiếp với cha, mẹ của cá nhân
gây thiệt hại, cá nhân gây thiệt hại khơng có trách nhiệm bồi thường thì người từ đủ
mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lại phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho những thiệt
hại do hành vi của mình gây ra.
Quy định này trước hết xuất phát từ trình độ phát triển về mặt thể chất và nhận

thức của những cá nhân ở độ tuổi này. Cùng ở trong lứa tuổi chưa thành niên nhưng
những cá nhân từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có sự phát triển hơn hẳn những cá nhân
dưới 15 tuổi. Cụ thể, những người chưa thành niên ở lứa tuổi này đã có sự nhận biết khá

12


hồn chỉnh về thế giới khách quan, có khả năng nhận biết được hành vi nào không gây
thiệt hại và hành vi nào gây thiệt hại cho xã hội, từ đó, lựa chọn cách xử sự hợp lí, phù
hợp với lợi ích cá nhân và lợi ích của các chủ thể khác. Những người trong độ tuổi từ đủ
15 đến dưới 18 đã cơ bản hình thành về mặt nhân cách, nhận thức, khơng cịn dễ uốn nắn
và tác động như người chưa thành niên dưới 15 tuổi. Bên cạnh đó, người từ đủ 15 tuổi
đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự mà khơng cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, ta có thể thấy, cá nhân từ
đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi đã có sự độc lập tương đối so với cha mẹ - những người đại
diện theo pháp luật.
Một lí do nữa lí giải cho quy định này đó là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi
đến dưới 18 tuổi, theo quy định của pháp luật hiện hành thì đã có khả năng lao động.
Những người này, khơng chỉ về suy nghĩ, nhận thức đã có sự tách biệt tương đối với cha
mẹ mà ngay cả tài sản cũng bắt đầu có sự độc lập, tuy sự độc lập này là không lớn. Cá
nhân từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi đã có thể tự mình lao động, từ đó có thu nhập riêng, có
tài sản riêng. Tài sản của họ phần nào đó đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ trong
những giao dịch dân sự do chính bản thân họ xác lập và thực hiện, đồng thời, tạo điều
kiện cho năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên, do những người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi vẫn là những người
chưa thành niên. Xét về mặt năng lực hành vi dân sự thì họ vẫn chưa có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ. Vì vậy, trong trường hợp người chưa thành niên, chưa có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ gây thiệt hại thì khơng thể loại trừ trách nhiệm của cha mẹ, người đại
diện theo pháp luật. Khoản 2 Điều 606 còn quy định thêm người từ đủ 15 tuổi đến chưa

đủ 18 tuổi gây thiệt hại, nếu khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường
phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Quy định này, một mặt nhằm rằng buộc trách
nhiệm pháp lí của cha, mẹ trong việc giáo dục, quản lí đối với con chưa thành niên, mặt
khác, nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị thiệt hại trong trường hợp người chưa thành
niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại nhưng không đủ khả năng bồi thường
toàn bộ.

13


III - Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được giám hộ
Điều 58 BLDS quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi là người
giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”. Tuy nhiên, giám hộ ngoài việc thực hiện
những nghĩa vụ theo luật định đối với người được giám hộ thì cịn có trách nhiệm trong
việc BTTH do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ gây ra. Người được giám
hộ theo khoản 2 Điều 58 bao gồm: “a. Người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ, khơng
xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế quyền của cha ,mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện
chăm sóc giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu; b. Người mất
năng lực hành vi dân sự”.
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được giám hộ là
người chưa thành niên
Người chưa thành niên theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8 thì cần có người
giám hộ. Do vậy, với người chưa thành niên vẫn cịn cha, mẹ và cha, mẹ của họ khơng
rơi vào các trường hợp nêu trên thì họ đương nhiên là đại diện cho con và thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra sẽ được cha mẹ bồi thường theo cách thức bồi thường phân
tích ở mục 2.
Nếu cha, mẹ của người chưa thành niên rơi vào các trường hợp nêu ở điểm a

khoản 2 Điều 58, người chưa thành niên gây thiệt hại phải bồi thường thì trách nhiệm
pháp lí trong khi thực hiện việc giám hộ của người giám hộ được đặt ra, trong đó có
trách nhiệm BTTH.
Người giám hộ được chia thành hai loại: giám hộ đương nhiên và giám hộ cử.
Người giám hộ đương nhiên được xác định dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc nuôi dưỡng nhằm ràng buộc trách nhiệm giữa những người thân thích, ruột thịt
trong gia đình với nhau. Người giám hộ đương nhiên khơng có quyền từ chối trách
nhiệm giám hộ của mình, họ phải chịu trách nhiệm về những hành vi do người được
giám hộ gây ra. Thứ tự các thành viên trong gia đình được pháp luật quy đinh làm người

14


giám hộ đương nhiên cho người chưa thành niên, có nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, có trách nhiệm trong việc để người
được giám hộ gây thiệt hại phải bồi thường sẽ được thực hiện như sau:
Trước hết là trách nhiệm của anh cả, chị cả đã thành niên đủ điều kiện làm người
giám hộ. Nếu anh cả, chị cả khơng đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông, bà nội, ông,
bà ngoại là người giám hộ. Trong trường hợp tất cả những người nêu trên khơng có đủ
điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cơ, dì là người giám hộ. Nếu khơng có
người giám hộ đương nhiên thì sẽ phải cử người giám hộ. Việc cử người giám hộ phải
được sự đồng ý của người đó để đảm bảo họ ln thực hiện tốt trách nhiệm giám hộ trên
tinh thần tự nguyện, tự giác. Theo quy định tại khoản 3 Điều 606 thì khi người được
giám hộ gây thiệt hại cho người khác, người giám hộ có trách nhiệm dùng tài sản của
người được giám hộ để bồi thường thiệt hại, chỉ trong trường hợp người được giám hộ
khơng có tài sản hoặc khơng đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải lấy tài sản
của mình để bồi thường. Quy định này được thực hiện để bảo đảm nguyên tắc bồi
thường tồn bộ và kịp thời, khơi phục thiệt hại của người bị thiệt hại, đồng thời ràng
buộc trách nhiệm của người giám hộ trong việc giám hộ.
Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm BTTH của người chưa thành niên từ đủ 15

đến dưới 18 tuổi có người giám hộ lại khác về cơ bản so với quy định về trách nhiệm
BTTH của người chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi còn cha mẹ. Ở trường hợp
người gây thiệt hại là người chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi cịn cha mẹ thì
trách nhiệm bồi thường trước tiên thuộc về người đó; nếu người đó khơng có tài sản
hoặc tài sản khơng đủ để bồi thường thì trách nhiệm bồi thường mới được đặt ra với cha,
mẹ. Ngược lại, ở trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi
đến dưới 18 tuổi có người giám hộ thì trách nhiệm BTTH trước tiên lại thuộc về người
giám hộ, sau đó mới là người chưa thành niên gây thiệt hại. Vậy phải chăng có gì đó
khơng thỏa đáng trong tình huống này?
Một điểm khác biệt nữa khi quy định về trách nhiệm BTTH do hành vi trái pháp
luật của người chưa thành niên gây ra đó là: “nếu người giám hộ chứng minh được mình
khơng có lỗi trong việc giám hộ thì khơng phải lấy tài sản của mình để bồi thường”

15


trong khi đó vấn đề lỗi khơng được đặt ra đối với trường hợp người gây thiệt hại là
người chưa thành niên còn cha mẹ, tức là cha mẹ vẫn phải bồi thường ngay cả khi khơng
có lỗi. Vậy trong trường hợp người gây thiệt hại là người chưa thành niên, khơng có tài
sản hoặc tài sản khơng đủ để bồi thường, người giám hộ khơng có lỗi trong việc giám hộ
thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về ai?
Thực tiễn áp dụng trách nhiệm BTTH trong trường hợp này vẫn có những tình
huống xảy ra mà luật khơng dự liệu trước, khiến cho các thẩm phán tại các tòa án gặp
nhiều khó khăn trong cơng tác xét xử. Điều này được dẫn giải trong ví dụ sau: A là
người chưa thành niên dưới 15 tuổi có cha mẹ nhưng cha mẹ đều mất năng lực hành vi
dân sự nên B là người giám hộ đương nhiên cho A trong các giao dịch dân sự. Một ngày,
sau khi đi học về, A chơi đá bóng trên đường với một nhóm bạn cùng lớp. Trong lúc thể
hiện chân sút đá bóng với các bạn, trái bóng của A đã bay thẳng vào cửa kính xe hơi của
ơng C làm kính vỡ tan. Thiệt hại ơng C đi thay kính mới hết 8 triệu đồng. Trách nhiệm
bồi thường cho ông C thuộc về B vì B có lỗi khơng quản lí A để A chơi đá bóng trên

đường phố gây thiệt hại. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì sẽ lấy tài sản của A để
bồi thường, nếu tài sản của A khơng đủ thì lấy tài sản của B để bồi thường phần còn
thiếu. Tuy nhiên, cả A và B đều khơng có tài sản bồi thường cho ơng C. Vậy thì theo
luật, C sẽ phải chấp nhận rủi ro, không được BTTH? Giả sử bố mẹ của A mất năng lực
hành vi dân sự nhưng lại được thừa kế số tiền là 100 triệu đồng thì có lấy số tiền đó của
bố mẹ A để bồi thường cho ông C không, luật cũng không quy định rõ vấn đề này.
2. Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của người được giám hộ là người mất năng
lực hành vi dân sự
Người mất năng lực hành vi dân sự là người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, bị tòa án ra quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên
quan. Người mất năng lực hành vi dân sự cần phải có người giám hộ, người giám hộ sẽ
là người đại diện cho họ trong các giao dịch dân sự. Người mất năng lực hành vi dân sự
có thể là bất kì ai và ở bất kì độ tuổi nào, do vậy mà tùy từng trường hợp khác nhau mà

16


việc quy định trách nhiệm BTTH do người được giám hộ là người mất năng lực hành vi
dân sự gây ra cũng khác nhau. Cụ thể:
Nếu người mất năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên mà cịn cha, mẹ
thì cha, mẹ chính là người giám hộ. Họ có phải chăm sóc và quản lí người mất năng lực
hành vi dân sự. Trong q trình chăm sóc và quản lí người mất năng lực hành vi dân sự,
nếu người giám hộ để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác thì họ phải có
trách nhiệm bồi thường. Vì người giám hộ trong trường hợp này là cha, mẹ của người
mất năng lực hành vi dân sự là người chưa thành niên nên trách nhiệm BTTH cũng
giống như trách nhiệm BTTH của cha, mẹ đối với con chưa thành niên gây thiệt hại.
Trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ (hoặc chồng) thì
người vợ (hoặc chồng) có đủ điều kiện sẽ là người giám hộ (Khoản 1 Điều 62 BLDS
2005). Người giám hộ được lấy tài sản của người được giám hộ để thực hiện trách nhiệm

BTTH. Nếu như tài sản của người được giám hộ không đủ để bồi thường thì phải phân
định tài sản chung của vợ chồng sau đó mới xác định trách nhiệm bồi thường. Sau khi
xác định tài sản chung mà tài sản chung vẫn khơng đủ để bồi thường thì người giám hộ
mới phải lấy tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ bồi thường phần còn thiếu.
Trường hợp cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người bị mất
năng lực hành vi dân sự nhưng người kia không đủ điều kiện để làm người giám hộ thì
người con cả phải là người giám hộ. Nếu người con cả không đủ điều kiện để làm người
giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện sẽ là người giám hộ. Nếu cha, mẹ mà
gây thiệt hại cho người khác thì người con đang giám hộ cha, mẹ sẽ lấy chính tài sản của
cha, mẹ để thực hiện nghĩa vụ BTTH cho người bị thiệt hại. Sau khi lấy tài sản của cha,
mẹ để bồi thường nhưng vẫn cịn thiếu thì người con đang giám hộ có trách nhiệm dùng
tài sản của mình bồi thường phần cịn thiếu.
Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự là người đã thành niên và đã có
vợ, chồng, con nhưng vợ, chồng, con đều không đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha,
mẹ có đủ điều kiện phải làm người giám hộ cho họ. Nếu họ gây thiệt hại về tài sản cho
người khác thì cha, mẹ sẽ lấy tài sản riêng của người được giám hộ để thực hiện trách
nhiệm BTTH. Nếu tài sản đó khơng đủ để bồi thường thì người giám hộ mới phải lấy tài

17


sn ca mỡnh bi thng. Xác định trách nhiệm bồi thờng nốt phần còn thiếu do
thiệt hại của ngời đợc giám hộ gây ra của ngời giám hộ ở đây cần phải phân làm hai
trờng hợp: Nếu cả cha cha, mẹ cùng là ngời giám hộ thì sẽ lấy tài sản chung vợ chồng
của cha, mẹ để thực hiện nghĩa vụ bồi thờng phần còn thiếu cho ngời đợc giám hộ;
nếu chỉ có cha hoặc mẹ làm ngời giám hộ thì sẽ không lấy tài sản chung mà lấy
phần tài sản riêng trong khối tài sản chung của vợ chồng để thực hiện nghĩa vụ bồi thờng phần còn thiếu của ngời đợc giám hộ.
IV - Nng lc chu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
dưới mười lăm tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự trong thời gian trường
học, bệnh viện, tổ chức khác quản lí

Điều 621 quy định trách nhiệm BTTH trong trường hợp người chưa thành niên
dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự đang được nhà trường, bệnh viện hoặc
các tổ chức khác quản lí mà gây thiệt hại thì nhà trường, bệnh viện và các tổ chức này
phải bồi thường. Trách nhiệm BTTH được xác định dựa trên yếu tố lỗi của nhà trường,
bệnh viện, các tổ chức và được thể hiện trong nghĩa vụ quản lí người dưới mười lăm
tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không cẩn trọng, không chu đáo, thiếu biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn mà để họ gây thiệt hại. Thời gian quản lí là thời hạn trong
đó nhà trường theo quy định nghề nghiệp có nghĩa vụ giáo dục mà họ không thực hiện
tốt chức năng của họ; bệnh viện có nghĩa vụ chăm sóc, điều trị nhưng do lỗi quản lí
khơng tốt để người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại
cho người khác (ví dụ: nhà trường tổ chức đi thăm quan, dã ngoại nhưng khơng có các
biện pháp bảo đảm an toàn; bệnh nhân bị tâm thần vượt hàng rào, tường bao bọc xung
quanh ra ngoài gây thiệt hại cho người khác;…). Lúc đó, cha mẹ, người giám hộ của
người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân
sự khơng có trách nhiệm bồi thường. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà
trường trong việc quản lí học sinh đang trong thời gian học tập tại trường theo thời khóa
biểu văn hóa chính khóa, ngoại khóa hoặc lao động, vui chơi, giải trí do nhà trường tổ
chức; trách nhiệm của bệnh viện, các tổ chức khác trong việc chăm sóc, quản lí bệnh

18


nhân trong thời gian bệnh nhân điều trị tại bệnh viện. Pháp luật quy định xét trách nhiệm
của nhà trường, bệnh viện, tổ chức khác phải có yếu tố lỗi nên trong trường hợp họ
chứng minh được khơng có lỗi trong thời gian quản lí để người dưới 15 tuổi, người mất
năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới 15 tuổi,
người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.
Ví dụ:
- Cơ giáo chủ nhiệm lớp 5A trường THCS X bị ốm đột xuất nên lớp trống tiết. Cô Y là
hiệu trưởng của trường lên thông báo cho học sinh lớp 5A nghỉ buổi học hơm đó, trước

khi cho học sinh ra về, cơ Y đã gọi điện cho từng phụ huynh thông báo về việc này, trao
trả học sinh cho gia đình. Trên đường về, M đá bóng cùng các bạn, khơng may sút bóng
vào đúng cửa sổ nhà ơng N làm vỡ kính. Trường hợp này, nhà trường khơng có trách
nhiệm BTTH do hành vi của M gây ra do thời gian M gây thiệt hại khơng thuộc sự quả lí
của trường.
- A bị tâm thần, đã được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đang được điều trị
tại bệnh viện Y. Tết năm 2009, gia đình A muốn A về nhà ăn tết nên đã làm đơn xin
bệnh viện cho A được về nhà 1 tuần và hứa sẽ quản lí A trong thời gian 1 tuần đó. Bệnh
viện đồng ý cho A về nhà ăn tết. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1 tuần về nhà, A đã
gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường. Trường hợp này, bệnh viện khơng có trách
nhiệm bồi thường cho thiệt hại mà A gây ra do bệnh viện không có lỗi trong việc quản li
A.
Quy định trong BLDS 2005 có sự khác biệt cơ bản trong BLDS 1995. Điều 625
BLDS 1995 quy định: “Trường học, bệnh viện, các tổ chức khác nếu có lỗi trong việc
quản lí thì phải liên đới cùng cha, mẹ, người giám hộ BTTH cho người chưa đủ 15 tuổi
hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cho người khác trong thời gian trường
học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lí những người đó”. Vậy theo quy định
tại BLDS 1995, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường đối với cha, mẹ, người
giám hộ hay trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lí vì nghĩa vụ dân sự
liên đới theo khoản 1 Điều 304 BLDS 2005 là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực
hiện và người có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải

19


thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Tuy nhiên, trong BLDS 2005 thì cụm từ “liên đới cùng với
cha mẹ, người giám hộ” không được quy định và người bị thiệt hại chỉ có thể địi u
cầu BTTH đối với trường học, bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lí nếu họ có lỗi
trong việc giáo dục. Theo em, quy định này là chưa hợp lí đối với trường hợp người gây
thiệt hại là người chưa thành niên dưới 15 tuổi. Bởi lẽ, hầu hết các hành vi gây thiệt hại

của các trẻ em trong thời gian học tập tại trường khơng đơn thuần là kết quả của q
trình giáo dục riêng của nhà trường, mà là sản phẩm của quá trình giáo dục của cả nhà
trường và cha mẹ, trong đó, vai trị của cha mẹ rất quan trọng. Vì vậy, để tránh tình trạng
phó thác việc giáo dục học sinh cho một bên, nên quy định nghĩa vụ liên đới của cha mẹ
và nhà trường trừ các trường giáo dưỡng vì tính đặc thù của học viên trong loại hình
trường này.
Một điểm nữa chưa hợp lí, theo ý kiến của em là quy định tại khoản 2 Điều 621:
“Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh
viện, tổ chức khác trực tiếp quản lí thì bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại
xảy ra”. Theo quy định của pháp luật, một người chỉ được coi là mất năng lực hành vi
dân sự khi có đủ ba điều kiện:
-

Do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình.

-

Người có quyền và lợi ích liên quan u cầu tòa án tuyên bố người bị mắc bệnh tâm
thần hoặc bệnh khác đó mất năng lực hành vi dân sự .

-

Tòa án tuyên bố người bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác đó mất năng lực hành vi
dân sự.
Tuy nhiên, trên thực tế, những bệnh nhân mắc bênh tâm thần hoặc bệnh khác

khiến không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình đang được điều trị tại bệnh
viện hoặc được quản lí tại các tổ chức khác hầu như chưa được Tòa án tuyên bố là mất
năng lực hành vi dân sự. Vậy trong trường hợp những người này gây thiệt hại trong thời

gian bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lí thì ai là người có trách nhiệm bồi
thường? Nên chăng quy định này nên sửa thành: “Người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình gây thiệt hại cho

20


người khác trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lí thì bệnh viện, tổ
chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra”.
KẾT LUẬN
Tuy đã được quy định khá cụ thể và rõ ràng trong BLDS 2005 và các văn bản
pháp luật khác có liên quan nhưng các nhà làm luật vẫn chưa thể dự liệu hết các trường
hợp phát sinh trên thực tế. Điều này đã gây ra khơng ít khó khăn cho các tịa án trong
việc xét xử các trường hợp kiện địi BTTH ngồi hợp đồng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là các
nhà làm luật cần sớm bổ sung, thay đổi những quy định cho phù hợp với sự phát triển
của xã hội, bên cạnh đó, tịa án cũng cần áp dụng các quy định của pháp luật một cách
linh hoạt hơn.

21



×