A. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay vấn đề học sinh yếu luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc
phục. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển tồn diện thì người giáo viên khơng
những chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với
khơng ít giáo viên.
Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến. Cấp học
càng cao tỷ lệ học sinh bỏ học càng lớn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
học sinh bỏ học : Do hồn cảnh kinh tế gia đình, bố mẹ đi làm xa đưa con theo. Do
các em bị mồ cơi khơng ai chăm sóc, nương tựa. Nhưng trong đó nguyên nhân chính
là các em học tập yếu kém nên khơng thích đi học, khơng thích đến trường nên nghỉ
học.
Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao. Đòi hỏi
trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo từ
nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm đang ra sức phổ cập
giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao nhiêu học sinh bỏ học giữa
chừng. Biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, biết viết hoặc đọc viết không thông thạo
mà đã nghỉ học. Tất cả đều là sản phẩm của nhà trường, do chưa quan tâm đến học
sinh yếu, chưa có biện pháp để giúp đỡ học sinh yếu kém.
Hiện nay ở một số trường đặc biệt là các trường vùng nông thôn và các trường ở
vùng sâu người làm công tác giáo dục còn bế tắc trong việc giúp đỡ học sinh yếu
kém. Có nhiều giáo viên vẫn biết một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém học tập
có tiến bộ nhưng lại thực hiện không tới nơi tới chốn. Ban giám hiệu lại không quan
tâm, chỉ đạo giáo viên thực hiện, hoặc chỉ thực hiện trên lí thuyết. Cho nên nhiều gia
đình có kinh tế cao sẵn sàng tạo mọi điều kiện cho con mình đến trường, cho con
mình học tới nơi, tới chốn nhưng cũng bất lực nhìn con mình ngày ngày lêu lỏng
1
ngồi đường, vào tiệm internet, bị lơi cuốn chơi với bạn xấu dẫn đến học tập yếu kém
và bỏ học.
Qua nhiều năm cơng tác ở trường, và tìm hiểu ở các trường khác tôi thấy rằng để
học sinh học yếu học tập tốt thì học sinh cần có sự ham thích học tập, ham thích đến
trường. Khi đã ham thích việc học các em tiếp thu bài nhanh hơn, vận dụng kiến thức
đã học vào thực tế luôn linh động và sáng tạo. Mà cơng việc này địi hỏi Ban giám
hiệu phải quan tâm tới, phải chỉ đạo cho giáo viên thực hiện.
Trong những năm gần đây ngành giáo dục tăng cường kỷ cương, nề nếp, thực hiện
nghiêm túc hiện cuộc vận động “Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong giáo dục, nói khơng với vi phạm phẩm chất đạo đức nhà giáo và việc học
sinh không đủ tiêu chuẩn lên lớp”. Việc dạy thật, thi thật, khơng chạy theo thành tích
thực hiện khơng đúng cách đã đẩy cho nhiều học sinh yếu phải bỏ học. Cũng là yếu
tố thúc đẩy chúng ta cần tạo ra một trường học khơng có học sinh yếu kém.
Qua những lý do trên tơi thấy việc quản lí cơng tác phụ đạo học sinh yếu kém
trong nhà trường là điều nên bàn và nên làm nhất trong tình hình hiện nay.
1. Cơ sở lý luận :
+ Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học :
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em chưa ổn định, đang hình thành và
phát triển. Nên trong sự học tập, làm việc hàng ngày các em sẽ ít tập trung chú ý. Ở
các em ý thức học tập chưa có, chưa hiểu rõ mục đích của việc học. Các em đi học
phần lớn là do sự bắt buộc của gia đình, chỉ một phần nhỏ là ham thích đi học (vì đi
học được cơ khen, được điểm 10, được chơi cùng bạn vv…). Do đó ý thức tự giác học
tập của các em chưa có (với những em đi học vì sự bắt buộc của gia đình) nên các em
thiếu sự cần cù, sự cố gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười biếng, ham
chơi và dẫn đến học yếu, chán học và bỏ học…
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tính tị mị phát triển, các em thường ham thích cái
mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo dài, khơng thay đổi hình thức.
2
Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục biết quan tâm tạo sự ham thích cho
các em trong học tập, trong các hoạt động ở trường, lớp thì mới có động lực thúc đẩy
việc học, nâng cao được khả năng tiếp thu, và thực hành các kĩ năng, kĩ xảo mà
chúng ta cung cấp cho các em. Từ đó các em học tập có tiến bộ.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước, dễ
thích nghi với mơi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên
tạo sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các em được thầy cô ân
cần chỉ bảo. Trong học tập các em được hoạt động nhóm, được làm thí nghiệm, chơi
các trị chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn từ đó các em sẽ học tập có tiến bộ
hơn.
1. Cơ sở thực tiễn :
Hiện nay xu hướng của giáo dục là: “Dạy thật – Học thật” khơng chạy theo
thành tích. Muốn thế học sinh phải hiểu được, làm được bài theo nội dung kiến thức
chương trình đưa ra, tức là các em không phải là học sinh yếu kém. Muốn vậy Ban
giám hiệu nhà trưởng phải chú trọng và chỉ đạo giáo viên có sự đổi mới khơng ngừng
về phương pháp cũng như hình thức dạy học. Giáo viên phải ln làm mới mình
trước học sinh từ phương pháp cũng như hình thúc dạy học. Việc dạy học hiện nay
khơng phải giáo viên cung cấp kiến thức cho học sinh một cách rập khuôn nhàm
chán, mà cung cấp cho học sinh các phương pháp học tập để học sinh tự tìm ra kiến
thức một cách tích cực.
Đối với học sinh yếu thì việc học tập, tiếp thu kiến thức của các em là vấn đề rất
quan trọng. Do đó chúng ta phải làm như thế nào để các em học cho có hiệu quả cao,
phát huy hết năng lực vốn có của mình. Hiện nay nhiều trường hay nhồi nhét kiến
thức cho học sinh bằng các hình thức học thêm, học hai buổi... Đưa ra rất nhiều
phương pháp giảng dạy mà quên đi việc bồi lấp lỗ hổng kiến thức cho học sinh yếu.
Sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thơng qua các hoạt động thực
tế như hoạt động giao lưu, tập thể và nhóm ; Qua sự tác động của môi trường cơ sở
3
vật chất như trường, lớp, qua thái độ của thầy cơ, bạn bè. Do đó trong nhà trường cần
có những biện pháp, những hoạt động, những cải tạo về trường, lớp, về tác phong sư
phạm của giáo viên nhằm tạo cho học sinh một môi trường thân thiện, gần gũi từ đó
giúp học sinh ham thích học tập, để học tập càng có tiến bộ.
Tóm lại, việc chỉ đạo cơng tác phụ đạo học sinh yếu học tập có tiến bộ là một
cơng tác chính đáng, thực sự cần thiết trong nhà trường hiện nay. Và giáo viên cần
được đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy để giúp học sinh yếu học tập tiến bố
và hạn chế đối đa tỉ lệ học sinh yếu trong nhà trường.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
1. Mục đích :
- Nhằm đánh giá lại chất lượng giảng dạy học sinh yếu kém ở các trường tiểu học
trong những năm qua và hiện nay.
- Tìm ra những nguyên nhân tại sao việc hiện nay ở các trường cịn có rất nhiều
học sinh yếu kém, và hiện tượng học sinh bỏ học vì học yếu vẫn còn.
- Đánh giá lại kết quả của việc cải tiến và đổi mới phương pháp phụ đạo giúp đỡ
học sinh yếu kém trong những năm gần đây. Việc phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu kém
có tác dụng như thế nào trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
- Đưa ra một số giải pháp trong việc đổi mới phương pháp quản lí cũng như dạy
học giúp đỡ học sinh yếu kém học tập có tiến bộ hơn, giúp học sinh ham thích học
tập. Nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh hơn nữa.
2. Phương pháp :
+ Phương pháp lấy tư liệu :
Trong q trình nghiên cứu cần rất nhiều ý kiến, thơng tin, tư liệu. Các ý kiến từ
giáo viên giáo viên chủ nhiệm, hiệu trưởng, phụ huynh học sinh vv…Trong quá trình
làm cơng tác giảng dạy nhiều năm đã đúc kết được một số kinh nghiệm từ đồng
nghiệp là nền tảng giúp tôi nghiên cứu đề tài này.
+ Phương pháp đàm thoại :
4
Đây là phương pháp nhằm tiếp thu ý kiến của phụ huynh, học sinh, của giáo viên
chủ nhiệm. Đối với học sinh khi chúng ta trò chuyện trực tiếp với các em tạo cho các
em sự gần gũi, thương yêu, Từ đó các em nói lên tâm tư tình cảm của mình về sự học
tập, từ đó hiểu được ngun nhân vì sao các em học yếu. Sàng lọc học sinh thành
nhiều cấp độ nhận thức và nắm bắt được cụ thể các học sinh yếu kém.
+ Phương pháp xử lý thông tin :
Hàng ngày tôi kịp thời xử lý các thông tin, kết quả thu thập được trong quá trình
nghiên cứu nhằm loại bỏ các biện pháp khơng thích hợp, đi sâu các biện pháp có tác
dụng tích cực. Có được những hiểu biết sâu hơn về vấn đề đang nghiên cứu.
+ Phương pháp thực nghiệm :
Đề xuất với giáo viên chủ nhiệm, với phụ huynh một số phương pháp đổi mới
nhằm nâng cao kết quả học tập cho học sinh yếu kém. Sau đó cùng nhau phối hợp
đánh giá.
+ Phương pháp cải tiến :
Qua việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu từ đó đưa ra một số phương
pháp cải tiến để tìm ra giải pháp tốt nhất làm cơ sở nghiên cứu.
III. Giới hạn của đề tài:
1. Khách thể nghiên cứu bao gồm :
+ Không gian : Địa bàn chính ở trường Tiểu học Kim Đồng.
+ Thời gian : Năm học 2012 –2013.
+ Học sinh các lớp thuộc trường tiểu học Kim Đồng ; Đội ngũ thầy, cô cùng
thầy tổng phụ trách ; Phụ huynh học sinh ở ấp 4, 5, 6, 7 xã Hòa Hội huyện
Xuyên Mộc, BR-VT.
2. Đối tượng nghiên cứu bao gồm :
+ Cơng tác quản lí phụ đạo học sinh yếu của chun mơn, Ban giám hiệu, của
các tổ chức có liên quan nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém.
5
+ Các phương pháp, biện pháp giảng dạy giúp đỡ học sinh yếu kém ở lớp học
do giáo viên chủ nhiệm đảm nhiệm.
+ Sự quan tâm, giáo dục của phụ huynh học sinh đối với việc giúp đỡ học sinh
học tập ở gia đình.
IV. Các giả thiết nghiên cứu:
+ Phải chăng việc chỉ đạo công tác phụ đạo học sinh yếu ở các trường tiểu học
chưa quan tâm đến nơi đến chốn. Trong nhu cầu đổi mới đất nước với sự tiến bộ công
nghệ thông tin khoa học, mỗi cá thể sống và làm việc trong cộng đồng cần phải biết
học và tự học không ngừng, muốn vậy các em cần cố gắng trang bị cho mình những
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo để phục vụ cho cuộc sống sau này. Và phải chăng trường
học là môi trường giáo dục lý tưởng để giúp học sinh học tập tốt tiếp thu những kiến
thức trong học tập và muốn như vậy thì học sinh khơng thể là học sinh yếu kém.
+ Có phải chăng ở các trường tiểu học trường nào càng tổ chức nhiều phong trào,
những cuộc thi, vui chơi khi đó các em được tiếp xúc nhiều với mơi trường sinh hoạt
tập thể, Giáo viên biết đổi mới hình thức, phương pháp dạy học, tỏ thái độ quan tâm,
gần gũi, thân thiện với học sinh thì học sinh trường đó ham thích đến trường hơn, học
tập tích cực hơn và học sinh sẽ học tập tiến bộ hơn?
Có phải việc học sinh học yếu kém là do những nguyên nhân sau:
+ Do trường chưa ra trường, lớp chưa ra lớp, lớp khơng đủ ánh sáng, nóng bức,
bàn ghế khơng thích hợp, thiếu trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
+ Do giáo viên hiếu kĩ năng sư phạm: Còn mắng chửi, đánh đập, dùng hình phạt
mà thiếu sự động viên khích lệ học sinh. Giáo viên chưa chăm lo đến học sinh yếu
kém, còn để các em bên lề lớp học..
+ Do học sinh mất căn bản về kiên thức nên lên lớp không hiểu bài, giáo viên
không giảng dạy kiến thức vừa sức với các em, để các em yếu bên ngoài giờ học.
6
+ Do hình thức, phương pháp dạy học của giáo viên không đổi mới. Giáo viên vẫn
dạy theo cách xưa kia thầy nói, trị nghe và ghi chép. Chỉ có tiết hội giảng, dự giờ
mới có đồ dùng dạy học, mới có học nhóm, trị chơi, dạy máy…
+ Do phụ huynh chưa quan tâm đến con cái, chưa tạo điều kiện tốt để con em học
tập, vui chơi. Chưa quản lý con em mình lúc ở nhà, việc chơi bạn bè xấu, cưng chiều
con cái.
Và có phải chăng việc khắc phục những nguyên nhân trên sẽ giúp học sinh học tập
có tiến bộ hơn.
V. Kế hoạch thực hiện :
Bước/thời gian
Mơ tả
Hoạt động càn thực hiện
Có nhiều nguyên nhân tạo
nên hiện trạng trên :
1. Học sinh bị hỏng kiến thức
từ lớp dưới.
2. Gia đình khơng quan tâm,
Bước 1 : Tìm hiểu
hiện trạng.
Từ
20/08/2012
đến 30/08/2012
Trong nhiều năm nay số
lượng học sinh học yếu cịn
nhiều. Các thơng kê những
năm trước cho thấy điểm
kiểm tra các kì số học sinh
học yếu vẫn tồn tại.
khơng có điều kiện và tạo
điều kiên cho học sinh học
tập.
3. Học sinh bị bệnh lí…(bệnh
tự kỉ, bệnh tăng động giảm
chú ý.
4. Giáo viên thiếu phương
pháp hợp lí, sáng tạo để dạy
học sinh yếu, không gây được
hứng thú học tập ở học sinh.
Chọn nguyên nhân thứ tư để
can thiệp.
Bước 2 : Thiết kế -BGH chỉ đạo giáo viên Đưa ra các phương pháp trên
7
giải pháp thay thế. quan tâm đến công tác phụ cho giáo viên thực hành
Từ
01/09/2012 đạo học sinh yếu kém.
đến 05/09/2012
+Mỗi giáo viên phải có một
sổ theo dõi học sinh yếu
kém của lớp.
-BGH chỉ đạo giáo viên
thực hiện việc đổi mới một
số phương pháp phụ đạo
học sinh yếu kém.
+Phương pháp dạy học
bằng tình thương ;
+Phương pháp giúp học
sinh yếu học tích cực ;
+Phương pháp giao việc
cho cho học sinh yếu kém ;
+Phương pháp dạy học
sinh yếu theo nhóm đối
tượng ;
+Phương pháp giảm độ
khó của câu hỏi phù hợp
với học sinh yếu ;
+Phương pháp dạy theo
trình độ của học sinh ;
+Phương pháp tổ chức
hoạt động ngoài giờ lên lớp
;
+Phương pháp thư giản
8
(vui chơi) trong các tiết
học.
- Đề ra những biện pháp
Từ
06/09/2012 khắc phục. Tiến hành thực Tác giả phối hợp với BGHđến 30/11/2012
nghiệm những biện pháp đã GV trường
đề ra.
- Đánh giá lại quá trình
Từ
01/06/2012 thực hiện tìm ra ưu, khuyết Tác giả phối hợp với BGHđến 30/07/2012
trong những phương pháp GV trường
rèn học sinh yếu.
- Cải tiến và tiếp tục đề ra
những phương pháp, biện
Từ
01/11/2012 pháp phụ đạo. Tiến hành Tác giả phối hợp với BGHđến 19/12/2012
thực nghiệm những phương GV trường
pháp, biện pháp đã đã cải
Từ
tiến.
20/12/2012 - Đánh giá kết quả của quá
đến 25/12/2012
Từ
26/12/2012
đến 10/01/2013
trình nghiên cứu.
- Rút ra bài học kinh
Tác giả phối hợp với - BGH
nghiệm. Và viết đề tài Tác giả
(SKKN).
B. NỘI DUNG
1. Thực trạng và những mâu thuẫn:
Trường tiểu học Kim Đồng cũng như một phần lớn các trường trong huyện Xuyên
Mộc, là trường thuộc vùng nơng thơn, dân trí cịn thấp, số hộ nghèo còn nhiều, nhiều
người dân còn mù chữ, học sinh dân tộc ít người lại đơng chiếm 10% số học sinh
tồn trường. Trong cuộc sống hàng ngày các em còn phải phụ giúp cha mẹ cơng việc
gia đình. Trình độ học sinh trong một lớp không đồng đều số em giỏi thì rất ít, em
9
yếu thì nhiều. Việc giáo dục con cái phụ huynh thường khốn trắng cho nhà trường.
Hoặc là giáo dục khơng đúng phương pháp làm ảnh hưởng nhiều đến nhân cách của
các em. Trong nhiều năm qua có rất nhiều em trong trường học yếu kém, các em
khơng thích đến trường, tới lớp (các em đi học vì sự bắt buộc của gia đình, vì sợ bố
mẹ cho ăn địn nhiều hơn tự nguyện đến trường). Nhiều em rất run sợ khi gặp thầy
cô, thụ động trong giờ học, thiếu sự ham học, làm cho các em không phát huy hết
được khả năng học tập của mình.
Việc phụ đạo giúp đỡ học sinh yếu kém tuy đã được giáo viên và nhà trường quan
tâm nhưng sự tiến bộ của các em vẫn chưa cao. Trong giảng dạy giáo viên chi tập
trung giảng dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Dạy chung cho cả lớp chưa có thời
gian giúp đỡ học sinh yếu. Còn để học sinh yếu bên lề lớp học, làm cho học sinh yếu
càng yếu hơn.
Cơ sở vật chất nhà trường đã được bảo đảm chuẩn nhà trường có đầy đủ đồ dùng
dạy học. Nhưng việc sử dụng đồ dùng chưa thật sự có hiệu quả. Giáo viên cịn lo kinh
tế gia đình, chưa tập trung chăm lo cơng tác dạy học đặc biệt là dạy học sinh yếu.
2. Các biện pháp giải quyết vấn đề :
Trong nhà trường các phong trào, các hoạt động có hiệu quả hay khơng đều
phụ thuộc vào người quản lí. Nếu ban giám hiệu chú tâm vào hoạt động nào đó, có kế
hoạch tốt thì hoạt động sẽ có kết quả. Lâu nay việc phụ đạo học sinh yếu Ban giám
hiệu thường giao cho giáo viên chủ nhiệm. Nếu như giáo viên không nhiệt tình, tâm
huyết với nghề thì coi như lớp đó sẽ có nhiều học sinh yếu kém. Và những học sinh
yếu kém ln bị giáo viên bỏ bên ngồi tiết dạy. Vậy để cơng tác dạy học sinh yếu
kém có hiệu quả thì Ban giám hiệu có thể thực hiện những biện pháp sau :
2.1 Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm xác định nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu:
Hiện nay học sinh yếu ở các trường chiếm một tỉ lệ khơng nhỏ, đó cũng là hậu quả
của việc chạy theo thành tích mà để học sinh ngồi nhầm chỗ. Vậy để học sinh yếu
tiến bộ thì ngay từ đầu năm học Ban giám hiệu cần chỉ đạo cho giáo viên nhận diện
10
học sinh yếu kém và có nguy cơ trở thành học sinh yếu kém ở lớp mình và tìm các
biện pháp giúp đỡ các em. Giáo viên cần phải nhận diện được học sinh : Yếu môn
nào? Yếu kĩ năng gì? Ngun nhân dẫn đến tình trạng trên.
Có những ngun nhân chính dẫn đến sự yếu kém trong học tập của học sinh :
+ Do hồn cảnh gia đình :
Do gia đình vì một lí do nào đó (Kinh tế gia đình khó khăn, tình cảm vợ chồng
khơng hịa hợp vv...) không quan tâm đến sự học hành của con cái. Phó mặc mọi việc
cho nhà trường. Dẫn đến các em khơng có ý thức tự giác trong học tập. Hoặc bố mẹ
làm việc theo thời vụ luôn di chuyển nơi làm kéo học sinh liên tục chuyển trường…
Do trong gia đình có sự thay đổi lớn như: bố mẹ li dị, hay cãi vã đánh nhau, gia
đình tan vỡ vv… Làm cho trẻ bị thay đổi về tâm lí dẫn đến chán học…
Một số cha mẹ q nng chìu con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học sinh lười
học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi hay đi du lịch...) cha mẹ cũng đồng ý cho
phép nghỉ học, vơ tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần căn
bản...và rồi yếu kém !
Do phụ huynh không biết cách giáo dục con cái, những pháp giáo dục không đúng
cách sinh ra phản tác dụng. Quản lí thời gian biểu con em khơng tốt, trong việc học ở
nhà, trong việc chọn bạn mà chơi….
+ Do học sinh mất căn bản từ lớp dưới :
Do những lớp đầu cấp đã bị mất căn bản, dẫn đến các lớp sau học sinh đều là học
sinh yếu.
Bị mất kiến thức do bị bịnh … hoặc do một ngun nhân nào đó mà học sinh
khơng đi học được… nên không tiếp thu được kiến thức nên không hiểu bài từ đó
sinh ra chán học, dẫn đến học tập yếu kém.
+ Học sinh chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập :
Học sinh lười học, không chăm chỉ, chuyên cần.
Học sinh ham chơi chơi điện tử, game, các trò chơi khác… xao lãng việc học.
11
Tham gia vào các băng nhóm quậy phá có sẵn trong trường học từ đó ham chơi
hơn ham học.
Học sinh thích thể hiện cá tính của mình bằng cách chống đối : chống đối trường
lớp, thầy cô, cha mẹ và chống lại việc học.
+ Do bị bệnh : (Chậm phát triển trí não, bệnh tự kỉ, bệnh tăng động giảm chú ý…).
+ Do giáo viên :
Còn một số GV chưa nắm chắc những những yêu cầu kiến thức của từng bài dạy.
Viêc dạy học còn dàn trải, còn nâng cao kiến thức một cách tùy tiện.
Còn một số giáo viên chưa thực sự chú ý đúng mức đến đối tượng học sinh yếu,
kém. Chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút của học sinh.
Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập cịn nhanh khiến cho học sinh yếu
kém khơng theo kịp.
Một số giáo viên chưa thật sự chịu khó, tâm quyết với nghề, chưa thật sự “giúp
đỡ” các em thoát khỏi yếu kém. Bỏ các em bên lề tiết học không quan tâm tới.
Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hố học sinh yếu kém, khơng gây hứng
thú cho học sinh thích học... Giáo viên thiếu tinh thần tự học, cập nhật phương pháp mới,
chưa sáng tạo trong việc dạy học…
Qua đó ta thấy nguyên nhân làm cho học sinh yếu kém rất đa dạng. Nên việc giúp
đỡ cho học sinh yếu kếm học tốt hơn cũng rất đa dạng và đầy khó khăn…
2.2 Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lập kế hoạch phụ đạo và sổ theo dõi học sinh yếu
kém trong lớp:
Ban giám hiểu cần yêu cầu mỗi giáo viên chủ nhiệm phải có kế hoạch phụ đạo học
sinh yếu của lớp mình, có những phương pháp giảng dạy thích hợp, giải quyết sự yếu
kém của học sinh từ những nguyên nhân trên.
VD: Học sinh yếu vì mất kiến thức từ lớp dưới thì tổ chức phụ đạo cho các em lấy
lại kiến thức, học sinh yếu vì ham chơi thì quản lí các em tốt hơn tổ chức các hình
thức vui chơi để các em ham thích học tập… học sinh học yếu vì hồn cảnh gia đình
thì giáo viên phối hợp với phụ huynh để tìm biện pháp tháo gỡ…
12
Ban giám hiệu yêu cầu mỗi giáo viên chủ nhiệm phải lập sổ theo dõi từng đối
tượng học sinh yếu của lớp. Giáo viên cần xác định được mức độ học sinh yếu kém,
như các em yếu mơn gì ?… kiến thức gì ?… Mức độ yếu kém?... biện pháp đã đề ra,
sự chuyển biến của học sinh theo từng tháng, từng học kì.…
Nội dung của sổ gồm những phần như sau :
Ví dụ : Họ và tên: Nguyễn Văn An ; lớp 4A1
Tình trạng
Nội dung
Biện pháp thực
Từ 01/09
học sinh
Khơng có kĩ
phụ đạo
Bổ sung
hiện
Giáo viên lưu giữ
Học sinh có khả
đến
năng nhân và kiến thức
học sinh ở lại trong
năng nhân các số
30/09/12
chia các số
lớp 3 (kĩ
thời gian 15 phút
có 2 đến 3 chữ số.
có từ 2 chữ
năng nhân,
cuối mỗi ngày.
Kĩ năng chia vẫn
số trở lên.
và chia các
Phân công một bạn
chưa tiến bộ.
Do mất căn
số tự nhiên) giỏi kèm thêm
Thời gian
Kết quả
bản từ lớp 3.
những lúc rảnh rỗi
Từ 01/10
Khơng có kĩ
Kĩ năng
ở trường hay ở nhà.
Giáo viên tổ chức
Học sinh có thái
đến
năng chia
chia một số
lớp phụ đạo vào
độ học tập tích
31/10/2012 một số cho
cho số có 1, mỗi sáng thứ bảy.
cực. Bước đầu đã
2, 3 chữ số.
Đổi mới một số
biết thực hiện
số trở lên.
phương pháp giảng
phép chia cho số
Có thái độ
dạy ở lớp để giúp
có 2 chữ số.
chán học
học sinh ham học.
số có 2 chữ
mơn tốn.
Ví dụ : Họ và tên: Nguyễn Văn Bình ; lớp 5A1
Tình trạng
Nội dung
Biện pháp thực
Từ 01/09
học sinh
Viết chính tả
phụ đạo
Rèn viết
hiện
Giáo viên giao bài
đến
sai nhiều.
chính tả
về nhà cho học sinh tiến bộ viết đúng
bằng cách
tập viết.
Thời gian
30/09/12
13
Kết quả
Học sinh có sự
chính tả một số từ
hướng dẫn
Trong giờ chính tả
thường gặp. Một
cho học
đưa một số bài tập
số từ khó vẫn
sinh phân
nhằm giúp học sinh
chưa viết đúng.
tích nghĩa
tập cách phân biệt
Nhất là phân biệt
của từ, tiếng nghĩa của từ.
dấu hỏi dấu ngã,
để viết cho
các âm cuối n và
ng…
Viết chính tả có sự
vào các giờ chính
tiến bộ nhưng vẫn
tả.
cịn sai nhiều. các
Từ 01/10
Viết chính tả
đúng.
Kĩ năng viết Giáo viên phụ đạo
đến
cịn chưa
đúng chính
31/10/2012 phân biệt dấu tả dựa vào
hỏi và ngã.
nghĩa của từ Giao bài về nhà nhờ bài chính tả ở lớp
Âm tr và ch
và một số
phụ huynh đọc cho
đạt mức trung
và một số từ
qui tắc đặt
viết.
bình.
khó.
dấu thanh.
Ngồi ra giáo viên chủ nhiệm cũng có thể lập hồ sơ học sinh yếu tương tự như
hồ sơ học sinh khuyết tật.
2.3 Định hướng cho giáo viên một số phương pháp để phụ đạo học sinh yếu:
- Để phụ đạo học sinh yếu kém giáo viên cần phải có biện pháp, phương pháp cụ
thể đối với từng học sinh. Phải biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học một cách hợp
lí… Phải có kĩ năng sư phạm và kinh nghiệm dạy học sinh yếu kém. Sau đây là một
số định hướng giúp giáo viên dạy học sinh yếu kém có hiệu quả.
2.3.1 Học sinh học yếu do hồn cảnh gia đình (khó khăn, mồ cơi, bố mẹ li di,
không quan tâm đến các em:
Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với phụ huynh học sinh giáo dục con em, định
hướng cho một số phụ huynh một số phương pháp giáo dục con em đúng cách.
Học sinh học giỏi hay yếu trước hết phụ thuộc vào rất nhiều từ phía gia đình, gia
đình thiếu sự quan tâm trong việc giáo dục, chăm lo việc học hành của con em mình.
Thêm vào đó, những tác động xấu của mơi trường xã hội đã lôi kéo các em như ham
chơi, đua đòi, nghe bạn bè xấu rủ rê, dẫn đến lơ là việc học hành, khơng có kiến thức
căn bản gây nên chán nản, bỏ học. Một gia đình êm ấm, hòa thuận, cha mẹ biết chăm
14
lo cho con cái, tạo điều kiện thuận lợi để con em học hành, giáo dục con em biết ích
lợi của việc học thì học sinh sẽ học tốt hơn. Ví dụ: Một học sinh làm hư viết, khơng
có viết đến trường, học sinh đó sẽ sợ đi học vì khơng có viết khơng chép bài, làm bài
được, có thể sợ cô phạt. Nếu cha mẹ kịp thời mua viết cho con, yêu cầu con cẩn thận
hơn thì học sinh đó sẽ vui vẻ đi học. Nếu bố mẹ la mắng hoặc khơng mua viết thì sẽ
làm cho em đó đi học với tâm trạng lo sợ thầy cô la và có thể trốn học. Từ đó trở
thành học sinh yếu kém...
Vậy nhà trường cần biết phối hợp với phụ huynh trong việc tạo sự ham thích cho
học sinh khi đến trường. Hiện nay một số phụ huynh không biết cách giáo dục con
cái, thường đánh đập, la mắng khi con em mình mắc phải một lỗi lầm nào đó ở
trường lớp (như bị điểm kém, đánh nhau với bạn), làm cho các em sợ sệt, ức chế khả
năng học tập, kĩ năng làm bài ở các em, giảm đi niềm ham thích học tập. Do đó giáo
viên chủ nhiệm cần trao đổi, hướng dẫn phụ huynh nên tạo điều kiện tốt để cho để
con em mình đến trường (bảo đảm thời gian đến trường, sắm dụng cụ học tập, giúp
con học ở nhà, cùng vui chơi học tập với con em mình, nhắc nhở con cái giờ học…),
khi giáo dục con em nên nhẹ nhàng, cần cho các em hiểu việc đó đúng sai thay vì la
mắng trừng phạt.
Việc quan tâm đến bạn bè của con em cũng rất quan trọng. Chơi với bạn xấu trước
sau gì các em cũng nhiễm thói xấu. Phụ huynh chú ý đến những thời gian rảnh rỗi
của con em mình, cần biết các em đi đâu, chơi chỗ nào. Đừng cho các em quá nhiều
thời gian tự do một mình mà cha mẹ khơng biết. Cần liên lạc với giáo viên để biết
tình hình của con em mình, như : Có đến trường khơng? Có đi lao động khơng? Có
hành vi gì cần sửa chữa vv...
Khi học sinh yếu kém phụ huynh cần giúp con em lấy lại niềm tin học tập nhận
thức được học là một hoạt động đầy hứng thú. Cần có sự ham thích mới học tốt được.
Giúp con em thấy được từ những bài học trên lớp con sẽ học được rất nhiều điều thú
vị mà đều là những tri thức có lợi cho bản thân. Cần giúp trẻ vượt qua khó khăn để
15
lấy lại kiến thức đã mất, động viên con khi bị điểm kém thì cũng khơng nên q chán
nản, mà nên tìm ra nguyên nhân để lần sau cố gắng làm bài tốt hơn.
Tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, nắm bắt cụ thể hướng
phấn đấu của học sinh vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp, của trường…thông qua
các buổi họp phụ huynh học sinh.
Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và rèn
luyện. Qua đó, giáo viên sẽ thơng tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học tập, hạnh
kiểm, các mặt tham gia hoạt động…của con em mình thơng qua sổ liên lạc. Giáo viên
và phụ huynh cần có sự liên kết hai chiều nhằm có biện pháp tác động phù hợp, động
viên khuyến khích khi các em tiến bộ, nhắc nhở kịp thời khi các em có biểu hiện cần
uốn nắn…
Vận động học sinh trong lớp, trường giúp đỡ bạn về vật chất, tinh thần, cơng việc
gia đình, thăm hỏi khi ốm đau, bệnh tật…
Đối với học sinh khơng cịn bố, mẹ hoặc cả bố mẹ Ban giám hiệu, giáo viên
yêu cầu chính quyền địa phương tạo điều kiện cho học sinh có nơi nương tựa. Với
những gia đình bố mẹ thường xun bất hịa, tranh cãi thì cần can thiệp để tạo một
mái ấm hạnh phúc cho con em.
2.3.2. Học sinh yếu do mất căn bản:
Ban giám hiệu cần định hướng cho giáo viên một số phương pháp, biện pháp để
giáo viên giúp học sinh yếu học tập tiến bộ. Giáo viên cần giúp học sinh lấy lại những
kiến thức đã mất, những kĩ năng mà học sinh chưa làm được so với chương trình qui
định. Muốn vậy giáo viên có thể thực hiện những phương pháp dạy học sau đây :
a) Phương pháp dạy học tích cực đối với học sinh yếu;
Chúng ta luôn biết học sinh yếu kém đứng trước lớp hay rụt rè nhút nhát, các em
thường khó trả lời các câu hỏi của giáo viên dù câu hỏi rất dễ. Vậy muốn học sinh
học tập có tiến bộ trước hết giáo viên phải biết cách tổ chức để học sinh ham thích
học tập. Muốn học sinh ham thích học thì phải tổ chức được tiết học mà học sinh tích
cực trong học tập. Ham thích học và học tích cực là hai yếu tố tác động qua lại với
nhau giúp cho học sinh học tập có kết quả tốt, phát huy được khả năng học tập cao
nhất.
16
- Giáo viên trong khi dạy, cố gắng cho học sinh yếu kém hoạt động càng nhiều
càng tốt trong giờ học. Làm sao cho nhiều em được lên bảng, được nói, được làm bài,
được thực hành, được thể hiện mình. Trong tiết dạy giáo viên nói nhiều thì kiến thức
các em tiếp thu được sẽ chẳng bao nhiêu. Nhưng khi cho các em lên bảng tự làm, tự
thực hành thì các em mới khắc sâu kiến thức qua đó cũng kích thích sự ham học ở
học sinh. Kiến thức nào học sinh yếu có thể làm được thì giáo viên hướng dẫn cho
học sinh làm, không nên để học sinh khá giỏi làm hết.
VD: Trong tiết dạy môn Lịch sử giáo viên nên cho những em yếu lên chỉ bản đồ
và nói nơi diễn biến trận đánh, cịn học sinh khá giỏi thì chỉ bản đồ và tường thuật
diễn biến trận đánh vv…
VD: Trong tiết dạy môn Tập làm văn Bải tả người, giáo viên nên cho những em yếu dàn
ý chính bài văn, cịn học sinh khá giỏi thì nói lên dàn ý chi tiết, hoặc trình bày bài văn. Em
yếu thì nói một câu văn để tả mơt chí tiết nào đó “Tả đơi mắt em bé” em giỏi thì tả nhiều
chi tiết hơn... vv…
- Như ta thấy ở tiểu học rất nhiều học sinh yếu khi làm việc một mình thì run sợ
nhưng khi có thêm bạn bè thì các em dạn dĩ hẳn lên và làm được bài.
VD: Như kêu một học sinh lên trước lớp hát chẳng hạn thì em này khơng thể hát
được, hoặc hát không hay, nhưng khi kêu thêm vài bạn nữa thì các em thể hiện rất tốt
bài hát. Hoặc kêu một học sinh đọc yếu lên trước lớp đọc bài chẳng hạn thì em này khơng
thể đọc tốt được, hoặc đọc không trôi chảy, nhưng khi kêu thêm vài học sinh khác lên đọc
chung (mỗi em mỗi câu hay đoạn) thì em học sinh yếu thể hiện việc đọc bài tốt hơn.
Như vậy để tất cả các em trong một giờ học đều tham gia tích cực đặc biệt những
em học yếu, nhút nhát giáo viên cần cho các em đó tham gia vào một hoạt động tập
thể, rồi dần dần cho các em thể hiện một mình. Hay cho một số em khá, giỏi lên trước
rồi mới cho các em yếu kém lên sau. Có như vậy các em yếu lên sau mới bình tĩnh
được.
17
VD: Trong tiết học đạo đức lớp 1 có phần giới thiệu về bản thân và gia đình mình
cho các bạn nghe. Nếu ngay từ đầu ta gọi một em học yếu, lên bảng giới thiệu thì em
đó lúng túng không làm được. Nhưng khi kêu các một số em giỏi khá lên nói trước và
kêu những em yếu lên sau thì gần như tất cả các em đều trả lời được.
Trong tiết học Từ ngữ lớp 4, 5 có phần tìm từ ngữ cùng một chủ đề. Nếu ngay từ đầu ta
gọi một em học yếu, lên bảng giới thiệu thì em đó lúng túng khơng tìm được. Nhưng khi kêu
một số em giỏi khá tìm từ trước và kêu những em yếu lên sau thì gần như tất cả các em đều
tìm và trả lời được.
b) Phương pháp giao việc cho học sinh yếu kém.
Để học sinh yếu kém học tập có kết quả cần yêu cầu giáo viên giao việc cho các
em làm.
Trong giảng dạy ở lớp giáo viên phải biết giao cho các em học yếu bài tập ở lớp
cũng như về nhà, (nhằm giúp các em lấy lại kiến thức đã mất) lưu ý là ở mức độ vừa
phải tránh ngay lúc đầu đưa ra một lượng kiến thức quá lớn khiến các em thấy việc
học quá nặng nề. Do đó giao bài về nhà cho các em thì lần đầu bài tập nên ít và dễ
sau đó nâng dần số lượng và độ khó lên. Khi giao việc giáo viên phải biết được việc
đó các em làm được không qua sức, và phải kiểm tra thường xuyên việc thực hiện ở
các em. Tránh các trường hợp học sinh nhờ bố mẹ hay bạn bè làm giúp, phải khen
ngợi khi em hồn thành cơng việc...Tránh không kiểm tra công việc đã giao...
Việc giao bài tập về nhà giáo viên chủ nhiệm cần phải biết phối hợp với phụ
huynh học sinh. Phải yêu cầu phụ huynh chú ý tạo thời gian cho con em học ở nhà,
Có anh chị học lớp trên, hoặc bố mẹ phải hướng dẫn cho học con em mình làm bài.
Tránh tình trạng bỏ mặc con em ự học một mình.
c) Phương pháp dạy học sinh yếu theo nhóm đối tượng
Để giúp đỡ học sinh yếu kém học tập tốt hơn thì giáo viên cần phải dạy học theo
nhóm đối tượng. Theo đó, giáo viên đứng lớp sẽ phải phân loại lớp học thành các
nhóm học sinh yếu, trung bình, khá, giỏi, để có phương pháp hướng dẫn, giao bài tập
18
và kiểm tra phù hợp. Giáo án không soạn chung cho cả lớp mà kèm theo yêu cầu
riêng cho từng nhóm học sinh.
Thơng thường trong tiết dạy giáo viên cho học sinh hoạt động nhóm cố định từ 6 8 em mà khơng theo đối tượng. Thì khi hoạt động chỉ có 1 - 2 em giỏi là tích cực làm
hết cơng việc, cịn các em khác thì thụ động, không tham gia. Nên không thể nắm
được bài dẫn đến không hiểu bài được. Lâu dần các em này trở nên thụ động, mất sự
tự tin vào bản thân dẫn đến chán học. Bởi vậy yêu cầu giáo trong tiết dạy phải chia
nhóm theo từng đối tượng, có từng dạng câu hỏi phù hợp cho từng nhóm đối tượng
và quan tâm nhiều hơn các em yếu kém. Nên để các em yếu kém có cơ hội thảo luận,
được phát biểu, được thể hiện ý kiến mình, trước bạn bè và trước lớp. Và khi phân
nhóm theo đối tượng với yêu cầu phù hợp thì các em thường ngày học yếu không
dám thảo luận nay sẽ tự làm bài, tự thực hành các kĩ năng, kĩ xảo từ đó giúp các em
hoạt động tích cực hơn, ham học hơn.
VD: Trong một tiết tập đọc khi tổ chức dạy hoạt động nhóm thì giáo viên chọn 3 –
4 em đọc yếu cho ngồi thành một nhóm và đưa u cầu là tìm từ có trong đoạn văn.
Cịn các nhóm khác có trình độ trung bình hay khá giỏi thì câu hỏi khó hơn như dạng
phải suy luận như tìm nội dung đoạn văn đó. Và như vậy bắt buộc các em học yếu đó
phải hoạt động để giải quyết những yêu cầu giáo viên đề ra .... và các em khơng cịn
thụ động nữa…
- Trong các tiết rèn và ôn giáo viên bắt buộc phải dạy theo từng nhóm đối tượng.
Vì khơng làm như thế thì các em yếu sẽ khơng nắm được kiến thức bài và giáo viên
cần tập trung nhiều thời gian cho việc rèn học sinh yếu hơn, với phương châm “Thà
trường khơng có học sinh giỏi cịn hơn có một học sinh yếu” Trong khi dạy giáo viên
cần dành nhiều thời gian tới học sinh yếu để giúp các em hiểu bài, nắm chắc kiến
thức tại lớp, lấy lại kiến thức cũ…
d) Phương pháp giảm độ khó của câu hỏi phù hợp với học sinh yếu
19
- Trong lớp học những em học yếu kém thường hay rụt rè, nhút nhát. Trong giờ
học không dám giơ tay phát biểu bài. Trong tiết học chỉ có khoảng 4 đến 5 em khá
giỏi thường xuyên giơ tay phát biểu cịn lại đều thụ động ngồi im. Đó là vì những câu
hỏi giáo viên đưa ra q khó, dạng phải suy luận nhiều khiến các em không biết đáp
án của mình đúng sai nên khơng dám trả lời. Từ đó các em thành thói quen khơng giơ
tay xây dựng bài nữa, đâm ra chán học và trở thành học sinh yếu kém. Do đó yêu cầu
giáo viên nên quan tâm đến các em yếu hay nhút nhát, không dám xung phong lên
bảng. Giáo viên phải tìm được câu hỏi dễ để gọi các em trả lời và sau đó cho cả lớp
tuyên dương để động viên các em. Phải biết đặt câu hỏi theo từng đối tượng, đối với
học sinh yếu tránh tình trạng câu hỏi q khó, các em khó xác định đúng, sai, suy
luận nhiều. Làm cho các em ngập ngừng không mạnh dạn phát biểu. Yêu cầu giáo
viên trong một giờ học nên đổi một số câu hỏi trong sách thành những câu hỏi dạng
trắc nghiệm, hay câu hỏi có gợi ý để các em yếu dễ dàng trả lời.
VD : Trong tiết tập đọc lớp 5 bài “Lớp học trên đường” ta có thể thay đổi câu
hỏi 3 “Tìm những chi tiết cho thấy Rê- mi là cậu bé rất hiếu học?” Bằng câu hỏi
dạng trắc nghiệm sau: “Các em hãy chọn đáp án a , b, c đúng với câu hỏi sau: Chi
tiết cho thấy Rê-mi là một cậu bé hiếu học là:
a. Lúc nào Rê-mi cũng đầy những miếng gỗ và không bao lâu đã thuộc tất cả các
chữ cái.
b. Rê-mi không dám sao nhãng một phút nào.
c. Cả hai ý trên đều đúng.
Hoặc câu hỏi: “Trong câu văn tác giả đã dùng biện pháp tu từ gì?” Thành
câu:“Trong câu văn tác giả đã dùng biện pháp tu từ nào sau đây : Nhân hóa hay
so sánh ?”.
Với việc đổi câu hỏi như trên thì việc học sinh yếu sẽ trả lời dễ dàng hơn và các
em mạnh dạn xung phong trả lời từ đó các em bớt đi nhút nhát, rụt rè, ham học và
học có tiến bộ hơn.
20
- Ngoài ra đối với học sinh yếu giáo viên nên đưa ra những câu hỏi dạng tái hiện
lại kiến thức. Đó là những câu hỏi gồm những kiến thức đã học rồi học sinh chỉ nhớ
lại và trả lời.
VD: Trong khi tìm hiểu bài mới có những lúc cần có kiến thức cũ để tìm ra kiến
thức mới thì giáo viên nên để học sinh yếu nhắc lại kiến thức này…Phần suy luận thì
để cho học sinh khá, giỏi.
Hoặc để giúp học sinh yếu tích cực trong học tập thì giáo viên nên hỏi những câu
hỏi mà phần trả lời có sẵn trên sách giáo khoa.
VD: Như tìm từ, tìm câu văn…trong mơn tập đọc. Trong mơn tốn thì : Bài tốn
cho biết gì? Hỏi gi?...
e) Phương pháp dạy theo trình độ của học sinh
Hiện nay trong một lớp, học sinh có rất nhiều trình độ khác nhau. Ví dụ: học sinh
lớp 5 học yếu tốn (chỉ có khả năng làm toán ở lớp 3 hoặc lớp 4). Hoặc yếu Tiếng
Việt (mức độ đọc, hay viết văn ở mức lớp 3, 4). Đối với những em này chúng ta
không thể cho các em học lại lớp dưới. Nhưng nếu dạy theo chương trình lớp 5 thì
các em khơng hiểu bài, không làm được bài sinh ra chán học. Do đó u cầu giáo
viên khi dạy học ngồi chương trình chung của khối cần phải dạy kiến thức lớp dưới
cho từng em để các em hiểu bài dù đó là bài ở lớp dưới.
Ví dụ: Dạy bài “Chia một số cho số có hai chữ số” ở khối lớp 4. Thì với những
em học lực trung bình trở lên ta dạy bình thường cịn đối với những em yếu kém chưa
thực hiện được phép chia một số cho số có một số chữ số chúng ta hướng dẫn các em
này “phép chia một số cho số có một số chữ số” (kiến thức lớp 3). Khi các em thực
hiện được rồi thì mới dạy chia cho số cho hai chữ số.
Học sinh học yếu chủ yếu là do các em mất kiến thức dẫn đến không hiểu bài. Dù
giáo viên có tạo được sự ham thích học tập ở các em nhưng khi khơng hiểu được bài
thì niềm ham thích đó cũng khơng cịn… Mà sự mất kiến thức của các em không
giống nhau trong từng lớp học.
21
VD: em yếu mơn đọc, em yếu mơn chính tả, em yếu mơn tốn… Trong những em
yếu mơn tốn thì sự mất kiến thức cũng không giống nhau, em yếu dạng tốn đố, em
yếu dạng tốn hình… và mức độ yếu cũng khác nhau…
Vì vậy khi đã xác định được trình độ ở các em rồi thì giáo viên nên có kế hoạch
dạy theo trình độ từng em.
Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 35 x 8 = ? ở tốn lớp 3, với bài này học sinh làm
khơng được thì chứng tỏ học sinh khơng thuộc bảng nhân 8. Vậy giáo viên yêu cầu
học sinh yếu có thể nhìn bảng nhân 8 để làm và sao đó u cầu em học bảng nhân 8
sau cho thuộc. Nếu không làm vậy thì học sinh yếu khơng thể làm bài được. Vì ở đây
các em biết cách làm nhưng khơng làm được vì khơng thuộc bảng nhân.
Để việc dạy theo trình độ từng em khơng ảnh hưởng chung cả lớp thì giáo viên
nên tiến hành vào tiết ơn hoặc tiết rèn. Hoặc khi giao bài về nhà cho các em. Cịn các
tiết dạy học chính khóa thì giáo viên nên đến giúp đỡ từng em…
2.3.3 Học sinh yếu do lười học, không chăm chỉ, không chuyên cần hoặc chưa
nhận thức được nhiệm vụ học tập :
Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do : Các em chán học thường xuyên trốn
học, không học bài, không làm bài, thường xuyên để quên vở bài tập ở nhà, vừa học
vừa chơi, không tập trung… Để các em này học tập có tiến bộ thì phải tạo sự được
hứng thú học tập ở các em. Giáo viên có thể sử dụng những biện pháp sau đây :
a) Phương pháp thư giản (vui chơi) trong các tiết học:
Trong học tập có rất nhiều môn học khô khan, nặng về kiến thức như tốn, tập làm
văn, chính tả vv…Đối với học sinh thường khơng có hứng thú học những mơn này
(trừ những em giỏi thì ham học vì có điểm cao). Như vậy để tạo được sự hứng thú,
ham thích việc học ở học sinh yếu giáo viên cần tăng cường các trò chơi, hình thức
học tập sinh động trong tiết học. Khi tổ chức một trị chơi thì học sinh yếu sẽ tham
gia hết mình và qua trị chơi giáo viên giúp học sinh nắm được kiến thức, hiểu được
bài hơn. Ngoài các trị chơi giáo viên cần tổ chức các hình thức học tập sinh động
khác để giúp học sinh yếu có hứng thú trong học tập như đóng kịch, phỏng vấn…
22
Trong các tiết ôn, tiết rèn giáo viên đều phải tổ chức giờ học sinh động, vui tươi như
vậy mới mang được hiệu quả cao. Nhiều hình thức học tập sinh động khi tổ chức
khơng nên cầu kì q dẫn đến mất thời gian, tốn kém… giáo viên nên chọn các hình
thức học tập đơn giản nhưng mang hiệu quả cao…
Trong thời gian chuyển tiết giữa các môn học giáo viên cần phải dành từ 5-7 phút
cho học sinh vui chơi (chơi trị chơi, múa hát, kể chuyện, đóng kịch, thi đố…). Để tạo
cho học sinh những giây phút thư giãn giữa các tiết học, tạo cho các em sự hưng
phấn, thoải mái trở lại sau giờ học căng thẳng…
Để tổ chức trị chơi và các hình thức học tập sinh động khác giáo viên lưu ý phải
để cho học sinh yếu kém tham gia phải biết được trong hình thức học tập đó học sinh
yếu có thể tham gia ở phần nào.
b) Phương pháp dạy học bằng tình thương:
Đối với học sinh yếu kém thông thường giáo viên luôn có ác cảm. Vì các em mà
giáo viên phải bỏ cơng sức nhiều hơn, thành tích lớp bị hạ thấp, danh hiệu thi đua bị
cắt… cho nên khi kèm cặp học sinh yếu tại lớp mình giáo viên thường bực bội có thái
độ khơng tốt như la mắng, nói nặng nói nhẹ thậm chí nhiều giáo viên cịn gõ đầu,
nhéo tai các em… Như vậy thì học sinh khơng thể nào học được, mỗi lần thấy thầy cô
lại gần là sợ bị ăn đòn.. nên học yếu lại càng học yếu…
Một số giáo viên hiện nay về phương pháp giáo dục còn mang ảnh hưởng cách
giáo dục xưa. Như còn dùng địn roi, hình phạt, nhục mạ học sinh trước lớp làm cho
các em khơng có thiện cảm đối với giáo viên, với trường lớp, sinh ra chán học. Để
giúp đỡ học sinh yếu kém giáo viên phải biết sử dụng lời nói, cử chỉ, tổ chức các hoạt
động dẫn dắt các em vào bài học, giúp các em yêu mến bạn bè, trường lớp, thầy cô...
Giáo viên muốn học sinh ham thích học thì trong tiết dạy điều cần thiết là phải thể
hiện được tác phong sư phạm mẫu mực, gần gũi, ân cần với học sinh. Tôn trọng và
đối xử công bằng với học sinh.
23
Trong giảng dạy giáo viên lưu ý lời nói phải nhẹ nhàng, giữa giáo viên và học sinh
ln có sự ăn ý nhịp nhàng, khi giảng bài giáo viên phải luôn quan sát học sinh trong
lớp, đặc biệt những em học yếu hay nghịch ngợm. Mỗi lần học sinh có ý kiến nếu trả
lời sai thì phải giúp học sinh hiểu cái sai, không nên để cho học sinh ngồi xuống mà
khơng biết mình sai điểm nào, đừng để học sinh bị mất mặt trước mặt bạn bè, làm trò
cười cho lớp học. Không sử dụng thước làm công cụ đánh đập học sinh, sử dụng
thước nhẹ nhàng tránh việc gõ thước quá mạnh làm học sinh giật mình. Biết động
viên, khích lệ học sinh dù các em chưa thật sự tiến bộ hay tiến bộ rất chậm. Giáo viên
biết sử dụng năng khiếu của mình làm tiết học thêm sinh động. Ví dụ: Tìm những câu
truyện vui kể cho các em, hay pha một vài câu hài hước để học sinh cảm thấy thoải
mái... Một tiết học mà học sinh hoạt động vui vẻ, có tiếng cười sẽ có hiệu quả hơn
những tiết học mà học sinh quá nghiêm túc.
Để các em yếu mạnh dạn hơn thì giáo viên phải biết yêu thương, gần gũi, tạo sự
thân tình để các em hịa đồng vào mơi trường học tập ở trường lớp. Để từ đó các em
có ấn tượng tốt với trường lớp, thầy cơ mà ham thích học tập.
Giáo viên phải biết gần gũi tâm sự, với trò chuyện với những học sinh yếu đặc
biệt những em nhút nhát. Hỏi các em về chuyện gia đình, về chuyện học hành, để các
em cảm thấy thân thiện với giáo viên hơn và qua đó giáo viên sẽ hiểu được nguyên
nhân vì sao các em học yếu, hiểu về tâm tư tình cảm, hồn cảnh các em để có biện
pháp dục tốt hơn.
Ví dụ : Nhà em ở đâu? Bố mẹ làm gì ? Hơm nay ai chở em đi học? Hơm nay em
có hiểu bài khơng? Có cần cơ giúp gì khơng vv...
- Nhiều khi chỉ một câu nói, một cử chỉ của thầy cô mà thay đổi cả cuộc đời các
em. Làm cho các em thấy thầy cô luôn quan tâm đến mình, khơng ghét bỏ mình và
các em thêm gần gũi, yêu mến thầy cô, tự tin vào bản thân mình (Như một lời khen
hay một lời khuyến kích, động viên, một cử chỉ thân mật). Đối với những em còn
24
thiếu tự tin thì giáo viên nên tìm lấy một ưu điểm nào đó của các em để khen ngợi
động viên. Hãy ln khen học sinh, cố tìm ưu điểm dù nhỏ nhất để khen.
Ví dụ : Như “Chữ em hôm nay viết đẹp thật đấy! Cần cố gắng hơn nữa!”. Hay “
Chà hôm nay em ăn mặc gọn gàng sạch sẽ ghê!”. Hôm nay em làm bài nhanh hơn
hôm qua rồi đó... “Bài Tập làm văn của em hơm nay chữ viết đã tiến bộ nhiều! Cần cố
gắng hơn nữa!”. Hay “ Chà hôm nay bài từ ngữ em đã trình bày rất tốt”. “Hơm nay em
đọc bài ít vấp hơn tuần trước rồi đó”... Vừa tạo cho các em sự cố gắng, nhưng lại tạo cho
các em có thêm một chút tự tin vào bản thân mình. Từ đó các em khơng cịn ác cảm với
trường lớp, thầy cơ, với việc học hành.
Ngồi ra cuối học kì cần phải tổ chức khen thưởng cho các em học yếu mà học tập
có tiến bộ. Nhằm động viên các em có thêm hứng thú trong học tập, tránh tình trạng
chỉ khen thưởng cho học sinh khá giỏi...
c) Phương pháp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp :
Để giúp đỡ học sinh yếu kém ngồi các tiết học chính khóa, giáo viên cần thơng
qua các tiết hoạt động ngồi giờ lên lớp. Như tiết sinh hoạt lớp các hoạt động ngồi
trời…
Trong tiết sinh hoạt lớp giáo viên có thể tổ chức tuyên dương các em học yếu (dù
đó là những tiến bộ nhỏ nhất) nhằm làm cho các em có thêm hứng thú trong học tập
và để cho các em thấy mọi nổ lực các em luôn được giáo viên và bạn bè đánh giá cao.
Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với tổng phụ trách đội tổ chức các hội thi giữa
các lớp để giúp các em lấy lại kiến thức… Chú ý nội dung thi chỉ dành cho học sinh
yếu và câu hỏi đơn giản các em có thể trả lời được. Tránh các cuộc thi chỉ có các em
giỏi tham gia. VD : Như thi về kiến thức tiểu học, an tồn giao thơng, phịng tránh
bênh tật… Qua cuộc thi giúp các em ôn lại kiến thức và giúp cho các em yếu ham học
hơn. Phối hợp với tổng phụ trách tuyên dương các em yếu kém có tiến bộ qua buổi
chào cờ…
25