Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

4. Phạm vi nghiên cứu: Dạy và học môn Hoá học ở các tr¬ường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.32 KB, 134 trang )

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang
tiến hành cuộc cách mạng toàn diện trên mọi lĩnh vực với mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới đó, đổi mới
giáo dục là một trong những trọng tâm của sự đổi mới.
Với quan niệm giáo dục là quốc sách hàng đầu, báo cáo chính trị của
đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định:
“Phát triển giáo và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát
huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học…”
Sự đổi mới của giáo dục nhằm tạo ra những con người toàn diện có
phẩm chất đạo đức, có sức khoẻ, có tri thức và năng động sáng tạo.
Từ thực tế dạy học Hoá học ở các trường trung học phổ thông(THPT)
trên địa bàn các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá, đặc biệt là các huyện
vùng cao biên giới: Tỷ lệ học sinh yếu kém rất cao, thậm chí có những lớp
số học sinh này tương đương với số học sinh đạt yêu cầu. Vì vậy, việc tìm
ra nguyên nhân và có những biện pháp giúp đỡ những đối tượng học sinh
này để các em đạt yêu cầu và có kết quả cao hơn trong học tập là việc làm
rất cần thiết. Đó là lí do tôi chọn đề tài này.
2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Hoá học ở trường
THPT.
1
- Đối tượng nghiên cứu : Dạy và học Hoá học đối với đối tượng học
sinh yếu kém môn hoá học ở các trường THPT thuộc các huyện miền núi
tỉnh Thanh Hoá.
0 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
a/ Mục đích:


Việc thực hiện đề tài nhằm nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp
cơ bản giúp đỡ học sinh yếu kém để học sinh đạt yêu cầu và có kết quả cao
hơn, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém trong học tập môn Hoá học ở các trường
THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
b/ Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu lí luận và tình hình thực tiễn về các biện pháp phát
triển năng lực nhận thức, năng lực tư duy, kĩ năng vận dụng kiến thức của
học sinh nói chung và học sinh yếu kém môn hoá học nói riêng.
- Đề xuất một số biện pháp giúp đỡ đối tượng học sinh yếu kém môn
Hoá học ở các trường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá,
chú ý vào những vấn đề lý thuyết cơ sở hoá học chung (Hoá học đại cương)
và Hoá học vô cơ.
- Kiểm tra khảo sát hiệu quả và tính khả thi của những biện pháp đ-
ược đề xuất.
4. Phạm vi nghiên cứu: Dạy và học môn Hoá học ở các trường
THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp hội thảo chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6. Giả thuyết khoa học:
2
Trong dạy học Hoá học, với học sinh yếu kém nếu xác định được
đúng nguyên nhân và áp dụng những biện pháp tích cực, chúng ta có thể
giúp đỡ các em vươn lên đạt được yêu cầu và có kết quả cao hơn trong
học tập.
7. Những đóng góp mới của đề tài.
- Xác định những nguyên nhân và đề xuất một số biện pháp giúp
đỡ học sinh yếu kém đạt được yêu cầu và có kết quả cao hơn trong học tập

Hoá học ở các trường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
- Sưu tầm và xây dựng :
+ Hệ thống các bài tập cơ bản, thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập,
củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng, phát triển năng lực nhận thức Hoá
học cho học sinh lớp 10, 11,12 THPT (có thể sử dụng cho nhiều đối tượng
học sinh khác nhau, đặc biệt có ý nghĩa trong việc hỗ trợ các biện pháp
giúp đỡ học sinh yếu kém môn Hoá học).
+ Các bài giảng theo hướng hoạt động hoá người học với lớp có nhiều
đối tượng học sinh nhận thức khác nhau, việc kết hợp giữa bài học trên lớp
với việc chia nhóm để giúp đỡ học sinh.
+ Phương pháp sử dụng hệ thống bài tập và các bài giảng đó để góp
phần làm giảm tỷ lệ học sinh yếu kếm trong học tập môn hoá học ở các
trường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
Để góp phần làm giảm tỉ lệ học sinh yếu kém trong học tập môn
Hoá học ở các trường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
3
Nội dung
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I. bản chất của quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình thống nhất giữa hoạt động dạy
của thầy với hoạt động học của trò, trong đó thầy giữ vai trò chủ đạo, điều
khiển, trò giữ vai trò chủ động, tự điều khiển.
1. Dạy học là hoạt động phối hợp của hai chủ thể
Thông thường khi nói đến dạy học thường người ta chỉ hiểu đó là
một nghề, một hoạt động đặc trưng của giáo viên, sự truyền đạt cho học
sinh những kiến thức trên lớp. Chính vì vậy trong một thời gian dài phương
pháp giảng dạy chủ yếu là sự truyền đạt, thông báo kiến thức, học sinh
hoàn toàn phụ thuộc vào giáo viên, chủ yếu nghe, ghi chép, ghi nhớ và tái
hiện.
Hiểu cho đúng, dạy học là sự phối hợp giữa hai hoạt động: Hoạt

động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Hai hoạt động dạy
và học diễn ra trong cùng thời điểm, cùng nội dung và hướng tới cùng một
mục đích, hai hoạt động này không tách rời nhau mà thống nhất biện chứng
với nhau trong cùng một hoạt động thống nhất là hoạt động “dạy học”.
Giáo viên là chủ thể của hoạt động giảng dạy, đối tượng hoạt động
của giáo viên là hệ thống kiến thức, sự phát triển trí tuệ và nhân cách học
sinh.
Để làm tốt chức năng giảng dạy, người giáo viên cần có kiến thức
chắc chắn về khoa học chuyên ngành, nghiệp vụ sư phạm, hiểu và nắm
chắc qui luật phát triển tâm lý, ý thức, đặc điểm của hoạt động nhận thức
của từng bậc học, lớp học và của từng học sinh.
2. Dạy học là hoạt động trí tuệ, hoạt động nhận thức
4
Dạy và học là một hoạt động trí tuệ của thầy và trò, một quá trình
vận động phát triển liên tục về nhận thức và trí tuệ học sinh.
Học tập, ta có thể hiểu một cách đơn giản gồm học và tập. Học là
quá trình nhận thức, tiếp thu những kiến thức, kinh nghiệm được đúc rút
trong quá trình phát triển của nhân loại, lịch sử phát triển của xã hội; tập có
thể hiểu là sự rèn luyện để hình thành, phát triển kỹ năng hoạt động, kỹ
năng vận dụng, nảy sinh sáng tạo, làm giàu kiến thức, tạo nên sự phát triển
nhận thức, trí tuệ của người học.
3. Quá trình dạy học với tư cách là một hệ thống
Xét theo quan điểm thống, có thể hiểu quá trình dạy học là một chỉnh
thể gồm nhiều thành tố, mỗi thành tố có một vị trí, chức năng và vận động
theo một qui luật riêng, nhưng chúng luôn có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tuân theo một qui luật vận động của toàn hệ thống, được đặt trong
một môi trường. Giữa hệ thống và môi trường có mối quan hệ mật thiết,
không tách rời nhau.
Các thành tố trong một chỉnh thể thống nhất dạy học đó là giáo viên,
học sinh, mục đích và nhiệm vụ, nội dung và hình thức tổ chức dạy học,

phương pháp và phương tiện dạy học. Trong đó nhân tố trung tâm là giáo
viên và học sinh. Tất cả các thành tố trên được đặt trong môi trường Văn
hoá - Chính trị – Xã hội, Kinh tế – Khoa học – Kỹ thuật của đất nước,
trong trào lưu phát triển chung của thời đại.
Dạy học cần có môi trường thuận lợi về cả lĩnh vực vĩ mô và vi mô.
Môi trường vĩ mô là môi trường Chính trị – Xã hội ổn định, pháp luật kỷ
cương vững chắc, nền khoa học công nghệ tiên tiến, kinh tế phát triển. Môi
trường vi mô là môi trường gia đình, nhà trường, đoàn thể, mối quan hệ
thầy trò, bạn bè.
Sự vận động và phát triển của quá trình dạy học là kết quả của quá
trình tác động biện chứng giữa các thành tố, nhân tố. Kết quả dạy học là kết
5
quả hoạt động, phát triển tổng hợp toàn hệ thống. Muốn nâng cao chất
lượng dạy học cần phải nâng cao chất lượng của từng thành tố, nhân tố.
Đề cập đến vấn đề này trong Lý luận dạy học Hoá học, cố Giáo sư
Nguyễn Ngọc Quang viết:
“Quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn, như thế có nghĩa các thành tố
của nó luôn tương tác với nhau theo nhữnh qui luật riêng, thâm nhập vào
nhau, qui định lẫn nhau để tạo nên sự thống nhất biện chứng:
a. Giữa dạy với học,
b. Giữa truyền đạt với điều khiển trong dạy,
c. Giữa lĩnh hội với tự điều khiển trong học.” [40]
Qua đây cho thấy quá trình dạy học là hoạt động cộng đồng – hợp tác
giữa các chủ thể: Thầy – cá thể trò, trò – trò trong nhóm, thầy – nhóm trò
…Chất lượng dạy học chỉ có tốt nếu chúng ta thực hiện tốt được các mối
quan hệ, phép biện chứng trên.
II. Phương pháp dạy học, xu hướng đổi mới phương pháp dạy học
trong giai đoạn hiện nay.
1. Phương pháp dạy học
a. Phương pháp dạy và phương pháp học

Phương pháp dạy học bao hàm phương pháp dạy của giáo viên và
phương pháp học tập của học sinh, vì vậy phương pháp dạy học được hiểu
là tổ hợp hoạt động chung của giáo viên và học sinh, nhằm giúp học sinh
nắm vững kiến thức, kỹ năng,kỹ xảo...
Xuất phát từ bản chất của quá trình dạy học, có thể thấy phương
pháp dạy là phương pháp tổ chức các hoạt động học tập, phương pháp điều
khiển quá trình nhận thức và giáo dục học sinh. Phương pháp học là
phương pháp nhận thức và rèn luyện kỹ năng để tự phát triển năng lực nhận
thức, phát triển trí tuệ. Tuy nhiên cả hai phương pháp dạy và học đều được
thực hiện trong cùng một nội dung, với cùng mục đích, luôn có sự thống
6
nhất chặt chẽ, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau dưới sự chỉ đạo của phương pháp
dạy.
Phương pháp dạy học luôn gắn liền với mục đích và nội dung dạy
học, nó thể hiện trình độ nghiệp vụ sư phạm của giáo viên, khoa học trong
nội dung, kỹ thuật trong thao tác, nghệ thuật trong thể hiện. Phương pháp
dạy học chỉ có hiệu quả khi giáo viên nắm vững kiến thức, nắm được qui
luật phát triển khoa học, qui luật nhận thức, tâm lý lứa tuổi học sinh trong
mỗi cấp học, lớp học, của từng đối tượng học sinh và sẽ có kết quả tốt hơn
khi có phương tiện kỹ thuật hỗ trợ trong quá trình dạy học. Với yêu cầu
hiện nay cần có phương tiện kỹ thuật hiện đại.
Trong mỗi bài dạy thường sử dụng nhiều phương pháp, là sự tổ hợp
nhiều phương pháp dạy học. Việc lựa chọn hợp lý và sử dụng nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học là một nghệ thuật sư phạm.
“Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt động phối hợp
của giáo viên và học sinh, trong đó phương pháp dạy chỉ đạo phương pháp
học, nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh hệ thống kiến thức khoa học và hình
thành hệ thống kỹ năng, kỹ xảo thực hành sáng tạo”.
b. Phương pháp dạy học Hoá học, những đặc trưng và phân loại
phương pháp dạy học Hoá học


Phương pháp dạy học Hoá học
“Phương pháp dạy học Hoá học có thể hiểu là cách thức hoạt động
cộng tác có mục đích giữa giáo viên và học sinh, trong đó thống nhất sự bị
điều khiển – tự điều khiển của học sinh, nhằm làm cho học sinh chiếm lĩnh
khái niệm Hoá học”. [40]
Như vậy phương pháp dạy học Hoá học là phương pháp dạy học Hoá
học của giáo viên và phương pháp học tập Hoá học của học sinh, với chức
năng khác nhau:
Chức năng của phương pháp dạy học Hoá học của giáo viên:
7
- Truyền đạt nội dung trí dục liên quan đến Hoá học tới học sinh.
- Điều khiển quá trình học tập của học sinh.
Chức năng của phương pháp học tập Hoá học của học sinh:
- Tiếp nhận nội dung trí dục do thầy, cô truyền đạt thành kiến thức
của mình.
- Tự rèn luyện để biến nội dung trí dục do thầy, cô truyền đạt thành
kiến thức của mình.
- Trong quá trình dạy học, giữa phương pháp dạy, phương pháp
học, các chức năng có mối liên hệ qua lại chặt chẽ, không tách rời
nhau.

Những đặc trưng của phương pháp dạy học Hoá học
Trong “Lý luận dạy học Hoá học” Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang đưa
ra hai đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học Hoá học:
1) Những đặc trưng của phương pháp nhận thức Hoá học phải được
phản ánh vào trong phương pháp dạy học. Đó là phương pháp học tập có
lập luận trên cơ sở thực nghiệm – trực quan, có nghĩa là phải kết hợp thống
nhất phương pháp thực nghiệm với tư duy khái niệm.
2) Tâm lý lĩnh hội khái niệm Hoá học cũng nảy sinh ra những đặc

thù của việc dạy học Hoá học. Đối tượng của Hoá học là chất cấu tạo bởi
phân tử, nguyên tử, ion…đều là những hạt vi mô, tương ứng với những
khái niệm trừu tượng mà học sinh cần được lĩnh hội, trong dạy học Hóa
học dùng mô hình cụ thể có kích thước vĩ mô để diễn tả cấu tạo phân tử các
chất và cơ chế phản ứng Hoá học của thế giới vi mô.
[40]

Phân loại phương pháp dạy học Hoá học
Trên cơ sở phân loại phương pháp dạy học Hoá học của Giáo sư
Nguyễn Ngọc Quang, trong “Phương pháp dạy học môn Hoá học ở các
8
trường THPT” tác giả TS Lê Trọng Tín đưa ra 5 căn cứ, tiêu chuẩn để phân
loại phương pháp dạy học Hoá học:
1) Mục đích thực hiện trong một giai đoạn của quá trình dạy học
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu tài liệu mới.
- Nhóm các phương pháp củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo.
- Nhóm các phương pháp hoàn thiện kiến thức (khái quát hóa, hệ
thống hoá kiến thức).
- Nhóm các phương pháp kiểm tra đánh giá kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo của học sinh.
2) Nguồn phát thông tin
- Nhóm các phương pháp dùng lời nói, chữ viết.
- Nhóm các phương pháp dùng phương tiện trực quan.
- Nhóm các phương pháp dùng công tác tự lực của học sinh.
3) Việc làm cụ thể của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học
Có thể có phương pháp thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề…
4) Căn cứ về thao tác tư duy
Có 3 phương pháp có liên quan chặt chẽ đến thao tác tư duy, đó là:
Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
khái quát hoá.

5) Cách thức giáo viên điều khiển quá trình tiếp nhận kiến thức của
học sinh
Căn cứ vào cấu trúc bên trong của sự lĩnh hội kiến thức của học sinh
có thể phân ra các phương pháp dạy học sau:
- Kiểu thông báo – tái hiện
- Kiểu làm mẫu – bắt chước
- Kiểu dạy học nêu vấn đề - ơrixtic [47]
2. Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay
a. Phương hướng chung về đổi mới phương pháp dạy học
9
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng
định: “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng
lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, làm chủ
kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay”.
Đề cập tới phương pháp giáo dục phổ thông, Luật giáo dục – 2005,
điều 28 – mục 2 đã nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
được tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Đổi mới phương pháp dạy học thực chất là một quá trình nâng cao
hiệu quả của công việc dạy học, làm cho công tác này gắn bó, phục vụ tốt
hơn, ngày càng cao hơn cho việc hình thành và phát triển các phẩm chất
nhân cách của người Việt Nam hiện đại như định hướng mà nghị quyết
Đảng đã chỉ ra. Đổi mới phương pháp dạy học vì thế đòi hỏi phải nhạy
bén, sáng tạo, linh hoạt, đồng thời phải bám sát đối tượng, thực tiễn cuộc
sống hiện tại và tương lai.
Đề cập về phương hướng đổi mới và hoàn thiện phương pháp dạy
học (PPDH) ở nước ta, trong “Đề cương bài giảng tập huấn lớp giáo viên

cao đẳng sư phạm” 10/2003 GS.TSKH Nguyễn Cương đưa ra các vấn đề
cần thực hiện:
1. Xây dựng cơ sở lý thuyết có tính phương pháp luận để tìm hiểu
bản chất PPDH và định hướng hoàn thiện PPDH, chú ý những quan điểm
phương pháp luận về PPDH.
2. Hoàn thiện chất lượng các phương pháp dạy học hiện có.
3. Sáng tạo ra các phương pháp dạy học mới bằng cách:
- Liên kết nhiều PPDH riêng lẻ thành tổ hợp PPDH phức hợp.
10
- Liên kết PPDH với các phương tiện kỹ thuật hiện đại.
- Chuyển hoá phương pháp khoa học thành PPDH đặc thù môn
học.
- Đa dạng hoá các PPDH phù hợp với từng cấp học, bậc học, phù
hợp với từng loại hình trường lớp, từng môn học.
b. Một số thử nghiệm chiến lược đổi mới phương pháp dạy học ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay
1. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “Dạy học hướng vào
người học”.
- Mục tiêu: Nhằm chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã
hội, tôn trọng nhu cầu, hướng thú, khả năng và lợi ích của học sinh.
- Nội dung: Chú trọng kỹ thuật thực hành vận dụng kiến thức, năng
lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, hướng vào sự chuẩn bị cho học sinh học
tiếp lên bậc học trên và việc đáp ứng với yêu cầu cuộc sống và làm việc,
hoà nhập với sự phát triển cộng đồng xã hội.
- Phương pháp: Coi trọng việc rèn luyện cho học sinh phương pháp
tự học, phát huy suy nghĩ, tìm tòi độc lập theo những nhóm nhỏ, thông qua
thảo luận, thí nghiệm thực hành, thâm nhập thực tế. ở đây giáo viên luôn
quan tâm đến sự vận dụng vốn hiểu biết, kinh nghiệm của từng cá nhân và
tập thể học sinh để xây dựng bài học, vì vậy mà giáo án được thiết kế nhiều
phương án theo kiểu phân nhánh, được giáo viên linh hoạt điều chỉnh theo

diễn biến của tiết học với sự tham gia tích cực của học sinh, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân.
- Hình thức tổ chức: Bố trí lớp học thay đổi linh hoạt phù hợp với
hoạt động học tập trong tiết học, trong từng phần của tiết học. Có thể tổ
chức dạy học trong lớp học, trong phòng thí nghiệm hoặc tại một cơ sở sản
xuất.
11
- Đánh giá: Học sinh tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của
mình, được tham gia tự đánh giá, đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt được
các mục tiêu của từng giai đoạn học tập. Chú trọng mặt chưa được so với
mục tiêu đề ra.
Lý thuyết dạy học theo hướng “Dạy học hướng vào người học” (hay
trước đây còn gọi “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”) là một tư tưởng
tiến bộ, tích cực, nhưng đã tuyệt đối hoá hứng thú, nhu cầu hành vi biệt lập
của cá nhân học sinh. Đây là một quan điểm, một tư tưởng chứ không phải
là một phương pháp dạy học. Trên tinh thần quan điểm này giáo viên có thể
tìm được phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả cho mỗi phần, mỗi giai
đoạn trong quá trình dạy học.
2. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “Hoạt động hoá
người học”
- Bản chất: Tổ chức cho người học được học tập trong hoạt động và
bằng hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo, trong đó việc xây dựng phong
cách học tập sáng tạo là cốt lõi của việc đổi mới phương pháp giáo dục nói
chung và phương pháp dạy học nói riêng.
Vì vậy để thực hiện được dạy học theo tinh thần này cần phải rèn
luyện một cách có hệ thống cho học sinh có tính tự lập, chủ động ngay từ
khi còn nhỏ để mỗi cá nhân tìm được con đường riêng, sáng tạo một
phương pháp học tập phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình. Xây dựng
phong cách “Học tập sáng tạo” là cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy
học.

- Học tập, sáng tạo và vai trò mới của giáo viên:
Trong thời đại ngày nay học tập và sáng tạo không còn là hai hoạt
động tách biệt nhau mà là hai mặt của một quá trình gắn bó chặt chẽ với
nhau. Cách tốt nhất để hình thành và phát triển năng lực nhận thức, năng
lực sáng tạo của học sinh là đặt họ vào vị trí chủ thể hoạt động tự lực, tự
12
giác, tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực
sáng tạo, hình thành quan điểm đạo đức.
Đề cao vai trò của hoạt động, tự học của học sinh không có nghĩa hạ
thấp vai trò của giáo viên trong dạy học mà còn khẳng định vai trò của giáo
viên không suy giảm. Giáo viên cần chú ý không chỉ dạy học sinh cách giải
quyết vấn đề mà còn dạy học sinh cách học, để học sinh tự mình tìm ra
cách giải quyết một vấn đề nảy sinh trong học tập, trong cuộc sống. ở đây
chúng ta cũng đã thấy rõ vai trò của người giáo viên cũng đã thay đổi,
người giáo viên không còn là nguồn phát thông tin duy nhất, không chỉ lo
truyền thụ kiến thức, không phải làm mọi việc cụ thể trên lớp, mà làm các
việc chủ yếu sau : Thiết kế, lập kế hoạch dạy học; uỷ thác tạo động cơ,
biến ý đồ dạy học của giáo viên thành nhiệm vụ học tập tự nguyện của học
sinh; điều khiển và tổ chức học sinh hoạt động; thể chế hoá (chốt lại và
hoàn thiện những kiến thức thu được của học sinh), biến những kiến thức
riêng lẻ của học sinh thành tri thức khoa học của xã hội mà học sinh cần
tiếp thu, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng tri thức thu được để giải quyết
các vấn đề có liên quan đến đời sống và sản xuất.
c. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao hoạt động chủ
động, tích cực của học sinh trong học tập Hoá học
“Phương pháp dạy học có hiệu quả là cách làm việc của giáo viên
phát huy được cao độ tính tự giác, tích cực, tự lực của học sinh trong quá
trình học tập”.
Phương hướng chung của việc hoạt động hoá người học trong dạy
học môn Hoá học là quan tâm tạo điều kiện để người học trở thành chủ

thể sáng tạo trong giờ học. Để có thể thực hiện vấn đề này cần phải chú
ý các điểm sau:
13
1. Khai thác đặc thù môn Hoá học tạo ra các hình thức hoạt động đa
dạng phong phú, giúp học sinh chủ động tự chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng
trong giờ học.
Tăng cường sử dụng thí nghiệm, các phương tiện trực quan, các
phương tiện kỹ thuật dạy học Hoá học. Sử dụng phối kết hợp nhiều phương
pháp dạy học của giáo viên nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh trong quá trình học tập.
2. Đổi mới phương pháp học tập của học sinh, tăng thời gian dành
cho học học sinh hoạt động trong giờ.
Như phần đã trình bày ở trên, đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng “Dạy học hướng vào người học” đặc biệt theo hướng “Hoạt động
hoá người học” là những tư tưởng mới theo chiều hướng tích cực. Bản chất
của sự đổi mới đó là tăng cường hoạt động của học sinh, tổ chức cho người
học được hoạt động trong học tập và bằng hoạt động tự giác, tích cực sáng
tạo, là cốt lõi của sự đổi mới. Có nhiều cách thực hiện, cụ thể là:
- Giảm thuyết trình giảng giải, tăng đàm thoại vấn đáp, trong đó tăng
đàm thoại phát hiện. Trong giờ học sinh được làm việc nhiều hơn, được
luyện tập, trao đổi và thảo luận.
- Khi học sinh làm việc với sách giáo khoa, tài liệu nghiên cứu, tìm
tòi phát hiện, câu hỏi mà giáo viên đưa ra đòi hỏi có sự so sánh, khái quát
và tổng hợp, suy luận, đòi hỏi học sinh có sự tư duy sáng tạo.
- Tăng các hoạt động đặc thù bộ môn: Thí nghiệm thực hành, sử
dụng đồ dùng, trang thiết bị cho việc dạy học bộ môn….nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Dành thời gian thích đáng cho việc uốn nắn, dạy cho học sinh
phương pháp học, trong đó có phương pháp tự học, trên cơ sở cho học sinh
được trình bày về phương pháp tiếp cận vấn đề, chủ động vận dụng tổng

hợp, sáng tạo để giải quyết các vấn đề trong học tập hay trong thực tiễn.
14
3. Tăng mức độ hoạt động trí lực, chủ động, tích cực của học sinh
Thực hiện bằng các biện pháp sau:
- Thường xuyên sử dụng tổ hợp phương pháp dạy học phức hợp –
dạy học nêu vấn đề. Trong quá trình dạy học Hoá học, người giáo viên phải
tổ chức quá trình giải quyết các vấn đề học tập như thế nào để ở một mức
độ nào đó gần giống như quá trình nghiên cứu khoa học, trong đó học sinh
là chủ thể “nghiên cứu”.
- Tăng cường sử dụng hệ thống các bài tập (định tính, định lượng),
đòi hỏi học sinh vận dụng khả năng khái quát, tổng hợp, suy luận, sáng tạo.
Trong đó có những bài tập dùng hình vẽ, sử dụng những vốn kiến thức,
hiểu biết của học sinh trong chương trình môn học và chương trình các
môn học có liên quan.
- Từng bước đổi mới hình thức và nội dung kiểm tra nhằm đánh giá
ngày càng cao những biểu hiện chủ động, sáng tạo của học sinh, đánh giá
cao về kỹ năng thí nghiệm thực hành, kỹ năng vận dụng sáng tạo kiến thức
để giải quyết các bài toán thực tiễn.
III. Dạy cho học sinh cách học vừa là nhiệm vụ vừa là yêu cầu quan trọng
trong dạy học Hoá học
1. Quan niệm về việc học
Có thể xác định việc học như là một quá trình thu nhận, ghi nhớ,
tích luỹ, sử dụng, liên kết, lý giải và xử lý thông tin, giải quyết vấn đề. Đó
là cách tiếp cận việc học theo mô hình quá trình thông tin, dẫn đến một
định nghĩa có thể ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn thực hành sư phạm:
“Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự
thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị con người mình, bằng
cách thu nhận, xử lý thông tin, lấy từ môi trường sống xung quanh mình”.
2. Những yếu tố quan trọng của phương pháp học tập Hoá học
• Học thu thập thông tin

15
1) Học cách nghe giảng, ghi bài trên lớp
- Tận dụng sách giáo khoa, sách bài tập, đồng thời phải có vở ghi và
vở làm bài (hoặc có vở học tập). Kết hợp cao nhất đồng thời thính giác, thị
giác. Cố gắng để hiểu rõ vấn đề mấu chốt, trọng tâm chi phối các vấn đề
khác.
- Nhanh chóng xác định được thủ thuật nghe và ghi bài, phù hợp với
mỗi môn học, thậm chí đối với mỗi thầy cô giáo.
2) Học cách học bài:
- Học cách tự học: Chú ý cách học theo hướng thao tác tư duy từ
thấp lên cao theo sáu nấc thang nhận thức hoặc tư duy theo Bloom: nhận
biết, thông hiểu, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá. Chú ý học ứng
dụng, học phân tích, học bình luận đánh giá từng kiến thức, học tư duy trừu
tượng, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo trong quan hệ hệ thống của các
kiến thức.
- Học cách trình bày diễn giảng bằng lời, những điều học được trước
nhóm nhỏ học tập hoặc trước tập thể lớp.
- Học cách tham khảo trí tuệ của bạn học và đồng nghiệp hoặc cách
thuyết phục các bạn học.
3) Học cách đọc sách
- trước hết phải rèn luyện lòng ham thích đọc sách.
- Cần học cách chọn đọc sách: phù hợp với mục tiêu môn học, phù
hợp với trình độ người đọc, biết chọn sách để đào sâu và mở rộng một vấn
đề.
- Học cách đọc sách và ghi chép để lưu giữ thông tin, để bổ sung bài
giảng và để tự học nâng cao tri thức và năng lực.
4) Học cách làm thí nghiệm, thực nghiệm
16
Học cách quan sát và làm thí nghiệm, quan sát các phương tiện trực
quan và hiện tượng trong cuộc sống thực tiễn, từ đó học cách làm thí

nghiệm, thực nghiệm.
• Học xử lý thông tin
Để có thể tự rút ra kết luận cần thiết hoặc nhận xét, trả lời câu hỏi
hoặc hệ thống câu hỏi hướng dẫn, cần:
1) Hỏi để hiểu rõ và hiểu sâu.
2) Cần rèn luyện thường xuyên thói quen nêu thắc mắc, nêu vấn đề
thảo luận.
3) Cần học cách tóm tắt tài liệu đọc được, làm tổng kết hệ thống hoá
kiến thức của một chương, một số chương hoặc cả học kỳ, cả năm học. Chú
ý so sánh, khái quát hoá. Tập phân tích, tổng hợp, bình luận, nêu chính kiến
của bản thân.
• Học ghi nhớ
1) Chỉ có thể ghi nhớ được trên cơ sở đã hiểu rõ
2) Cũng phải ghi nhớ, nhưng nhớ một cách chọn lọc thông minh. Đối
với đa số học sinh thường chỉ có thể nhớ những điểm chủ yếu, quan trọng
nhất. Vì vậy cần phân biệt những điều bắt buộc phải nhớ, những điều nên nhớ
và những điều có thể nhớ, để tuỳ theo khả năng của bản thân mà quyết định
có thể không cần nhớ một số chi tiết, một số kiến thức có thể được suy ra từ
những kiến thức cốt lõi. Mặt khác, có thể chủ tâm quên đi một số kiến thức
không còn phù hợp để “dành chỗ trống trong óc” cho những điều quan trọng
hơn.
3) Giảng lại cho bạn, cho người khác (tức là tăng cường học nhóm)
một nội dung kiến thức là một cách rất tốt giúp hiểu và nhớ lâu.
• Học vận dụng kiến thức
17
1) Cần luôn tìm cách vận dụng lý thuyết đã học vào bài tập (giải
thích hiện tượng thực tiễn, làm toán…), vào thực tiễn cuộc sống và sản
xuất.
2) Tận dụng cơ hội áp dụng những điều đã học vào cuộc sống để rèn
luyện phương pháp tư duy, óc suy luận sáng tạo.

3) ở đây cần chú ý học cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề từ đơn
giản đến phức tạp dần dần, từ nhỏ đến lớn. Cần học cách chọn vấn đề
nghiên cứu phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân. Đồng thời học
cách nghiên cứu vấn đề và học cách giải quyết một vấn đề học tập hay thực
tiễn.
• Học cách lập kế hoạch học tập
1) Cần học cách lập kế hoạch phấn đấu trong học tập với những mục
tiêu cụ thể để có thể có hướng phấn đấu, để phân biệt được việc chính và
việc phụ, việc làm ngay với việc sẽ phải làm, từng bước đánh giá kết quả
thực hiện mục tiêu phấn đấu nhằm từng bước đánh giá kết quả thực hiện
mục tiêu phấn đấu nhằm từng bước tích luỹ kết quả học tập.
2) Học cách lập kế hoạch sử dụng thời gian để làm chủ được quĩ thời
gian và không quên các việc sẽ phải làm, không bị động trước rất nhiều bài
học, bài làm và tư liệu cần phải đọc, cũng như các công việc cần phải hoàn
thành đúng hạn.
3) Cần đưa ra kế hoạch học tập dài hạn – học tập suốt đời.
3. Dạy cho học sinh phương pháp học tập Hoá học, trong đó có
phương pháp tự học, là yêu cầu quan trọng trong đổi mới phương pháp
dạy học
a. Tầm quan trọng của phương pháp học tập – yếu tố quan trọng để
cố thể học tập suốt đời
Thế kỷ thứ XXI là thế kỷ đi vào văn minh trí tuệ với các xu thế đã rõ
ràng, như sự phát triển của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin
18
và truyền thông, kinh tế tri thức, xã hội học tập…Con người muốn tồn tại
đều phải học, học suốt đời, học theo hướng 4 trụ cột của giáo dục (là học để
biết, học để làm, học để cùng chung sống với nhau, học để làm người).
Việc học ở nước ta đang có những chuyển động mạnh mẽ, vừa phản
ánh sự phù hợp với triết lý giáo dục thế kỷ XXI (là học suốt đời, 4 trụ cột
của giáo dục và xây dựng một xã hội học tập), vừa phù hợp với những mục

tiêu phát triển của đất nước, mà một trong những yếu tố mới được đề ra ở
Đại hội IX của Đảng (4/2001) và chiến lược phát triển giáo dục 2001 –
2010, là phải thực hiện “Mọi người đi học, học thường xuyên suốt đời; cả
nước trở thành một xã hội học tập”. Vì thế năng lực học của con người cần
phải được nâng lên mạnh mẽ, nhờ vào trước hết “biết học cách học”.
Nhà giáo làm nghề dạy học chỉ là để giúp cho người học hành nên
người. Vì vậy nghề sư phạm được xác định trước hết không phải là hoạt
động dạy mà phải bằng các hoạt động học của người học. Bản lĩnh của
người giáo viên biểu hiện ở năng lực vừa tập trung đi sâu vào nội dung học
vừa tập trung đi sâu vào việc học. Từ chuyên gia về việc dạy học, người
giáo viên phải trở thành chuyên gia về việc học của người học.
b. Dạy học là dạy học sinh phương pháp học, trong đó có phương
pháp tự học
Việc học tập của học sinh mang nhiều ý nghĩa tự học. Tổng hợp kết
quả của nhiều nhà nghiên cứu lý luận dạy học GS. TS Vũ Văn Tảo đã đưa
ra định nghĩa về việc học: "Học cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội
tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị
con người mình, bằng cách thu nhận và xử lý thông tin lấy từ môi trường
sống xung quanh mình". [45]
Dạy học sinh cách học trong đó có tự học:
- Dạy và rèn năng lực chú ý, khả năng quan sát. Đặt học sinh trước
một vấn đề, một sự vật hiện tượng với yêu cầu, mục tiêu hướng tới cụ thể
19
rõ ràng để học sinh tập trung chú ý phát hiện các qui luật, vấn đề bản chất,
cốt lõi, những vấn đề quan trọng.
- Rèn luyện cách ghi nhớ: Dạy học sinh biết cách ghi nhớ, ghi nhớ có
chọn lọc, tạo mối quan hệ giữa hiểu và nhớ: Nhớ để hiểu và hiểu bản chất
vấn đề để khắc sâu, nhớ lâu.
Trong quá trình học tập của học sinh ta cần phải phân biệt rõ hiểu
và biết: “Biết có thể đã hiểu, cũng có thể chưa hiểu, hoặc hiểu chưa đầy

đủ. Học không dừng ở biết mà học là phải hiểu. Hiểu là biết bản chất của
sự vật, khi đó có thể nói lại cho người khác, thậm chí có thể nói theo
cách của mình”. Phát triển năng lực so sánh, khái quát hoá, tổng hợp
trong quá trình học tập:
+ Biết sử dụng kiến thức cũ để hình thành kiến thức mới, tìm qui
luật, bản chất vấn đề nghiên cứu;
+ Biết dùng kiến thức mới để củng cố và hoàn thiện kiến thức đã học
trước đó.
+ Biết sử dụng kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng, sự vật
xung quanh.
+ Trong ôn tập hoàn thiện kiến thức học sinh biết cách sử dụng
phương pháp grap để xây dựng cây kiến thức cho một phần, hay toàn thể
chương trình học.
- Dạy học sinh cách phân tích, tháo gỡ, biết lựa chọn phương pháp
tối ưu để giải quyết một vấn đề chung hoặc cho một bài tập cụ thể.
- Dạy học sinh phương pháp tự kiểm tra, tự đánh giá so với yêu cầu
chung, tự sửa lỗi và điều chỉnh bản thân. Biết thay đổi hình thức tự học tập,
kiểm tra cho không bị căng thẳng, nhàm chán, nâng cao hiệu quả học tập:
“Học mà chơi, chơi mà học”.
Với học sinh yếu kém, yêu cầu đặt ra thường xuyên, liên tục nhưng
liều lượng vừa phải, tăng dần cả về số lượng cũng như mức độ. Có hiệu
20
quả hơn khi giáo viên thực hiện thường xuyên nguyên tắc xoắn ốc, kiến
thức cũ liên tục được học sinh nhắc lại khi xây dựng kiến thức mới, và có
được kiến thức mới dùng để củng cố kiến thức đã học, với mức độ cao dần.
IV. Thực trạng chất lượng dạy học Hoá học ở các trường THPT thuộc các
huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
1. Nội dung, phương pháp điều tra về thực trạng chất lượng dạy
học Hoá học ở các trường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh
Hoá.

a) Nội dung điều tra
- Điều tra về đội ngũ giáo viên bộ môn
- Điều tra về cơ sở vật chất của bộ môn
b) Phương pháp điều tra
- Khảo sát thực tiễn.
- Thu thập thông tin.
- Tìm hiểu, trao đổi thông tin.
c) Kết quả điều tra
Tên trường
THPT
Tổng
số
GV
GV
Chuẩn,
trên chuẩn
Tổng
số
lớp
Lớp
10
Lớp
11
Lớp
12
Tổng số
phòng
học
Phòng
TN

Mường Lát 2 2 15 5 5 5 8 0
Quan Hoá 4 4 28 10 10 8 15 1
Quan Sơn 2 2 26 10 9 7 18 0
Bá Thước 6 6 47 17 15 15 24 1
21
HàVăn Mao 6 6 42 14 14 14 21 1
Cầm Bá Thước 6 6 41 14 14 13 26 0
Như Xuân 5 5 44 16 15 13 24 1
Lang Chánh 5 5 38 13 13 12 23 1
Như Thanh 7 7 39 15 12 12 22 0
Cẩm Thuỷ 1 6 6 33 12 12 9 26 0
Cẩm Thuỷ 2 3 3 30 10 10 10 17 0
Ngọc Lặc 4 4 45 15 15 14 23 0
Lê Lai 4 4 44 16 14 14 22 0
Thạch Thành 1 6 6 47 16 16 15 34 0
Thạch Thành 2 6 6 43 15 15 13 27 0
Số liệu: Phòng Kế hoạch - Tài chính Sở GD - ĐT.
Năm học 2005 – 2006.
Nhận xét: Qua kết quả điều tra cho thấy các trường THPT thuộc các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hoá còn tồn tại một vấn đề rất lớn đó là PTN
- Nhiều trường vẫn không có PTN.
- Dụng cụ hoá chất thiếu, không đồng bộ.
2. Nội dung, phương pháp điều tra về phương pháp học tập
Hoá học ở các trường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh
Hoá.
a) Nội dung điều tra: Điều tra về phương pháp học tập của học sinh
b) Phương pháp điều tra: Khảo sát thực tiễn, trao đổi với GV bộ
môn.
3. Kết quả điều tra về kết quả học tập hoá học ở các trường THPT
thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá, năm học 2005 – 2006.

Tên trường
THPT
Tổng số
lớp
Tổng số
học sinh
Học sinh
dân tộc
Tổng số học
sinh yếu kém
Tỉ lệ yếu
kém
Mường Lát 15 696 645 292 42%
Quan Hoá 28 1278 1153 457 35.8%
Quan Sơn 26 1088 943 484 44.5%
Bá Thước 47 2114 1578 493 23.3%
HàVăn Mao 42 1797 1340 324 18%
Cầm Bá Thước 41 1921 708 290 15.1%
22
Như Xuân 44 2037 1123 426 21%
Lang Chánh 38 1592 1374 310 19.5%
Như Thanh 39 1873 568 331 17.7%
Cẩm Thuỷ 1 33 1707 825 198 11.6%
Cẩm Thuỷ 2 30 1477 488 203 13.7%
Ngọc Lặc 45 2232 1067 403 18.1%
Lê Lai 44 2008 1130 248 12.4%
Thạch Thành 1 47 2235 829 213 9.5%
Thạch Thành 2 43 1928 802 254 13.2%
4. Một số tồn tại chủ yéu của giáo viên và học sinh
a) Những tồn tại chủ yếu trong công tác giảng dạy của giáo viên

- Đa số giáo viên chưa chú ý đầu tư cho giảng dạy : Giáo án chưa
thực sự là một bản thiết kế cho một giờ lên lớp, còn hình thức, chiếu lệ, chỉ
là sự sao chép không đầy đủ của SGK. Đa số giáo viên vẫn dạy chay, nặng
thuyết trình, diễn giải.
- Chưa chú ý các hoạt động dạy học đặc trưng của bộ môn : ít sử
dụng phương tiện trực quan, thí nghiệm, thực hành .
- Rất ít quan tâm đến việc dạy học sinh phương pháp học, trong đó
có phương pháp tự học.
- Việc kiểm tra đánh giá mang nhiều tính chất hình thức, đối phó.
- Không tổ chức được những buổi ngoại khoá về hoá học, tạo niềm
say mê, yêu thích bộ môn.
b) Những tồn tại chủ yếu trong phương pháp học tập của học sinh.
- Không có ý thức vươn lên trong học tập, ngại học bộ môn.
- Phương pháp học tập còn thụ động, ghi chép đối phó. Vở bài tập
chỉ là sự sao chép máy móc từ sách bài tập.
23
Kết luận chương I.
Chương I nghiên cứu về cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn của vấn
đề nghiên cứu, gồm 4 nội dung chính sau :
1. Bản chất của quá trình dạy học
2. Phương pháp dạy học, xu hướng đổi mới phương pháp dạy
học trong giai đoạn hiện nay.
Thế nào là phương pháp dạy, phương pháp học ; Phương pháp dạy
học hoá học, những đặc trưng và phân loại phương pháp dạy học hoá học.
Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay, phương
hướng chung về xu hướng đổi mới, một số thử nghiệm chiến lược về đổi
24
mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay, tập trung thử nghiệm
theo 2 hướng : Dạy học theo hướng ‘ Dạy học hướng vào người học’ và
dạy học theo hướng ‘Hoạt động hoá người học’, nghiên cứu bản chất của

chúng, đánh giá ưu nhược điểm của mỗi quan điểm.
3. Dạy cho học sinh cách học vừa là nhiệm vụ vừa là yêu cầu
quan trọng trong dạy học Hoá học.
Tìm hiểu quan niệm về việc học, những yếu tố quan trọng của
phương pháp học tập Hoá học. Dạy học là dạy học sinh phương pháp học,
trong đó có phương pháp tự học.
4. Thực trạng chất lượng dạy học Hoá học ở các trường THPT
thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá.
Đưa ra một số tư liệu về thực trạng chất lượng dạy và chất lượng học
hoá học ở 15 trường THPT thuộc các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá. Đưa
ra những nhận xét về tồn tại chủ yếu trong công tác giảng dạy của giáo viên
và trong phương pháp học tập của học sinh.
25

×