Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Giải pháp phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam Luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 97 trang )

B GIÁO DC VÀ ÀO TO
TRNG I HC KINH T TP.HCM
j




TRN TH TRÚC GIANG


HOÀN THIN CÔNG TÁC THANH TRA
KIM TRA TI CC THU TPHCM

Chuyên ngành: Kinh t tài chính – Ngân hàng
Mã s: 60.31.12




LUN VN THC S KINH T

NGI HNG DN: TS UNG TH MINH L





THÀNH PH H CHÍ MINH – 2010


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan các số liệu trong luận văn này được thu thập từ nguồn thực
tế. Những ý kiến đóng góp và giải pháp đề xuất là của cá nhân tôi từ việc
nghiên cứu và rút ra từ thực tế làm việc tại Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh
CÁC TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

BCTC: Báo cáo tài chính
BHXH: Bảo hiểm xã hội
CBCC: Cán bộ công chức
CCT: Chi cục thuế
CHLB: Cộng hoà liên bang
CP: Cổ phần
DN: Doanh nghiệp
ĐTNT: Đối tượng nộp thuế
FDI: Foreign Direct Investment
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
GTGT: Giá trị gia tăng
KK-KKT: Kê khai kế toán thuế
NN: Năm nay
NNT: Người nộp thuế
NT: Năm trước
NSNN: Ngân sách nhà nước
P.: Phòng
QĐKT: Quyết định kiểm tra
QĐXP: Quyết định xử phạt
QL: Quản lý
TCT: Tổng cục thuế
TNCN: Thu nhập cá nhân
TNDN: Thu nhập doanh nghiệp
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
Tp.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh

TSCĐ: Tài sản cố định
TTĐB: Tiêu thụ đặc biệt
UBND: Uỷ ban nhân dân
VAT: Thuế giá trị gia tăng
VC: Viên chức
VPHC: Vi phạm hành chính
XNK: Xuất nhập khẩu
DANH MỤC CÁC BẢNG- HÌNH VẼ
Số hiệu Tên hình Trang
Bảng 1 GDP qua các năm của Thành phố Hồ Chí Minh 23
Bảng 2 Tốc độ tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng của các ngành 24
Bảng 3
Kết quả thực hiện công tác thanh tra của 4 phòng thanh tra Cục
thuế Thành phố Hồ Chí Minh
35
Bảng 4 Kết quả thực hiện công tác kiểm tra 35
Bảng 5
Kết quả kiểm tra hồ sơ thuế tại trụ sở NNT
37
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1
Lý do chọn đề tài Trang 1
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn Trang 1
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………………Trang 2
Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………………………………………. Trang 2
Kết cấu của luận văn …………………………………………………………………………… Trang 2

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ KIỂM TRA – THANH TRA THUẾ …… Trang 3
1.1 Một số lý luận cơ bản về thuế………………………………………………………………… Trang 3
1.2.1 Khái niệm…………………………………………………………………………………… Trang 3

1.2.2 Bản chất …………………………………………………………………………………… Trang 4
1.2.3 Chức năng …………………………………………………………………………………… Trang 10
1.2.4 Phân loại …………………………………………………………………………………… Trang 14
1.2 Lý luận cơ bản về thanh tra kiểm tra thuế …………………………………………………… Trang 19
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm ……………………………………………………………………… Trang 19
1.2.2 Các nội dung cơ bản ………………………………………………………………………….Trang 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH TRA THUẾ TẠI CỤC THUẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH …… Trang 23
2.1 Khái quát chung về tình hình kinh tế - xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh………….…… Trang 23
2.1.1 Về tình hình phát triển kinh tế……………………………….……… ……… ………… Trang 23
2.1.2 Về tình hình xã hội …… ……………………………… Trang 25
2.2 Tổ chức công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục thuế Tp.Hồ Chí Minh……… Trang 26
2.2.1 Chức năm nhiệm vụ phòng Kiểm tra thuế………………………………………………… Trang 28
2.2.2 Chức năm nhiệm vụ phòng Thanh tra thuế………………………………………………… Trang 30
2.3 Thực trạng công tác kiểm tra, thanh tra kiểm tra thuế tại Cục thuế Tp.HCM…………… Trang 31
2.3.1 Quy trình kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục thuế Tp.HCM…………………………………… Trang 31
2.3.2 Công tác xây dựng kế hoạch kế hoạch kiểm tra, thanh tra thuế của Cục thuế Tp.HCM……. Trang 33
2.3.3 Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế của Cục thuế Tp.HCM………………………………… Trang 34
2.4 Đánh giá thực trạng kiểm tra, thanh tra thuế và quản lý thuế tại Cục thuế Tp.HCM…… Trang 43
2.4.1 Ưu điểm …………………………………… Trang 43
2.4.2 Hạn chế ……. Trang 45
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH TRA THUẾ TẠI
CỤC THUẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trang 51
3.1 Định hướng công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại Cục thuế Tp.Hồ Chí Minh trong
thời gian tới Trang 51
3.2 Một số gợi ý giải pháp ………… Trang 52
3.2.1 Nhóm giải pháp ở tầm vĩ mô …………………………………… Trang 52
3.2.2 Nhóm giải pháp cụ thể từ phía Cục thuế Tp.HCM…… Trang 56
-1-
Lý do chọn đề tài

Công tác quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp đã và đang được ngành thuế
Việt Nam áp dụng, trong đó thanh tra kiểm tra thuế là quan trọng nhất. Năm 2006 là
năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cải cách công tác thanh tra thuế trên cơ sở thu thập
và phân tích thông tin, lựa chọn các đơn vị có dấu hiệu gian lận thuế để tiến hành
kiểm tra, vừa không gây phiền hà cho các doanh nghiệp không vi phạm, vừa tránh
lãng phí nguồn lực của cơ quan thuế. Từ ngày 01/01/2007, mô hình quản lý thuế theo
chức năng được mở rộng triển khai đến 64 tỉnh, thành phố trong cả nước, đánh dấu
một bước tiến quan trọng trong việc chuyển đổi hoàn toàn, sâu rộng sang mô hình
quản lý thuế theo chức năng của ngành thuế Việt nam. Việc chuyển từ mô hình quản
lý theo đối tượng với mục tiêu “số thu ngân sách” làm thước đo, sang mô hình quản lý
theo chức năng với mục tiêu “tuân thủ” làm thước đo. Theo đó, hoạt động thanh tra,
kiểm tra thuế được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong chương trình
cải cách và hiện đại hoá ngành thuế trong giai đoạn hiện nay.
Thanh tra kiểm tra thuế trong thời gian qua không chỉ có những đóng góp đáng
kể vào chống thất thu thuế mà còn đảm bảo công bằng, động viên đối với các chủ thể
kinh tế phát huy nguồn lực của mình đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Tuy nhiên, tại Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh, công tác thanh tra kiểm tra thuế vẫn
còn có những hạn chế đòi hỏi phải được nghiên cứu nhằm cải tiến, đổi mới và hoàn
thiện hơn nữa để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Với sự đòi hỏi cấp thiết đó,
tôi chọn đề tài: “HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THANH TRA KIỂM TRA THUẾ TẠI
CỤC THUẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH” làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích: Hệ thống hoá và làm rõ những vấn
đề chung về công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại Cục thuế Tp.HCM trong lộ trình cải
cách và hiện đại hoá ngành thuế. Qua đó, rút ra những ưu, nhược điểm, những vấn đề
-2-
còn tồn tại cần phải tiếp tục hoàn thiện. Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm thanh tra,
kiểm tra của một số nước trên thế giới, cùng với lộ trình thực hiện chương trình cải
cách từ đó đề xuất những giải pháp để hoàn thiện hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế
phù hợp với chương trình cải cách của ngành thuế và thực tiễn tại Cục thuế Tp.HCM.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý thuyết và thực tiễn
của việc tổ chức, thực hiện công tác kiểm tra thuế, thanh tra thuế ở Cục thuế Tp.HCM
hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác thanh tra kiểm tra thuế
góp phần đảm bảo công bằng, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thực hiện
nghiêm các luật thuế và chống thất thu ngân sách Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp định tính.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về thuế và công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra kiểm tra thuế tại Cục thuế Tp.HCM.
Chương 3: Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác thanh tra kiểm
tra thuế tại Cục thuế Tp.HCM.
-3-
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ VÀ KIỂM TRA – THANH TRA
THUẾ
1.1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ
1.1.1 Khái niệm
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của nhà nước và là một công cụ quan
trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của
mình. Tùy vào bản chất của nhà nước và cách thức nhà nước sử dụng mà các nhà kinh
tế có quan điểm khác nhau về thuế.
Theo khái niệm được sử dụng phổ biến, thuế là một khoản thu bắt buộc, không
bồi hoàn trực tiếp của nhà nước đối với các tổ chức và cá nhân nhằm trang trải mọi
chi phí vì lợi ích chung.
Thứ nhất, thuế là một khoản thu không bồi hoàn. Nộp thuế cho nhà nước
không có nghĩa là cho nhà nước mượn tiền hay gửi tiền vào quỹ ngân sách nhà nước
hoặc là mua một dịch vụ công. Nộp thuế là một nghĩa vụ cơ bản nhất của công dân.
Có một câu hỏi khá quan trọng, đó là nhà nước thu thuế để làm gì. Nếu mọi người nộp

thuế đều đi tìm câu trả lời thì họ sẽ nhận thấy rằng thực chất nộp thuế chính là một
hình thức chuyển chi tiêu cá nhân thành chi tiêu công- chi tiêu vì lợi ích chung của
toàn xã hội.
Thứ hai, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc. Để bảo đảm tập trung thuế
trên phạm vi toàn xã hội, chính phủ phải cậy nhờ vào hệ thống pháp luật nên thuế
thường được quy định dưới dạng văn bản luật hay pháp lệnh. Tất nhiên, trốn thuế hay
gian lận thuế đều bị coi là những hành vi phạm pháp và phải chịu xử phạt về hành
chính hoặc hình sự.
Thuế xây dựng trên nền tảng giá trị thặng dư do nền kinh tế tạo ra, tức là thuế
gắn chặt với kinh tế. Do đó thuế đem lại số thu to lớn và bền vững gấp bội so với các
khoản thu khác của nhà nước, song ý nghĩa quan trọng hàm chứa ở đây là, cách duy
nhất làm cho thuế ngày càng nhiều và ổn định chính là phát triển kinh tế. Như vậy,
-4-
chăm lo cho sự hưng thịnh kinh tế cũng là chăm lo nguồn thu tương lai; và biện pháp
giảm thuế để thúc đẩy sản xuất kinh doanh còn chứa đựng ý nghĩa đầu tư- đầu tư bằng
thuế
[6]
.
Hệ thống thuế gồm nhiều sắc thuế nhằm thực hiện nhiều mục tiêu. Về kết cấu
của một sắc thuế, tuy các loại thuế khác nhau, nhưng chúng đều có một kết cấu chung,
và thường được trình bày theo một trình tự thống nhất, gồm các yếu tố cấu thành chủ
yếu như: Tên gọi, đối tượng nộp thuế (người nộp thuế), đối tượng tính thuế, thuế suất,
chế độ giảm thuế và miễn thuế, tổ chức thực hiện (hành thu).
1.2.2 Bản chất:
Cho tới nay chưa xác định rõ vùng lãnh thổ nào trên trái đất khai sinh thuế,
song một điều không thể phủ nhận là thuế gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà
nước. Nói chính xác, thuế là một sản phẩm hay công cụ của nhà nước. Khi một sắc
thuế được ấn định, thu nhập được chuyển dịch từ dân chúng về phía chính phủ mà
không có bất kỳ sự đối giá trực tiếp. Đánh thuế là đặc quyền của nhà nước, đặc quyền
này được quy định bằng luật pháp. Nhưng không phải lúc nào quyền đánh thuế cũng

được sử dụng theo mong muốn của dân chúng. Do đó có thể xảy ra xung đột giữa
chính phủ và những công dân của mình trong quá trình thu thuế
[13]
.
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của nhà nước. Bản chất của
Nhà nước quy định bản chất của thuế. Về mặt lý luận, bản chất của nhà nước vốn
mang tính giai cấp. Không có một nhà nước phi giai cấp mà chỉ có nhà nước của giai
cấp nào mà thôi. Vì vậy, suy cho cùng bản chất thuế cũng mang tính giai cấp. Có thể
hiểu được điều này, thông qua nội dung cuộc nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh
với đại biểu nhân dân địa phương tại Thanh Hoá, ngày 13-6-1957, như sau:
“…Trước kia phải nộp thuế, nay dân chủ cũng phải nộp thuế. Trước ta nộp
thuế là nộp cho Tây, chúng lấy mồ hôi nước mắt của nhân dân ta mà làm giàu cho
-5-
chúng nó, để xây dựng bộ máy áp bức bóc lột đồng bào ta. Nhưng nay ta đóng thuế là
để làm lợi cho ta.

Tóm lại, muốn xây dựng nước nhà, Chính phủ phải có tiền, tiền đó do đồng
bào góp lại. Trước hết là đồng bào nông dân đông nhất, rồi đến công thương. Nếu
không có tiền thì Chính phủ không xây dựng được. Vì vậy, đồng bào phải giúp Chính
phủ, nghĩa là đồng bào phải nộp thuế”
- Hệ số huy động thuế và khả năng thụ thuế
Mặc dù, thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn lực
tài chính cho nhà nước, nhưng không có nghĩa là nhà nước có thể quy định mức động
viên thuế cao để tăng thu thuế bằng mọi giá, mà mức độ động viên thuế chỉ có một giới
hạn nhất định. Nếu nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần thu nhập từ
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cho ngân sách nhà nước, thì phần GDP còn lại
dành cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ
nhận thấy rằng công sức bỏ vào kinh doanh, vào làm việc được bù đắp không thoả
đáng thì họ sẽ nghỉ không kinh doanh hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm và tìm mọi
cách để trốn thuế. Như vậy, có thể thấy rằng, khả năng thu thuế tối đa cho ngân sách

nhà nước là khoản thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra để trả
thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh
tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ phần
trăm của GDP được động viên vào ngân sách nhà nước được gọi là hệ số huy động
thuế.
Hệ số huy động thuế không chỉ là cơ sở chính để tham khảo việc các quốc
gia xây dựng chính sách thuế của họ mà còn là một dấu hiệu để so sánh mức độ huy
động thuế giữa các quốc gia khác nhau. Hệ số huy động thuế này bao nhiêu thì ảnh
hưởng trực tiếp đến thu nhập sau thuế và gián tiếp đến mức tiêu dùng và mức sống
-6-
của nhân dân. Đó là điều mà các quốc gia cần cân nhắc. Trong giai đoạn hội nhập
quốc tế, hệ số huy động thuế có thể phản ảnh xu thế dịch chuyển dòng vốn, lao động
giữa các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, để gia tăng sự phồn vinh trong cộng đồng dân
cư, tất cả các quốc gia xem thuế là nguồn thu chính, phải đưa ra một mức thuế hợp lý
trong chính sách thuế của mình. Độ lớn của hệ số huy động thuế vì thế trở thành một
trong những dấu hiệu quan trọng để đánh giá việc hoàn thiện hơn của một nền kinh tế.
Nếu gọi T là tổng số thuế có thể thu được vào Ngân sách Nhà nước thì hệ số
huy động thuế là: T/GDP
Khả năng thụ thuế là tỷ lệ tối đa từ thu nhập mà các doanh nghiệp và người
dân sẵn sàng trích ra để trả thuế mà không làm thay đổi hoạt động vốn có của họ. Đứng
trên góc độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thụ thuế của một đất nước cho thấy tỷ phần
bình quân của thu nhập được thu dưới dạng thuế trong một quốc gia.
Khả năng thụ thuế tuỳ thuộc vào bản chất và trạng thái kinh tế, truyền thống
của mỗi quốc gia, sự hiểu biết và thái độ của dân chúng đối với các chương trình hành
động của chính phủ và sức mạnh quyền lực của chính phủ. Khả năng thụ thuế là một
khái niệm lý thuyết. Nó cho chúng ta thấy ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội
giữa các chủ thể của nền kinh tế. Nói chung, nó nhạy cảm như chính thuế vậy. Nếu nhà
nước động viên thuế chưa đạt giới hạn khả năng thụ thuế thì sự tập trung nguồn lực xã
hội vào tay nhà nước chưa thật đầy đủ. Nếu động viên vượt giới hạn thuế thì số thu
cũng giảm sút, đấy là hình thức thất thu thuế

[11]
.
- Chuyển thuế (tax shift)
[11]

Khi một sắc thuế được áp dụng thì đối tượng chịu tác động đầu tiên là
người nộp thuế. Người này có thể là các doanh nghiệp, người làm công ăn lương,
Người này có thể chính mình gánh chịu sắc thuế, hoặc có thể chuyển gánh nặng thuế
cho người khác. Trong cả hai trường hợp có một loạt những hậu quả phụ thuộc chứa
đựng ít nhiều ý nghĩa kinh tế. Khi người trả thuế thứ nhất chịu gánh nặng thuế thì sự
-7-
kiện này gây ảnh hưởng đến thu nhập sau thuế, và qua đó ảnh hưởng đến mức cầu về
yếu tố sản xuất. Nếu thuế được di chuyển sang người thứ hai, giá cả hàng hóa lên cao
và kéo theo sự sụt giảm tương ứng trong thu nhập khả dụng của họ. Người thứ nhất có
thể chuyển 100% gánh nặng thuế, chuyển một phần gánh nặng thuế hoặc không
chuyển được thuế.
Chuyển thuế chỉ được thực hiện khi có sự tiêu dùng xã hội về một sản
phẩm nào đó. Lúc này, người ta sẽ tìm mua sản phẩm dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của
mình. Tận dụng cơ hội đó, người sản xuất tính thuế thêm vào giá bán rồi bán sang
người mua, thuế đã được chuyển đi.
Giả sử có một loại hàng hóa đang được bán với giá 40.000 đồng khi nhà
nước không đánh thuế. Nay chính phủ ấn định thuế suất 4.000 đồng trên một sản
phẩm, người có nghĩa vụ nộp thuế là người bán.


Để có được doanh thu thuần vẫn là 40.000 đồng, người sản xuất giờ đây
phải bán với giá 44.000 đồng, điều này làm đường cung dịch lên đúng bằng khoản
Q
0


Q
1

S
ố lượng
Giá
41.600
37.600

A


B

G

H

E
1

E
o

Đường cung trước khi đánh
thu
ế

Đường cung sau khi đánh thuế
Giá do người tiêu

dùng trả sau khi
đánh thu
ế

Giá ban đầu
Giá doanh nghiệp
nhận sau khi nộp
thuế
O

-8-
thuế. Giá cân bằng mới tăng lên, nhưng không phải 4.000 đồng mà chỉ 1.600 đồng.
Như vậy, mặc dù các nhà lập pháp xác định doanh nghiệp là người trả thuế, song họ
đã chuyển vào người tiêu dùng được 1.600 đồng, còn họ chỉ phải chịu 2.400 đồng.
Doanh thu thuần trước khi đánh thuế: Diện tích OBE
o
Q
o
.
Doanh thu thuần sau khi đánh thuế: Diện tích OCHQ
1
.
Tổng thuế của nhà nước: Diện tích CAE
1
H.
Mất mát trong thặng dư tiêu dùng: Diện tích GE
1
E
o
.

Mất mát trong thặng dư của nhà sản xuất: Diện tích HGE
o
.
Tổng mất mát xã hội: Diện tích HE
1
E
o
.
Chuyển thuế thuận là loại chuyển thuế làm cho giá cả của một vật biến
chuyển khỏi mức trước khi có thuế, theo chiều hướng tăng lên. Nói cách khác, chuyển
thuế thuận là loại thuế được chuyển từ người bán sang người mua.
Chuyển thuế nghịch là loại chuyển thuế làm cho giá cả một vật biến chuyển
xuống dưới mức trước khi có thuế, tức là người bán chịu thuế thay cho người mua.
Chuyển thuế thuận phổ biến và hợp lý hơn. Muốn biết thuế đã được chuyển
thuận hay chuyển nghịch, chúng ta phải xác định được lúc đầu ai là người mà chính
phủ đánh thuế. Nếu khởi đầu, đánh thuế vào người bán, ta kết luận thuế đã thuận
chuyển được một phần. Nếu khởi đầu thuế đánh vào người mua chứ không phải người
bán, ta nói thuế đã nghịch chuyển một lần.
- Sơ lược về quá trình phát triển của thuế
[2]

Trong khoảng thời gian dài của lịch sử từ đầu chế độ nô lệ đến đầu chế độ
tư bản, nhà nước sử dụng thuế thu được phục vụ chủ yếu cho mục đích phi kinh tế như
xây thành lũy, đắp các tuyến phòng thủ, đúc vũ khí, nuôi binh lính, trả lương cho quan
lại. Có thể nói, nhà nước thời kỳ ấy không chi một khoản nào cho mục đích kinh tế.
Tác dụng duy nhất của thuế lúc này là công cụ tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
để nuôi bộ máy của mình.
-9-
Khi xã hội loài người chuyển sang hình thái tư bản chủ nghĩa, kéo theo nó
là những biến đổi sâu sắc về kinh tế- xã hội, nhà nước nhận thức được vai trò quan

trọng của mình trong việc điều hành nền kinh tế, từ đó ngày càng can thiệp nhiều hơn,
mạnh mẽ hơn vào tiến trình kinh tế- xã hội của đất nước.
Tất cả các hoạt động của nhà nước thời kỳ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi một
nguồn vật chất lớn hơn hẳn thời kỳ trước đây. Nếu chỉ dựa vào các sắc thuế vốn có
(thuế đánh vào ruộng đất, thuế đánh vào nhân thân, ) thì không đủ và kém công bằng,
nên nhà nước mở rộng nguồn thu bằng cách đặt thêm nhiều sắc thuế nhằm vào nhiều
đối tượng khác nhau. Một hệ thống thuế với thuế suất đa dạng, linh hoạt hình thành.
Thuế trở nên tinh xảo, vừa mang lại một năng suất thu dồi dào, vừa thực hiện được
mục tiêu kích thích tăng trưởng kinh tế.
Khi quyền lực tối cao trong xã hội ngày càng được chuyển sang tay dân
chúng (chế độ dân chủ) thì người đại diện của nhân dân là nhà nước càng phải quan
tâm đến sự phát triển toàn diện của xã hội, đến khía cạnh công bằng xã hội, đến thất
nghiệp, người già, trẻ em không nơi nương tựa, người mất khả năng tạo thu nhập.
Để làm và cần thiết phải làm được việc ấy, nhà nước phải tìm cách trích bớt
một phần thu nhập của những người giàu có hay của các công ty thông qua thuế
TNCN và thuế thu nhập công ty, chuyển chúng vào ngân sách nhà nước để chi dùng
cho các mục tiêu xã hội. Ở đây thuế lại được xử lý một cách khôn khéo hơn. Một mặt,
thuế không hạn chế ý chí làm giàu của cá nhân- một động lực thúc đẩy xã hội phát
triển; mặt khác, gia tăng lượng thu nhập quốc dân vào tay nhà nước; và cuối cùng vẫn
giữ được tính nhân đạo và công bằng.
Sự phát triển của thuế gắn liền với sự phát triển của xã hội. Xã hội càng
phát triển, thuế càng đa dạng, ý niệm về thuế ngày càng trở nên hết sức tự nhiên.
Có thể nói bản chất của một nhà nước không thể hiện ra trong các tôn chỉ nhà
nước đó đưa ra, mà nó thể hiện rất cụ thể qua việc sử dụng tiền thuế của nhà nước đó
-10-
trong việc điều hành đất nước. Việc đánh giá một nhà nước có thật sự do dân, vì dân
hay không, chỉ có thể đoán chắc trong việc nhận định và đánh giá mục đích và hiệu
quả của việc sử dụng tiền thuế mà người dân đóng góp.
1.1.3. Chức năng
[5]


Trong thế kỷ XX thì ý kiến phổ biến là thuế nên chủ yếu giữ vai trò tài trợ cho
chính phủ nhưng cho đến nay thì thuế còn được sử dụng để đạt đến nhiều mục tiêu
khác nhau. Thông thường nhiều tác giả cho rằng thuế có hai chức năng chủ yếu đó là
chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều tiết kinh tế. Một cách nhìn
hơi khác- cũng tương đối hữu ích của một chuyên giả nổi tiếng về thuế của Mỹ là
Richard A. Musgrave cho rằng thuế có ba mục tiêu chính là phân phối các nguồn lực,
tái phân phối thu nhập và ổn định nền kinh tế.
Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là loại chức năng cơ bản, đặc
thù nhất mà tất cả các nước đều phải dựa vào đó. Thông qua chức năng này các quỹ
bằng tiền của Nhà nước được hình thành. Đây chính là sức mạnh cơ sở vật chất bảo
đảm cho sự hoạt động của và tồn tại của Nhà nước. Khi bàn đến chức năng tài chính
của Thuế, một số người thường đơn giản cho rằng: Thuế là phương tiện tạo nguồn thu
nhập - theo nghĩa thông thường trưng thu tiền - đối với Nhà nước. Điều đó không
hoàn toàn chính xác, bởi vì Nhà nước có thể có tiền bằng nhiều cách khác nhau như:
Yêu cầu ngân hàng trung ương mở rộng tín dụng, phát hành thêm tiền Nhưng việc
sử dụng những phương cách này đương nhiên phải được Nhà nước cân nhắc vì chúng
chứa đựng những mầm mống của nguy cơ lạm phát. Bởi vậy, ngoài việc phát hành tín
dụng để đảm bảo nhu cầu chi tiêu, nhà nước có thể sử dụng Thuế một cách thường
xuyên và lâu dài. Mục tiêu thực sự của chính sách thuế, theo nhiều nhà kinh tế là “rút
bớt sức mua khỏi những người đóng thuế, để những người đóng thuế từ bỏ sự kiểm
soát đối với tài nguyên kinh tế và làm cho tài nguyên này thành khả dụng đối với Nhà
nước”, theo giáo sư John Mikesell, sự chuyển dịch tài nguyên đó bao gồm sự chuyển
dịch khả năng mua hàng giữa các nhóm người trong khu vực các doanh nghiệp và sự
-11-
dịch chuyển quyền kiểm soát đối với khả năng mua hàng từ khu vực các doanh nghiệp
sang tay nhà nước.
Lịch sử đã cho thấy chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập có vị trí
ngày càng tăng, nhất là vào thế kỷ XX, là thế kỷ được đặc trưng bởi sự tăng lên chưa
từng có của thu nhập của nhà nước có nguồn gốc từ thuế. Điều này được giải thích bởi

sự mở rộng các chức năng của nhà nước và việc thực hiện nhiều chính sách khác
nhau, trong đó có việc can thiệp của nhà nước vào các quá trình kinh tế.
Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế được nhà nước vận dụng dẫn
đến kết quả là diễn ra quá trình “nhà nước hoá” một bộ phận GDP dưới hình thức tiền
tệ; tạo điều kiện khách quan vô cùng cần thiết cho sự can thiệp của Nhà nước vào các
hoạt động kinh tế. Do đó, chính chức năng phân phối và phân phối lại, trong một
chừng mực rất đáng kể, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát huy tác dụng chức năng
điều tiết kinh tế của Thuế.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế. Theo chức năng này, phải xem Thuế như
một tác nhân tích cực của quá trình tái phân phối và thông qua đó tác động đến quá
trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Chức năng này không tách rời khỏi chức năng
phân phối và phân phối lại của thuế, mà hai chức năng đều có quan hệ tác động hỗ tư-
ơng rất chặt chẽ. Khi sử dụng thuế với mục đích huy động một bộ phận tổng sản
phẩm trong nước (GDP) vào tay mình thì nhà nước đã đặt thuế vào thế tiếp cận với
các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất.
Nếu các nhà nước ở Liên xô và Đông Âu trước đây hầu như thụ động trong
việc vận dụng chức năng điều tiết kinh tế của thuế, thì tại các nước tư bản công
nghiệp phát triển và ngày nay kể cã tại các nước đang phát triển, chức năng điều tiết
kinh tế ngày càng được chú ý và càng được tăng cường đáng kể.
Tại các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển có hệ thống
thuế ổn định, thuế tác động vào quá trình sản xuất các doanh nghiệp trên cả 3 yếu tố
mà chúng sử dụng: Sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Công nhân
-12-
và người làm thuê, sau khi nhận được tiền lương sẽ chỉ dùng số tiền này cho việc mua
sắm hàng hóa, dịch vụ và nộp thuế. Vào lúc này, thuế sẽ tác động đến quá trình sản
xuất theo 3 hướng:
+ Thứ nhất, thuế sẽ ảnh hưởng đến mức độ và cơ cấu của tổng cầu, đồng
thời thông qua cơ chế của mức cầu thị trường có thể thúc đẩy hoặc kiềm hãm sản
xuất. Điều này phụ thuộc rất lớn vào thu nhập mà người dân sử dụng- thông thường là
dành toàn bộ cho tiêu dùng- và vì thế sự thay đổi mức đánh thuế vào tiêu dùng ngay

lập tức tác động vào mức cầu và nói chung, ảnh hưởng đến tổng mức cầu có khả năng
thanh toán được của nền kinh tế. Nói một cách cụ thể hơn, ở đây thuế có hai tác dụng
(Samuelson và Nordhaus, 1995):
* Đầu tiên, thuế làm giảm thu nhập của nhân dân. Với việc làm nhỏ đi
phần thu nhập có thể chi tiêu cho các hộ gia đình, thuế cao hơn có xu hướng làm cho
các hộ gia đình giảm mức chi cho tiêu dùng của họ, do đó làm giảm mức cầu và GNP
thực tế.
* Ngoài ra, thuế còn có thể tác động đến mức cung sản phẩm. Ví dụ:
Vào năm 1981 do chính quyền Reagan đưa ra một số ưu đãi về thuế đánh vào thu
nhập từ đầu tư kinh doanh mới nên các khoản đầu tư vào các ngành kinh doanh máy
móc, nhà máy đã gia tăng.
+ Thứ hai, mức độ đánh thuế trên thu nhập cũng ảnh hưởng đến việc xác
định tiền lương, bởi vì khi tính toán tiền lương, giới chủ nhân và người làm thuê bao
giờ cũng chú ý đến tiền thuế như là một yếu tố của tiền lương phải được xem xét tới.
+ Thứ ba, thuế còn tác động đến việc mua sắm, sử dụng và phục hồi TSCĐ
trong doanh nghiệp, thông qua các quy định của nhà nước về hình thành, sử dụng qũy
khấu hao. Như mọi người đều biết, TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, thường
xuyên bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình cho đến khi không còn tác dụng nữa.
Sau đời phục vụ của mình, TSCĐ cần được phục hồi. Việc phục hồi này được tiến
-13-
hành bằng cách lập quỹ khấu hao, là một loại quỹ, được hình thành từ một bộ phận lợi
tức không phải chịu thuế.
Giữa hai chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều tiết kinh tế
của thuế tồn tại mối quan hệ chặt chẽ. Mối quan hệ này- xét về bản chất- phản ánh sự
thống nhất của hai mặt đối lập. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điều tiết kinh tế.
Một khi các nguồn tài chính nhà nước tập trung được dưới dạng thuế gia tăng đáng kể
thì lúc đó việc này lại tạo điều kiện khách quan để nhà nước tác động trên diện tích
rộng và cả theo chiều sâu tới quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của nhà nước nhằm vào việc thúc đẩy

nhanh tốc độ tăng trưởng kinh kế lại tạo điều kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp
nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng phạm vi tác động của chức
năng phân phối và phân phối lại. Do đó, các chức năng của thuế, trước có quan hệ hỗ
tương và tác động lẫn nhau.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu
thuẫn tồn tại giữa chúng, bởi lẽ mỗi chức năng phản ánh từng mặt nhất định của các
quan hệ có tính chất thuế vẫn luôn luôn mâu thuẫn với nhau. Chức năng phân phối và
phân phối lại phản ánh các mối quan hệ giữa người nộp thuế và nhà nước, còn chức
năng kinh tế lại phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước hướng tới người nộp thuế. Ngay
trong chức năng phân phối và phân phối lại đã chứa đựng những mầm mống của sự
phát triển mâu thuẫn giữa một bên là sự cần thiết mở rộng nguồn thu về thuế của nhà
nước với một bên là sự phản kháng hoặc sự không hài lòng của các thành viên trong
xã hội khi nộp thuế.
Mâu thuẫn của chức năng điều tiết kinh tế thể hiện ở chỗ: Nhu cầu thực tế của
sự can thiệp của nhà nước đối với quá trình sản xuất kinh doanh đụng chạm phải lợi
ích kinh tế của từng nhà doanh nghiệp. Trong khi hình thành và vận dụng một chính
sách thuế, nhiều chính phủ thường hay mắc sai lầm: Không tôn trọng đầy đủ cả hai
-14-
chức năng, thường xem trọng chức năng này hơn chức năng kia; điều này rõ ràng làm
tổn hại đến chức năng còn lại và là nguyên nhân dẫn đến chính sách thuế thoát ly cơ
sở hiện thực về kinh tế- xã hội của đất nước. Trên thực tế, lỗi lầm phổ biến nhất của
các chính phủ là do cần phải bù đắp những thiếu hụt của ngân sách nên thường chú
trọng tới chức năng phân phối và phân phối lại hơn là chức năng điều tiết kinh tế của
thuế, điều này dẫn tới giảm nhẹ vai trò của thuế đối với hoạt động của doanh nghiệp,
từ đó ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống.
1.1.4. Phân loại
[2]

Để phục vụ cho việc xây dựng chính sách pháp luật thuế, phục vụ cho các mục
tiêu quản lý hay nghiên cứu khác nhau cũng như quản lý các loại thuế được áp dụng

cho từng đối tượng khác nhau để vừa phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa
hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò
của hệ thống pháp luật thuế và sử dụng hiệu quả công cụ thuế.
Việc phân loại các loại thuế là cần thiết làm rõ thêm bản chất của từng loại
thuế: Thu vào ai, thu bao nhiêu và thu như thế nào cho thích hợp. Hiện nay, việc phân
loại hình thức của thuế thường được chia ra như sau:
1.1.4.1 Phân loại theo tính chất có thể chuyển dịch về thuế giữa người nộp
thuế và người chịu thuế, phân thuế ra làm hai loại: Thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế gián thu:
+ Thuế gián thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu
thành của giá cả hàng hóa như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế GTGT, thuế xuất nhập
khẩu,
+ Bản chất kinh tế của thuế gián thu là người nộp thuế (tức là người bán
hàng hóa và dịch vụ) có thể chuyển dịch số thuế phải nộp sang cho người mua hàng
hóa, dịch vụ bằng cách cộng số thuế đó vào giá bán hàng hóa, dịch vụ. Do đó, người
nộp thuế không phải là người chịu thuế, mà người chịu thuế chính là người tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ. Thuế gián thu bảo đảm được sự tự lựa chọn của người chịu thuế
-15-
đối với các loại hàng hóa, dịch vụ mà họ quyết định mua, bảo đảm được tính tự
nguyện chịu thuế. Người bán hàng sẽ thu thuế gián thu (thu hộ nhà nước) cùng với giá
bán hàng hóa, sau đó nộp khoản thuế này vào ngân sách nhà nước (nộp thay cho
người tiêu dùng).
+ Thuế gián thu tránh được quan hệ giữa người chịu thuế (người tiêu
dùng) với cơ quan thuế nên dễ thu hơn thuế trực thu. Thuế gián thu dễ điều chỉnh tăng
hơn thuế trực thu và những người chịu thuế thường không cảm nhận được đầy đủ
gánh nặng của loại thuế này. Hiện nay trên thế giới có xu hướng coi trọng thuế gián
thu hơn thuế trực thu vì nó có phạm vi thu rất rộng, đem lại số thu lớn cho ngân sách,
dễ thu, dễ quản lý, đồng thời chi phí phải bỏ ra để thu cũng thấp.
+ Nhược điểm của thuế gián thu là tính lũy thoái của nó. Vì thuế gián thu
đánh như nhau trên cùng một loại hàng hóa, dịch vụ nên người giàu và người nghèo

nếu tiêu dùng cùng một loại hàng hóa, dịch vụ và số lượng như nhau thì chịu thuế như
nhau, nhưng thực chất tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu
chịu thuế thấp hơn người nghèo, người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế gián
thu càng cấp.
- Thuế trực thu:
+ Thuế trực thu là loại thuế trực tiếp đánh vào thu nhập của các tổ chức và
cá nhân như thuế TNDN, thuế TNCN, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế
đánh vào tài sản, thuế thu vào quà tặng, quà biếu, Bản chất của thuế trực thu là
người nộp thuế đồng thời cũng là người chịu thuế. Ưu điểm của thuế trực thu là động
viên trực tiếp thu nhập của từng tổ chức và cá nhân có thu nhập, cho nên đảm bảo
được tính công bằng xã hội hơn thuế gián thu, vì phần đóng góp về thuế thường phù
hợp với khả năng của từng đối tượng, thu nhập cao thì nộp thuế nhiều, thu nhập thấp
thì nộp thuế ít. Thuế trực thu còn cho phép tính đến những yếu tố có tính độc lập với
thu nhập của người nộp thuế như hoàn cảnh bản thân, tình trạng hôn nhân, hoàn cảnh
gia đình, số người phải nuôi dưỡng, Nhưng thuế trực thu cũng có nhược điểm, đó là
-16-
phần nào có hạn chế cố gắng tăng thu nhập của các đối tượng vì thu nhập càng cao thì
phải nộp càng nhiều. Thuế trực thu do người có thu nhập chịu thuế phải trả trực tiếp
cho nhà nước nên họ cảm thấy được gánh nặng của thuế và có thể dẫn đến những
phản ứng từ chối hoặc trốn lậu thuế. Việc quản lý thuế trực thu cũng phức tạp và chi
phí quản lý thường cao hơn thuế gián thu.
1.1.4.2 Phân loại theo đối tượng đánh thuế: Theo cách phân loại này có:
- Thuế đánh vào hàng hóa như: Thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu, thuế
TTĐB.
- Thuế thu nhập như: Thuế TNDN, thuế TNCN.
- Thuế tài sản như thuế nhà đất. Ở Việt Nam hiện nay, Thuế Chuyển quyền
sử dụng đất đã được thay thế bằng thuế TNCN.
1.1.5. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống thuế
[6]


Hệ thống thuế một quốc gia bao gồm nhiều sắc thuế và được xây dựng theo các
nguyên tắc cơ bản sau đây:
1.1.5.1 Nguyên tắc minh bạch.
- Về mặt xã hội, nguyên tắc minh bạch đòi hỏi các quy định về thuế phải rõ
ràng và mang tính đại chúng nhằm ngăn ngừa hiện tượng lạm thu đối với người nộp
thuế, ngăn ngừa hiện tượng tham ô biển thủ thuế của nhân viên thuế, đồng thời cho
thấy thái độ tôn trọng người nộp thuế của Chính phủ. Trong kinh doanh, thuế là một
khoản chi phí (nghĩa vụ) nhưng đồng thời cũng có thể là một khoản ưu đãi (quyền lợi)
do đó, sự rõ ràng của Thuế giúp các chủ thể kinh doanh hoạch định chính xác mọi chi
phí về thuế và đánh giá đầy đủ ưu đãi thuế. Từ đó, họ yên tâm sản xuất kinh doanh và
mạnh dạn bỏ vốn đầu tư lâu dài.
- Nguyên tắc minh bạch thể hiện cụ thể qua các điểm sau:
+ Thuế phải được xây dựng theo một trình tự pháp lý nghiêm ngặt.
-17-
+ Nhà nước và các cơ quan hành thu phải tạo điều kiện để doanh nghiệp
và dân chúng thực hiện quyền được biết một cách minh bạch số tiền thuế phải nộp,
thủ tục thu nộp thuế, ưu đãi về thuế,
+ Những quy định về thuế phải phổ thông và nhất quán; tính toán thuế
phải đơn giản, dễ thực hiện và dễ kiểm tra.
+ Thuế thu phải thuận tiện cho người nộp theo thời gian và không gian.
1.1.5.2 Nguyên tắc hiệu quả.
- Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng mỗi sắc thuế và hệ thống thuế phải
chú trọng đến hiệu quả kinh tế xã hội.
- Một hệ thống thuế gọi là hiệu quả khi được phát huy tối đa mọi tác dụng.
Thuế là công cụ thuộc chính sách tài chính vĩ mô chứa đựng nhiều mục tiêu như tạo
số thu cho NSNN; tăng cường quản lý hoạt động kinh tế xã hội, điều chỉnh các hoạt
động kinh tế vĩ mô theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện; tạo hành lang
cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp; khuyến khích đầu tư và tiết kiệm bên
trong nền kinh tế; điều tiết hợp lý thu nhập của doanh nghiệp và mọi tầng lớp dân cư.
Tính đa mục tiêu của hệ thống thuế không đòi hỏi mỗi sắc thuế phải được xây dựng

theo hướng đa mục tiêu bởi như thế sẽ cồng kềnh và kém hiệu quả, mà cần phải
chuyên biệt hoá mục tiêu cho từng sắc thuế.
Hiệu quả của hệ thống thuế còn thể hiện thông qua chi phí hành thu thấp. Chi
phí này khác nhau ở mỗi sắc thuế. Tiết kiệm chi phí hành thu thuế liên quan đến nhiều
phương pháp hành thu. Phương pháp tương đối tiết kiệm chi phí là để người nộp thuế
tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế.
Trên phương diện toàn bộ nền kinh tế, phải tính vào chi phí thu thuế những chi
phí mà xã hội mất đi cho một đồng thuế thu vào NSNN. Đó là chi phí về thời gian và
công sức mà đối tượng nộp thuế phải bỏ ra để nghiên cứu thực thi thuế, là chi phí sắp
xếp quá trình kinh doanh phù hợp với những quy định thuế mới. Nguyên tắc hiệu quả
-18-
yêu cầu đối xử thuế như một công cụ kinh tế nhằm tăng cường vai trò của thuế đối với
các hoạt động kinh tế - xã hội.
1.1.5.3 Nguyên tắc linh hoạt:
Một hệ thống thuế đòi hỏi thuế suất và số thu ngân sách từ thuế phải có thể
điều chỉnh được ở từng thời kỳ nhằm thay đổi thu nhập khả dụng và tổng mức cầu
[5]
.


Nguyên tắc linh hoạt đòi hỏi thuế gắn chặt hoạt động kinh tế, phản ánh thực
sự những thăng trầm kinh tế và những biến động chính trị, xã hội. Tính linh hoạt thể
hiện qua độ nổi và độ co giãn của thuế.
Ngoài độ nổi và độ co giãn
[11]
, nguyên tắc linh hoạt còn đòi hỏi khi đưa ra
các quy định, pháp luật thuế phải tiên liệu mọi phát sinh hay thay đổi căn bản thuế,
khi đó thuế sẽ đạt một độ ổn định trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy
chính sự linh hoạt của thuế làm cho những quy định về thuế ổn định. Điều này không
chỉ giúp nhà nước tiết kiệm chi phí hành thu mà còn giúp các doanh nghiệp tiết kiệm

đáng kể thời gian và công sức cho việc thực thi thuế, giúp xây dựng kế hoạch kinh
doanh lâu dài.
1.1.5.4 Nguyên tắc công bằng.
Xuất phát từ quan điểm tái phân phối một cách hợp lý thu nhập xã hội, tức
là sự phân chia gánh nặng thuế ra phạm vi toàn xã hội theo khả năng tài chính của mỗi
người nộp thuế. Không phải thu thuế sao cho số tiền thuế nộp ở mỗi người là bằng
nhau mà là thu thuế sao cho tổng số thuế phải nộp trên tổng thu nhập chịu thuế ở mỗi
người là như nhau
[11]
.
Trên phương diện kinh tế, nguyên tắc công bằng đòi hỏi thuế tái phân phối
thu nhập xã hội theo khả năng tài chính của người chịu thuế. Về mặt xã hội, đòi hỏi
Thuế không được phân biệt đối xử đối tượng nộp thuế, thuế phải góp phần tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh giữa các DN. Nguyên tắc thuế công bằng có liên quan
đến nguyên tắc thuế trung lập. Nguyên tắc trung lập đòi hỏi nhà nước không được
nhân cơ hội đánh thuế để làm thay đổi tương quan thu nhập giữa các DN hoặc tình

×