Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ban quản lý các dự án dạy nghề vốn ODA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.76 KB, 80 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi
hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề mang tính
thiết yếu. Để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế với mục tiêu đến năm 2020
Việt Nam sẽ trở thành một nước Công nghiệp hóa – hiện đại hóa cần một lượng vốn
đầu tư rất lớn.
Đương nhiên để duy trì những thành quả đã đạt được của nền kinh tế, giữ
vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu
so với các nước trong khu vực và trên thế giới; cũng như các nước đang phát triển
khác - trong chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước ta, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA – Official Development
Assistance) là một trong những nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan
trọng.
Ở nước ta, các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA có tác động tích cực đến
phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng lãnh thổ, đặc biệt là các thành
phố và vùng kinh tế lớn của cả nước. Đồng thời góp phần vào sự phát triển, nâng
cao hệ thống cơ sở hạ tầng đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển nông
nghiệp, xóa đói giảm nghèo… Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận là nhiều
dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA hoạt động không hiệu quả, gây lãng phí lớn và
tạo gánh nặng nợ nần khó trả cho nhiều thế hệ. Nhiều nghiên cứu cho thấy, một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do các dự án này không
được thẩm định một cách kỹ càng trước khi quyết định thực hiện đầu tư, đặc biệt là
công tác thẩm định tài chính dự án còn bị coi nhẹ.
Chính vì thế, mà thẩm định dự án đầu tư nói chung và thẩm định tài chính dự
án đầu tư bằng nguồn vốn ODA nói riêng là một yêu cầu mang tính lý luận và thực
tiễn cao. Việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư bằng
nguồn vốn ODA đóng vai trò quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư của các
Ban quản lý dự án, nhằm tránh những tổn thất không đáng có. Với một thời gian


khá dài làm việc tại Ban quản lý các dự án dạy nghề vốn ODA – một Ban quản lý
dự án chuyên phụ trách quản lý, thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA
tài trợ cho cơ quan chủ quản là Tổng cục dạy nghề, là một trong những cán bộ tham
gia trực tiếp vào công tác thẩm định tài chính các dự án đầu tư, tôi nhận thấy được
những cái mà công tác thẩm định tài chính dự án đã làm được và những cái còn
chưa làm được. Với những kiến thức về tài chính của mình, với mong muốn nghiên
1
cứu những nhân tố sẽ làm tăng và làm giảm chất lượng thẩm định tài chính dự án tại
Ban quản lý các dự án, tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng công tác
thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ban quản lý các dự án dạy nghề vốn
ODA” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Nội dung của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1. Tổng quan về chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
vốn ODA
Chương 2. Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
Ban quản lý các dự án dạy nghề vốn ODA
Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
đầu tư tại Ban quản lý các dự án dạy nghề vốn ODA
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI
CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ VỐN ODA
1.1. Tổng quan về Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư vốn ODA
1.1.1. Dự án đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư
Đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực về vật chất
và trí tuệ để sản xuất và kinh doanh trong 1 thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi
nhuận và lợi ích kinh tế xã hội
Hoạt động đầu tư được thể hiện tập trung và rõ nét thông qua các dự án. Hiện
nay từ “dự án” được sử dụng rất rộng rãi - ta thường nghe nói đến các dự án đầu tư
phát triển tầm cỡ quốc gia hoặc quốc tế, song cũng có thể nói đến dự án của cá nhân

mỗi người, như tiến hành một nghiên cứu thử nghiệm, viết một cuốn sách…Vậy có
thể hiểu “dự án đầu tư” là gì?
Dự án đầu tư là một tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn ra để
đầu tư của các nhà đầu tư: các nguồn vốn này được sử dụng để tạo mới, mở rộng
hoặc cải tạo một đối tượng nào đó nhằm mục đích đem lại sự tăng trưởng về cả số
lượng lẫn chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ trên một địa bàn nhất định trong
một khoảng thời gian nhất định.
Dù được xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì dự án đầu tư cũng bao gồm các
thành phần chính như sau:
- Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án: Cụ thể là khi thực hiện, dự
án sẽ mang lại những lợi ích gì cho chủ đầu tư. Những mục tiêu này cần được biểu
hiện bằng kết quả cụ thể, mang tính định lượng rõ ràng.
- Các hoạt động của dự án: Dự án phải nêu rõ những hoạt động cụ thể phải
tiến hành, địa điểm diễn ra các hoạt động của dự án, thời gian cần thiết để hoàn
thành, và các bộ phận có trách nhiệm thực hiện những hoạt động đó. Cần lưu ý rằng
các hoạt động đó có mối quan hệ với nhau vì tất cả đều hướng tới sự thành công của
dự án và các mối quan hệ đó diễn ra trong một môi trường không chắc chắn. Bởi vì
môi trường dự án không phải là môi trường hiện tại mà là môi trường tương lai.
- Các nguồn lực: Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các
nguồn lực về vật chất, tài chính, con người… Vì vậy, phải nêu rõ các nguồn lực cần
thiết cho dự án. Tổng hợp các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án.
Mỗi dự án bao giờ cũng được xây dựng và thực hiện trong sự giới hạn về nguồn lực.
1.1.1.2. Chu trình một dự án đầu tư
3
Chu trình của một dự án đầu tư thông thường bao gồm năm bước như sau:
Bước 1. Xác định dự án
Bước 2. Phân tích và lập dự án
Bước 3. Duyệt dự án
Bước 4. Triển khai thực hiện dự án
Bước 5. Nghiệm thu, tổng kết và giải thể

Các bước này gắn bó chặt chẽ với nhau và đi theo một tiến trình logic, để
hiểu rõ hơn về chu trình của một dự án đầu tư ta sẽ phân tích chi tiết từng bước như
sau:
Bước 1 – xác định dự án đầu tư: xác định dự án là giai đoạn đầu tiên trong
chu trình của một dự án có nhiệm vụ phát hiện những lĩnh vực có tiềm năng để đầu
tư phát triển, trên cơ sở đó hình thành sơ bộ nên các ý đồ đầu tư. Việc xác định và
sàng lọc các ý đồ đầu tư có ảnh hưởng quyết định tới quá trình chuẩn bị và thực
hiện dự án. Dù công tác chuẩn bị và thực hiện dự án là rất tốt nhưng ý đồ ban đầu
đã hàm chứa các sai lầm cơ bản thì dự án vẫn có thể thất bại hay không đạt được
các kết quả mong muốn.
Trong thực tế ý đồ về một dự án đầu tư mới có thể xuất phát từ các nguồn
như sau:
- Từ những chiến lược phát triển ngành hay chiến lược phát triển kinh tế
quốc dân
- Thông qua việc phát hiện những nguồn tài nguyên, nguyên nhiên vật liệu
chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả
- Dự án đầu tư có thể được đề xuất để đáp ứng những nhu cầu sản xuất tiêu
dùng ở thị trường trong nước và ngoài nước còn chưa được thỏa mãn
- Từ yêu cầu khắc phục những khó khăn và trở ngại đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội do thiếu các điều kiện vật chất cần thiết
Trên cơ sở các lĩnh vực và ý đồ đầu tư khác nhau được đề xuất, cần tiến hành
nghiên cứu chi tiết hóa, lựa chọn ra những ý đồ đầu tư triển vọng nhất để tiến hành
chuẩn bị và phân tích trong giai đoạn tiếp theo.
Bước 2 – phân tích và lập dự án: Sau khi xác định rõ ý đồ, mục tiêu, và các
phương tiện để thực hiện dự án, các chuyên gia tiến hành quá trình phân tích và lập
dự án. Đây là quá trình nghiên cứu chi tiết các ý đồ đầu tư đã được đề xuất trên tất
cả các phương diện: thể chế - xã hội, thương mại, tài chính, kinh tế - kỹ thuật, tổ
chức quản lý… Để thực hiện nhiệm vụ này phải thu thập đầy đủ những thông tin
4
cần thiết cho việc nghiên cứu về thị trường, môi trường tự nhiên, các nguồn nguyên

vật liệu tại chỗ, các quy định và chính sách có liên quan của Chính phủ, về đặc điểm
kinh tế - văn hóa – xã hội của dân cư trong vùng có liên quan đến dự án.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn phân tích và lập dự án là nghiên cứu một
cách toàn diện tính khả thi của dự án. Tuy vậy, đối với những dự án có quy mô lớn
thì trước khi thực hiện nghiên cứu khả thi nên có bước nghiên cứu tiền khả thi.
Trong bước nghiên cứu này, tất cả mọi phương diện chuẩn bị và phân tích dự án
đều được đề cập tới, song chỉ dừng lại ở mức độ chi tiết vừa đủ để chứng minh
một cách khái quát rằng, ý đồ dự án đầu tư được đề xuất là đúng đắn và việc tiếp
tục phát triển ý đồ này là có tiềm năng. Nghiên cứu tiền khả thi cũng giúp loại bỏ
bớt những vấn đề không cần thiết, cũng như xác định các vấn đề cần đặc biệt chú
ý, nhờ đó giúp cho việc định hướng nghiên cứu và tiết kiệm chi phí chuẩn bị đầu
tư vào dự án.
Nghiên cứu khả thi (còn gọi là luận chứng kinh tế kỹ thuật) là bước nghiên
cứu dự án đầy đủ và toàn diện nhất, có nhiệm vụ tạo cơ sở để chấp thuận hay bác bỏ
dự án, cũng như để xác định một phương án tốt nhất trong số các phương án được
đưa ra. Nghiên cứu khả thi, đúng như tên gọi của nó, nhằm chứng minh khả năng
thực hiện của dự án về tất cả mọi phương diện có liên quan. Thiết kế và chỉ đạo
nghiên cứu khả thi là một công việc phức tạp đòi hỏi sự tham gia của nhiều lĩnh vực
khác nhau. Phạm vi và thời gian nghiên cứu khả thi phụ thuộc vào tính chất của dự
án đầu tư: dự án có phức tạp hay không, đã được nhận thức đến mức độ nào, dự án
có tính chất sáng tạo hay chỉ là lặp lại… Về kinh phí, nghiên cứu khả thi thường
chiếm khoảng 5% toàn bộ chi phí đầu tư của dự án. Thời gian nghiên cứu có thể là
một tháng, hai tháng hoặc dài hơn nữa phụ thuộc vào quy mô và tính chất của dự án
mà nó nghiên cứu. Kết thúc nghiên cứu khả thi cũng là hết giai đoạn phân tích và
lập dự án đầu tư.
Thực tế đã chứng minh tầm quan trọng của công tác phân tích và lập dự án
đầu tư. Chuẩn bị tốt và phân tích kỹ lưỡng sẽ làm giảm những khó khăn trong giai
đoạn thực hiện, cũng như cho phép đánh giá chính xác hơn tính hiệu quả và khả
năng thành công của dự án.
Bước 3 – duyệt dự án: Duyệt dự án là giai đoạn thường thực hiện với sự

tham gia của các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính và các thành phần khác
tham gia vào dự án, nhằm xem xét lại toàn bộ những kết luận đã được đưa ra trong
quá trình chuẩn bị và phân tích dự án, trên cơ sở đó chấp nhận hay bác bỏ dự án. Dự
5
án sẽ được thông qua và đưa vào thực hiện nếu nó được xác nhận là hiệu quả và có
tính khả thi cao. Còn đối với trường hợp ngược lại, dự án có thể được sửa đổi bổ
sung hay buộc phải xây dựng lại hoàn toàn khi còn có những bất hợp lý trong thiết
kế dự án.
Bước 4 – triển khai thực hiện dự án: Triển khai thực hiện dự án bắt đầu khi
kinh phí được đưa vào. Giai đoạn này có thể chia thành những thời kỳ nhỏ hơn tùy
thuộc vào quy mô của dự án là lớn hay nhỏ. Chẳng hạn, thời kỳ thứ nhất là thi công
xây dựng các công trình cơ sở. Sau khi hoàn thành xây dựng cơ bản, dự án chuyển
sang thời kỳ phát triển. Trong thời kỳ này dự án bắt đầu sinh lợi và trả dần những
khoản nợ trong thời kỳ đầu. Thời kỳ thứ ba bắt đầu khi dự án đã đạt đến sự phát
triển toàn bộ, nói cách khác các công trình đầu tư ban đầu đã được sử dụng hết công
suất và kéo dài cho tới khi dự án chấm dứt hoạt động.
Thực hiện dự án là kết quả của một quá trình chuẩn bị và phân tích kỹ lưỡng,
tuy nhiên, trong thực tế rất ít khi dự án được tiến hành hoàn toàn đúng như đã hoạch
định. Tình hình chung của nhiều dự án là không đảm bảo được tiến độ thời gian và
chi phí dự kiến, thậm chí có những dự án phải thay đổi thiết kế ban đầu do giải pháp
kỹ thuật không thích hợp hay thiếu vốn,…Một số khó khăn cơ bản thường phải đối
mặt trong quá trình thực hiện dự án
- Khó khăn về mặt tài chính: thường xuất hiện do những biến động về giá
cả, hay do việc thiếu các nguồn vốn cần thiết trong quá trình thực hiện. Hệ quả tất
yếu là dự án bị trì hoãn, chi phí gia tăng hoặc trong một số trường hợp quy mô của
dự án bị thu hẹp.
- Hạn chế về mặt quản lý: hạn chế lớn nhất đối với nhiều dự án là thiếu
những cán bộ quản lý giỏi, cơ cấu tổ chức, phân công trách nhiệm không rõ ràng, sự
phối hợp kém hiệu quả giữa các bên tham gia dự án. Những yếu kém trong quản lý
thường gây ra tình trạng chậm trễ khi thực hiện và chi phí vượt mức, giám sát thiếu

chặt chẽ và phản ứng kém linh hoạt trước những thay đổi của môi trường kinh tế -
xã hội
- Khó khăn về kỹ thuật: phát sinh do việc cung ứng vật tư, máy móc, thiết
bị không thích hợp hay kém chất lượng, hoặc do những sai lầm ngay trong thiết kế
ban đầu, hoặc do sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ mới.
- Các biến động chính trị: với những dự án thực hiện trong thời gian dài
còn phải đối mắt với một loại khó khăn nữa: khó khăn về chính trị. Chưa kể tới các
biến động hay sự hỗn loạn chính trị, các dự án thường chịu tác động của những thay
đổi trong các chính sách kinh tế - xã hội của Chính phủ, hay mức độ ưu tiên của
6
Chính phủ cho dự án không được như trước nữa
Những khó khăn và biến động thường xảy ra trong giai đoạn thực hiện dự
án, đòi hỏi các nhà quản lý phải hết sức linh hoạt, nhạy bén đồng thời phải thường
xuyên giám sát, đánh giá quá trình thực hiện để kịp thời đưa ra các biện pháp giải
quyết thích hợp, thậm chí xem xét điều chỉnh lại các mục tiêu và phương tiện thực
hiện nếu cần.
Bước 5 – nghiệm thu, tổng kết và giải thể: Nghiệm thu, tổng kết và giải thể
là giai đoạn tiến hành sau khi thực hiện xong dự án. Đánh giá nghiệm thu có nhiệm
vụ làm rõ những thành công và thất bại trong toàn bộ quá trình xác định, phân tích
và lập dự án, cũng như trong khi thực hiện để rút ra những kinh nghiệm và bài học
cho quản lý các dự án khác trong tương lai.
Kết thúc và giải thể dự án như thế nào cũng là vấn đề cần bàn tới, tốt hơn cả
là ngay từ khi tiến hành lập dự án, ít nhất ở đây có hai vấn đề quan trọng cần bàn
đến là: bàn giao (hay phân chia) sử dụng các kết quả của dự án cũng như những
phương tiện mà dự án còn để lại; và bố trí lại công việc cho các thành viên tham gia
dự án, nhất là những người đã được biệt phái hoàn toàn khỏi cơ quan cũ sau một
thời gian dài làm việc cho dự án.
1.1.1.3. Phân loại dự án đầu tư
Mỗi dự án đầu tư có quy mô và sức ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội là khác
nhau, do vậy, để dễ dàng cho công tác kiểm tra, quản lý chúng ta tiến hành phân

loại các dự án đầu tư. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại dự án đầu tư, tuy nhiên, ta
sử dụng các tiêu thức chính sau đây để phân loại dự án đầu tư:
1. Theo cơ cấu tái sản xuất
Nếu lấy cơ cấu tái sản xuất làm tiêu thức để phân loại các dự án đầu tư, ta có
hai loại dự án đầu tư sau: Dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều
sâu
Dự án đầu tư theo chiều rộng: dự án đầu tư theo chiều rộng là dự án đầu tư
trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất hiện có, xây dựng mới với những kỹ
thuật công nghệ cơ bản như cũ. Thứ nhất, đó là đầu tư xây dựng mới nhà cửa, cấu
trúc hạ tầng theo thiết kế được phê chuẩn lần đầu tiên. Như vậy lượng tài sản vật
chất đã được tăng thêm, tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, tuy vậy tính kỹ
thuật của công trình hay tài sản đó vẫn dựam trên những thiết kế có sẵn, chưa được
cải tạo và hiện đại hóa. Thứ hai, các dự án đầu tư theo chiều rộng còn là các dự án
mua sắm máy móc thiết bị để đổi mới thay thế cho những máy móc thiết bị cũ theo
một dây chuyền công nghệ đã có từ trước. Đây cũng có thể là mua sắm từ đầu, tức
7
lúc bắt đầu sản xuất kinh doanh, hoặc cũng có thể là mua sắm sau một thời gian
hoạt động để thay thế một phần hoặc cả dây chuyền những máy mọc thiết bị đã cũ.
Các dự án đầu tư theo chiều rộng thường mang các đặc điểm sau:
- Lượng vốn sử dụng lớn và khê đọng lâu: vốn lớn vì đầu tư theo chiều rộng
thường là để mở rộng quy mô, do đó lượng máy móc thiết bị, nhà cửa thường rất
lớn, đòi hỏi một lượng vốn lớn tương ứng để chi trả. Bên cạnh đó, những tài sản này
có thời gian khấu hao là rất dài, dẫn đến tình trạng vốn bỏ ra bị khê đọng lâu.
- Thời gian thực hiện đầu tư và thời gian thu hồi vốn lâu: các dự án đầu tư
theo chiều rộng là các dự án man tính chất lâu dài, có khi hàng chục năm mới thu
hồi hết vốn.
- Tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao: một hoạt động đầu tư theo
chiều rộng thường được thực hiện ở nhiều khâu từ cơ sở vật chất đến quy trình công
nghệ, do đó để đồng bộ hóa đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, thậm chí là hết sức
phức tạp. Kỹ thuật phức tạp cộng thêm thời gian thực hiện lâu là những yếu tố

khiến dự án có độ rủi ro cao đòi hỏi phải phân tích đánh giá một cách kỹ lưỡng, cẩn
thận khi lập các dự án này.
Mặc dù có những đặc điểm mang tính khó thuyết phục như trên, nhưng các
dự án đầu tư theo chiều rộng vẫn đóng những vai trò quan trọng. Đi cùng với những
dự án này là việc quy mô sản xuất được mở rộng, tăng năng suất lao động, giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng doanh thu lợi nhuận trong tương
lai góp phần vào sự tăng trưởng chung.
Dự án đầu tư theo chiều sâu: dự án đầu tư theo chiều sâu là dự án đầu tư
được thực hiện dựa trên cơ sở cải tạo, mở rộng, nâng cấp, đồng bộ hóa, hiện đại hóa
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, hoặc xây dựng lại, hoặc đầu tư mới một dây chuyền
công nghệ, xây dựng một nhà máy mới nhưng kỹ thuật công nghệ phải hiện đại hơn
kỹ thuật công nghệ hiện có hoặc kỹ thuật công nghệ trung bình của ngành, vùng
nhằm duy trì năng lực đã có.
Thứ nhất, đó là việc cải tạo, mở rộng, nâng cấp, đồng bộ hóa, hiện đại hóa
dây chuyền hiện có thay thế dây chuyền công nghệ cũ. Dự án này được thực hiện
khi máy móc thiết bị đã cũ làm giảm năng suất lao động. Thứ hai, đó còn là hoạt
động phát triển nguồn nhân lực và đầu tư để tổ chức lại bộ máy quản lý, phương
pháp quản lý. Các dự án đầu tư theo chiều sâu mang nặng mặt “chất”, làm sao để
hiệu quả đạt được cao hơn, do vậy mà đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng là điều
tất yếu.
8
Các dự án đầu tư theo chiều sâu có lượng vốn đầu tư, thời gian thực hiện và
độ rủi ro thấp hơn các dự án đầu tư theo chiều rộng. Và một đặc điểm nữa của loại
dự án này đó là tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng về lao động. Do tính chất công
nghệ hiện đại, đồng bộ hóa, tự động hóa, mà trong các dự án đầu tư theo chiều sâu
không yêu cầu mức tăng lao động tăng cùng với mức tăng của vốn.
2. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội
Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội, dự án đầu tư có thể phân chia thành ba
loại như sau: Dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; dự án đầu tư phát triển
Khoa học công nghệ và dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.

Dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh:là dự án mà ý đồ đầu tư nhằm
vào mục đích nâng cao, gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Các dự án này thường có vốn đầu tư là vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay
và vốn liên doanh, liên kết.
Dự án đầu tư phát triển Khoa học công nghệ: đây là dự án mà ý đồ đầu tư
nhằm vào mục đích nâng cao, phát triển hệ thống khoa học công nghệ. Hiện nay,
các dự án đầu tư phát triển khoa học công nghệ tại các địa phương chủ yếu tập trung
vào lĩnh vực nông – lâm nghiệp, thủy sản và phát triển nông thôn (chiếm từ 40 đến
60%); mảng điều tra cơ bản và khoa học xã hội - nhân văn (chiếm 30%), còn lại là
các ngành, lĩnh vực khác. Các dự án này có một đặc điểm chung là nguồn vốn ngân
sách nhà nước chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, lâu nay
vẫn có tình trạng xảy ra là nguồn ngân sách hằng năm Nhà nước dành cho Khoa học
– công nghệ "rót" về các địa phương đều bị cắt xén, hoặc phân bổ thiếu hợp lý.
Không ít nơi kinh phí dành cho hoạt động nghiên cứu, triển khai các đề tài, dự án
khoa học – công nghệ chiếm tỷ lệ nhỏ, trong khi chi cho hoạt động bộ máy lại cao;
hoặc dàn trải một cách manh mún. Bởi vậy, chưa có những đề tài, dự án đầu tư phát
triển khoa học công nghệ lớn mà chủ yếu chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ, lẻ
Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: đây là các dự án mà ý đồ đầu tư nhằm
mục đích nâng cao, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng. Các dự án này đầu tư phát
triển ba loại cơ sở hạ tầng đó là: cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội và cơ
sở hạ tầng môi trường. Trong đó, các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật
là các dự án phục vụ cho đời sống và sản xuất bao gồm: các công trình thiết bị
chuyển tải và cung cấp năng lượng, mạng lưới giao thông, cấp thoát nước, thông tin
liên lạc. Các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các công trình
phục vụ cho các địa điểm dân cư như nhà văn hóa, bệnh viện, trường học, nhà ở và
9
các hoạt động dịch vụ công cộng khác. Các công trình này thường gắn với các địa
điểm dân cư làm cơ sở góp phần ổn định, nâng cao đời sống dân cư trên vùng lãnh
thổ. Các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng môi trường bao gồm các dự án phục
vụ cho việc giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái của đất, nước và môi trường

sống của con người. Đấy là các dự án phòng chống thiên tai, các dự án bảo vệ đất
đai, vùng biển và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
3. Theo các giai đoạn hoạt động của dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất
xã hội
- Dự án đầu tư thương mại
- Dự án đầu tư sản xuất
4. Theo thời gian thực hiện
Theo tiêu chí thời gian thực hiện, có thể chia dự án đầu tư thành hai loại: Dự
án đầu tư ngắn hạn và dự án đầu tư dài hạn.
Dự án đầu tư ngắn hạn:
Dự án đầu tư dài hạn:
5. Theo sự phân cấp quản lý
Theo sự phân cấp quản lý của nhà nước hiện nay, các dự án đầu tư được chia
thành bốn loại: Dự án quan trọng quốc gia; dự án nhóm A; dự án nhóm B và dự án
nhóm C.
Dự án quan trọng quốc gia:dự án quan trọng quốc gia là dự án đầu tư, dự án
công trình độc lập hoặc một cụm công trình liên kết chặt chẽ với nhau thỏa mãn đầy
đủ các tiêu chí sau:
- Tổng vốn đầu tư từ ba mươi lăm nghìn tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà
nước từ mười một nghìn tỷ đồng trở lên;
- Dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng
ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, bao gồm:
a) Nhà máy điện hạt nhân;
b) Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên
cứu, thực nghiệm khoa học từ 50 hécta (ha) trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50
hécta (ha) trở lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng lấn biển, bảo vệ
môi trường từ 500 hécta (ha) trở lên; rừng sản xuất từ 1000 hécta (ha) trở lên;
- Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất
trồng lúa nước từ hai vụ trở lên với quy mô từ 500 hécta (ha) trở lên;

10
- Dự án, công trình phải di dân tái định cư từ hai mươi nghìn người trở lên ở
miền núi, từ năm mươi nghìn người trở lên ở các vùng khác;
- Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt
quan trọng về lịch sử, văn hóa; danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia;
- Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về
quốc phòng, an ninh.
- Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được
Quốc hội quyết định.
Dự án nhóm A: dự án nhóm A là các dự án đầu tư thỏa mãn một trong các
điều kiện sau:
- Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật
quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ tầng
khu công nghiệp mới - không kể mức vốn.
- Các dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ không phụ thuộc quy mô đầu tư -
không kể mức vốn.
- Các dự án: công nghiệp điện, khai thác dầu khí, chế biến dầu khí, hóa chất,
phân bón, chế tạo máy (bao gồm cả mua và đóng tàu, lắp ráp ôtô), xi măng, luyện
kim, khai thác, chế biến khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng
sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ - có mức vốn trên 600 tỷ đồng.
- Các dự án: Thủy lợi, giao thông ( ngoài điểm A-c), cấp thoát nước và công
trình kỹ thuật hạ tầng; kỹ thuật điện; sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hóa
dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn thông;
BOT trong nước; xây dưng khu nhà ở; đường giao thông nội thị thuộc các khu đô
thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt - có mức vốn trên 400 tỷ đồng.
- Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: Công nghiệp
nhẹ, sành sứ, thủy tinh,, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mua sắm thiết
bị xây dựng; sản xuất nông. lâm, ngư nghiệp, nuôi trồng thủy sản; chế biến nông,
lâm sản - có mức vốn trên 300 tỷ đồng.
- Các dự án: Y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân

dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác -
có mức vốn trên 200 tỷ đồng.
Dự án nhóm B: dự án nhóm B là các dự án đầu tư thỏa mãn một trong các
điều kiện sau:
11
- Các dự án: công nghiệp điện, dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy (bao
gồm cả mua và đóng tàu, lắp ráp ôtô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến
khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt,
đường quốc lộ - có mức vốn từ 30 đến 600 tỷ đồng.
- Các dự án: Thủy lợi, giao thông ( ngoài điểm B-a), cấp thoát nước và
công trình kỹ thuật hạ tầng; kỹ thuật điện; sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin
học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn
thông; BOT trong nước; xây dựng khu nhà ở; trường phổ thông, đường giao thông
nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt - có mức vốn từ
20 đến 400 tỷ đồng.
- Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp
nhẹ, sành sứ, thủy tinh,, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây
dựng; sản xuất nông. lâm, ngư nghiệp, nuôi trồng thủy sản; chế biến nông, lâm sản -
có mức vốn từ 15 đến 300 tỷ đồng.
- Các dự án: Y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân
dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác -
có mức vốn từ 7 đến 200 tỷ đồng.
Dự án nhóm C: dự án nhóm C là các dự án đầu tư thỏa mãn một trong các
điều kiện sau:
- Các dự án: công nghiệp điện, dầu khí, hóa chất, phân bón, chế tạo máy (bao
gồm cả mua và đóng tàu, lắp ráp ôtô), xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến
khoáng sản; các dự án giao thông: cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt,
đường quốc lộ - có mức vốn dưới 30 tỷ đồng. Các trường phổ thông nằm trong quy
hoạch - không kể mức vốn.
- Các dự án: Thủy lợi, giao thông ( ngoài điểm C-a), cấp thoát nước và

công -trình kỹ thuật hạ tầng; kỹ thuật điện; sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin
học, hóa dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí, sản xuất vật liệu, bưu chính viễn
thông; BOT trong nước; xây dựng khu nhà ở; trường phổ thông, đường giao thông
nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt - có mức vốn dưới
20 tỷ đồng.
- Các dự án: hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; các dự án: công nghiệp
nhẹ, sành sứ, thủy tinh,, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, thiết bị xây
dựng; sản xuất nông. lâm, ngư nghiệp, nuôi trồng thủy sản; chế biến nông, lâm sản -
có mức vốn từ dưới 15 tỷ đồng.
12
- Các dự án: Y tế, văn hóa, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng dân
dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác -
có mức vốn dưới 7 tỷ đồng.
6. Theo cấp độ nghiên cứu
Theo cấp độ nghiên cứu thì dự án đầu tư được chia thành hai loại như sau:
Dự án tiền khả thi và dự án khả thi.
Dự án tiền khả thi:dự án tiền khả thi là dự án cần thực hiện các công
việc như:
- Phân tích thị trường: Mức cung và giá cả về hàng hoá và dịch vụ hay các
nhu cầu tương đối về dịch vụ xã hội được ước tính, định lượng hoá và lý giải chứng
minh.
- Phân tích kỹ thuật: Các thông số nhập lượng của dự án được xác định một
cách chi tiết và các ước tính vế chi phí được xây dựng
- Phân tích nhân lực và quản lý: Nhu cầu nhân lực cần thiết cho việc thực
hiện cũng như vận hành dự án được xác định một cách chi tiết, và nguồn nhân lực
được xác định với số lượng cụ thể
- Phân tích tài chánh hay ngân sách: Chi và thu tài chính được phân tích
cùng với việc đánh giá các phương án tái trợ khác nhau
- Phân tích hiệu quả kinh tế: Các dữ liệu tài chính được điều chỉnh thành
các dữ liệu kinh tế. Chi phí và lợi ích của dự án được tính từ quan điểm của cả

nền kinh tế
- Phân tích hiệu quả xã hội: Dự án được tính theo quan điểm của những đối
tượng được hưởng lợi từ dự án và từ những đối tượng phải chịu chi phí cho dự án.
Ta nên định lượng hóa mức lợi ích được hưởng và chi phí phải chịu của các nhóm
nầy ở những chổ nào có thể làm được.
Dự án khả thi: dự án khả thi là dự án cần thực hiện những công việc sau:
- Xác định những căn cứ để xác định sự cần thiết phải đầu tư: Bao gồm các
vấn đề sau: các căn cứ pháp lý để xây dựng dự án; tính hợp lý của dự án; phân tích
các yếu tố cần thiết để xây dựng dự án
- Lựa chọn hình thức đầu tư
- Các mục tiêu và sản phẩm của dự án: Bao gồm các bước : Mục tiêu phát
triển dài hạn, mục tiêu ngắn hạn, sản phẩm dự án
- Phân tích đặc điểm khu vực của dự án: bao gồm các vấn đề sau: diện tích
sử dụng và vị trí lắp đặt gồm một số phương án về địa điểm; vận chuyển và kết cấu
13
hạ tầng; khí tượng thuỷ văn của khu vực dự án; địa hình và địa chất công trình; các
yếu tố cần thiết khác và một số thông số kỹ thuật của dự án
- Phân tích sự lựa chọn công nghệ
- Các phương án và giải pháp xây dựng bao gồm các bước sau:
Phương án bố trí mặt bằng
Các giải pháp xây dựng
Khối lượng xây dựng và chi phí xây dựng
Tổ chức thi công xây lắp
Tiến độ thi công xây lắp
- Phân tích tài chính bao gồm các bước sau :
Căn cứ phân tích tài chính
Bảng dự trù doanh thu hằng năm
Vốn lưu động
Bảng dự trù chi phí sản xuất hằng năm
Bảng dự trù lãi lỗ hằng năm

Bảng dự trù cân đối thu chi
Bảng tóm tắt cân đối tái sản
Các chỉ số đánh giá hiệu quả tài chính
Phương án trả nợ vay
Phân tích độ nhạy
- Phân tích kinh tế xã hội bao gồm : phân tích định tính và phân tích định
lượng
7. Theo nguồn vốn đầu tư
Theo nguồn vốn đầu tư dự án đầu tư được chia thành năm loại: Dự án đầu tư
bằng nguồn vốn Ngân sách nhà nước; dự án đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư trực tiếp
và gián tiếp nước ngoài (FDI và FII); dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA); dự án đầu tư bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và các
nguồn vốn khác và dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗn hợp
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn Ngân sách nhà nước: đây là các dự án đầu tư
có nguồn vốn hoàn toàn từ Ngân sách Nhà nước. Và ngân sách nhà nước đầu tư cho
các dự án này được hình thành từ:
- Một phần tích lũy trong nước và lệ phí
- Vốn viện trợ theo dự án của các Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các
tổ chức của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác
14
- Vốn thu hồi nợ của Ngân sách đã cho vay ưu đãi các năm trước
- Vốn vay của Chính phủ dưới hình thức trái phiếu.
- Vốn thu từ thuế giao quyền sử dụng đất do Chính phủ quy định
- Vốn thu từ bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
- Các nguồn vốn huy động khác do Chính phủ quy định
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và gián tiếp (FII) nước ngoài:
-Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) là các
dự án đầu tư mà người đầu tư vốn và người sử dụng vốn là một chủ thể và nguồn
vốn đầu tư là của nước ngoài. Ở nước ta hiện nay các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài chủ yếu tập trung ở các ngành: khai thác dầu khí, xây dựng, bất động sản, du

lịch,…và đang có xu hướng chuyển dịch sang một số dự án đầu tư phát triển một số
ngành công nghiệp.
-Dự án đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII – Foreign Indirect Investment) là các
dự án đầu tư mà người đầu tư vốn và người sử dụng vốn không là một chủ thể và
nguồn vốn đầu tư là của nước ngoài.
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA – Official
Development Assistance): đây là các dự án đầu tư có nguồn vốn đầu tư là nguồn
vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với điều
kiện ưu đãi. ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát
triển được các các cơ quan chính thức của chính phủ trung ương và điạ phương
hoặc các cơ quan thừa hành của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức
phi chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia,
được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một hiệp
định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hỗ trợ vốn ký kết. Hiệp
định ký kết hỗ trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và các nguồn vốn
khác: đây là các dự án đầu tư mà nguồn vốn huy động là vốn tự có của doanh
nghiệp, lợi nhuận giữ lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn vay từ các tổ chức
tín dụng như các ngân hàng thương mại và các nguồn vốn khác.
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗn hợp: đây là các dự án đầu tư có nguồn
vốn huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Đó có thể là một dự án mà vốn đầu tư vừa
là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA vừa là ngân sách nhà nước…
Ngoài ra, còn có thể phân loại dự án đầu tư theo các tiêu chí như vùng, lãnh
thổ,…
15
1.1.2. Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA
1.1.2.1. Khái niệm dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA là một tập hợp các đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn ra để đầu tư của các nhà tài trợ nguồn vốn ODA: các nguồn vốn
này được sử dụng để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo một đối tượng nào đó nhằm

mục đích đem lại sự tăng trưởng về cả số lượng lẫn chất lượng của sản phẩm hay
dịch vụ trên một địa bàn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định theo định
hướng phát triển của quốc gia nhận viện trợ và những tiêu chí đầu tư của nhà tài trợ.
1.1.2.2. Vai trò của dự án đầu tư bằng vốn ODA
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA thể hiện mối quan hệ đối ngoại giữa Nhà
tài trợ và bên nhận viện trợ, và đối với mỗi bên nó sẽ mang những ý nghĩa quan
trọng khác nhau.
+) Đối với nước viện trợ
Đối với các nước xuất khẩu vốn thì dự án đầu tư vốn ODA là kênh dẫn cho
các công ty của họ hoạt động thuận lợi hơn ở các nước nhận viện trợ. Cùng với sự
gia tăng của các dự án đầu tư vốn ODA, kéo theo nó là sự gia tăng buôn bán thông
thương giữa hai quốc gia. Ngoài ra, nước viện trợ còn đạt được những mục đích về
chính trị, ảnh hưởng của họ về kinh tế - văn hóa đối với nược nhận viện trợ cũng
tăng lên. Đối với các tổ chức đặc thù như Tổ chức xóa đói giảm nghèo JFPR của
Chính phủ Nhật Bản hay các dự án đầu tư của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
thì vai trò của các dự án này đối với họ chính là đáp ứng được mục tiêu vì một Châu
Á phát triển bền vững – đúng với tôn chỉ khi các tổ chức này được thành lập.
+) Đối với Việt Nam (nước nhận viện trợ)
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, các dự án đầu tư vốn ODA
là cơ sở cho sự phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, cho sự phát triển
của ngành giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp…
Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành
tựu khoa học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án
ODA các nhà tài trợ cónhững hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình
độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài
liệu kỹ thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia
nước ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương trình
tham quan học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia
16

sang Việt Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây
chuyền công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt
động này các nhà tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ
khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và đây mới chính
là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng ta.
Hơn nữa, các dự án đầu tư ODA mà các nước, các tổ chức dành cho Việt
Nam thưởng ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn
nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng
khác nhau trong cả nước và điều đó góp phần vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở
nước ta.
Các dự án đầu tư ODA góp phần tăng khả năng thu hút nguồn vốn FDI và
tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết
định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi
của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống
giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ
thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư
vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ
lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà
đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự
thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư
gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút. Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc
nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân
hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp
dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn và nếu
chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành được do đó các dự án
đầu tư vốn ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng. Một khi môi trường
đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút đối với dòng vốn FDI. Mặt
khác,việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh
doanh có khảnăng mang lại lợi nhuận

1.1.2.3. Chu trình của một dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA
Mỗi quốc gia có một quy định riêng về việc sử dụng nguồn vốn ODA, và chu
trình của một dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA ở Việt Nam cũng có những khác
biệt đối với chu trình của một dự án đầu tư thông thường, nó bao gồm ba bước
17
chính như sau:
1. Giai đoạn chuẩn bị dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA
2. Triển khai thực hiện dự án ODA
3. Đánh giá, kết thúc dự án ODA
Mỗi bước chính ở trên lại bao gồm nhiều bước chi tiết hơn, và sẽ được trình
bày cụ thể dưới đây
Giai đoạn chuẩn bị dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA
Giai đoạn này gồm bốn bước chi tiết sau:
+) Nghiên cứu xác định sự cần thiết và tính ưu tiên của dự án
Đối với mỗi dự án độc lập, đây là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ dự án. Tuy
nhiên, theo một quy trình tổng thể, việc xác định dự án là kết quả của quy hoạch sử
dụng nguồn vốn ODA của Chính phủ và của các Bộ, ngành được xác định trong
danh mục kêu gọi vốn ODA do Thủ tướng phê duyệt. Dự án được sự ưu tiên trong
năm tài khóa hoặc năm tài khóa tiếp theo của Chính phủ nước đi vay (nước nhận
viện trợ) và Nhà tài trợ.
Chính phủ hàng năm phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội,
quy hoạch tổng thể, kế hoạch 5 năm để đưa ra danh mục các dự án ưu tiên nhằm
vận động ODA. Trên cơ sở các danh mục dự án ưu tiên, các Bộ ngành liên quan và
Nhà tài trợ sẽ tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp để đánh giá lại các vấn đề liên
quan đến khuôn khổ chiến lược trung hạn, các chính sách quốc gia và khu vực, tiềm
năng phát triển của đất nước,… sau đó các bên sẽ xác định các dự án phù hợp và có
tính ưu tiên cao.
+) Nghiên cứu tiền khả thi
Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA phải
được xây dựng theo quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng và những nội

dung đặc thù của nguồn vốn ODA như sau:
Thứ nhất, vị trí vai trò của dự án đầu tư trong quy hoạch phát triển ngành, địa
phương
Thứ hai, lý do sử dụng vốn ODA, thế mạnh của Nhà tài trợ về công nghệ,
kinh nghiệm quản lý, tư vấn chính sách thuộc lĩnh vực được quản lý
Thứ ba, đánh giá các điều kiện ràng buộc theo quy định của nhà tài trợ đối
với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA
Thứ tư, bối cảnh và sự cần thiết phải đầu tư cũng như nhu cầu sử dụng vốn ODA
Thứ năm, dự kiến mục tiêu, quy mô và hình thức đầu tư: các dự án thành
18
phần hoặc tiểu dự án
Trên cơ sở tuân theo quy định hiện hành về quản lý đầu tư, cũng như những
nội dung đặc thù của nguồn vốn ODA từ đó phân tích lựa chọn sơ bộ về giải pháp
kỹ thuật, ước yính tổng số vốn đầu tư cho dự án, phương án huy động các nguồn
vốn, vốn ODA cũng như nguồn vốn đối ứng của Trung ương hay địa phương. Bước
tiếp theo của nghiên cứu tiền khả thi là tiến hành phân tích sơ bộ hiệu quả tài chính,
kinh tế, đề xuất cơ chế sử dụng vốn ODA. Sau bước này là đánh giá sơ bộ, lựa chọn
giải pháp giảm thiểu tác động môi trường, xã hội, tiến độ thực hiện và các biện pháp
tổ chức thực hiện,…
+) Nghiên cứu khả thi
Cũng giống như báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi
cũng phải bao gồm các bước như trên, nhưng ở mức độ phân tích, đánh giá sâu hơn,
chi tiết hơn và có bổ sung những nội dung sau trên cơ sở tính đặc thù của nguồn vốn
ODA, đó là:
Thứ nhất, phân tích ảnh hưởng môi trường của dự án đầu tư
Thứ hai, phân tích hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế xã hội của dự án đầu
tư có tính đến các ràng buộc theo quy định của nhà tài trợ
Thứ ba, tính bền vững của dự án đầu tư sau khi hoàn thành (khả năng quản lý
vận hành)
+) Thẩm định và phê duyệt

Theo quy định hiện hành, việc thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư bằng
nguồn vốn ODA phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Dự án đầu tư vốn ODA trình cấp có thẩm quyền thẩm định phải có trong
danh mục được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Nhà tài trợ thỏa thuận tài trợ.
- Văn kiện của dự án ODA phải được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê
duyệt làm cơ sở để đàm phán, ký kết và thực hiện các diều ước quốc tế cụ thể về
ODA với Nhà tài trợ
- Đối với các dự án ODA thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng, Bộ Kế
hoạch & Đầu tư là cơ quan chủ trì tổ chức thẩm định. Đối với các dự án ODA thuộc
thẩm quyền phê duyệt của Thủ trưởng Cơ quan chủ quản, cấp có thẩm quyền phê
duyệt giao cho cơ quan chức năng trực thuộc chủ trì tổ chức thẩm định mà cụ thể ở
đây là Ban quản lý dự án.
- Trong quá trình thẩm định, cơ quan chủ trì tổ chức thẩm định phải xem xét
các nội dung đã thỏa thuận với Nhà tài trợ, ý kiến thẩm định của Nhà tài trợ hoặc
19
đại diện của Nhà tài trợ, ý kiến đồng thuận hoặc ý kiến khác nhau giữa các bên phải
được phản ánh trong báo cáo thẩm định
- Hồ sơ thẩm định dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA bao gồm:
Thứ nhất, tờ trình đề nghị thẩm định của Chủ dự án.
Thứ hai, ý kiến bằng văn bản của Thủ trưởng cơ quan chủ quản ( đối với các
dự án đầu tư do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt)
Thứ ba, văn kiện của dự án đầu tư, văn kiện là báo cáo nghiên cứu tiền khả
thi hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi.
Các văn bản thỏa thuận, bản ghi nhớ với Nhà tài trợ hoặc đại diện của Nhà
tài trợ, báo cáo của đoàn chuyên gia thẩm định hoặc thực hiện theo yêu cầu của Nhà
tài trợ
- Báo cáo thẩm định phải nêu rõ ý kiến thẩm định về:
Tính chuẩn xác của các dữ liệu, luận cứ, tính toán, kết luận và đề xuất nêu
trong văn kiện được thẩm định
Tính khả thi của dự án đầu tư

Tính hợp lý của việc sử dụng nguồn vốn ODA cho dự án đầu tư
Những vấn đề còn bất cập, tồn tại, hướng xử lý, biện pháp xử lý, tổ chức có
trách nhiệm xử lý và thời hạn xử lý.
Những cam kết về thay đổi cơ chế, chính sách, sự khác biệt về thủ tục thực
hiện chương trình, dự án ODA; yêu cầu về điều kiện tiên quyết, điều kiện của Nhà
tài trợ đối với khoản vốn ODA
Đề xuất cơ quan chủ trì đàm phán điều ước quốc tế cụ thể về ODA
Triển khai thực hiện dự án ODA
Giai đoạn này bao gồm các bước: lập kế hoạch thực hiện chi tiết, đấu thầu lựa
chọn nhà thầu cung ứng hàng hóa và dịch vụ, quản lý việc thực hiện hợp đồng,
kiếm soát chất lượng công việc
+) Công tác quy hoạch, lập kế hoạch tài chính cho dự án
- Nguyên tắc của lập kế hoạch tài chính: việc lập kế hoạch tài chính ơhải đảm
bảo tuân thủ các quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam, các cam kết giữa
Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ nước ngoài trong việc thực hiện các dự án
đầu tư vốn ODA. Các chủ dự án có trách nhiệm sử dụng nguồn vốn này và vốn đối
ứng đúng mục đích và hiệu quả. Vốn đưa vào kế hoạch được phân bổ theo nội dung
công việc và theo Mục lục Ngân sách nhà nước, phù hợp với tiến độ và khả năng
thực tế triển khai của dự án ODA. Việc lập kế hoạch vốn phải đầy đủ, căn cứ vào
20
nhu cầu sát thực của dự án cho năm tới. Cơ quan chủ quản ưu tiên bố trí đủ vốn đối
ứng trong dự toán ngân sách hàng năm nhằm thực hiện các cam kết tại các điều ước
quốc tế ODA đã ký và phù hợp với khả năng giải ngân thực tế hàng năm của dự án
ODA
- Kế hoạch tài chính của dự án ODA bao gồm:
Vốn ODA được phân chia chi tiết thưeo từng nguồn vốn vay nợ, vốn viện trợ
không hoàn lại được chia tách theo từng quốc gia viện trợ hay tổ chức viện trợ.
Vốn đối ứng trong nước cần được chi tiết theo từng nguồn vốn được cấp từ
Ngân sách Trung ương, vốn được cấp từ Ngân sách địa phương, vốn tín dụng trong
nước, vốn tự có của chủ đầu tư, vốn đóng góp của người thụ hưởng dự án và các

nguồn vốn khác theo quy định.
- Phương thức lập kế hoạch tài chính: kế hoạch tài chính có thể được lập cho
toàn bộ hoặc một phần của dự án ODA, khi lập phải căn cứ vào tính chất chi của dự
án. Nếu dự án chi cho đầu tư xây dựng cơ bản thì phải lập kế hoạch tài chính theo
nguồn vốn xây dựng cơ bản, dự án có tính chất chi hành chính sự nghiệp phải lập kế
hoạch tài chính theo nguồn vốn hành chính sự nghiệp,… và cụ thể theo từng lĩnh
vực chi, các dự án hỗn hợp thì cấu phần dự án có hình thức chi nào sẽ được lập kế
hoạch quản lý chi tiêu và quyết toán theo hình thức chi đó.
- Bố trí vốn đối ứng trong nước: để có thể bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch
hàng năm, dự án đầu tư vốn ODA phải đảm bảo hai điều kiện: điều ước quốc tế về
dự án đã có hiệu lực; đã hoàn thành xong các thủ tục đầu tư trong nước (dự án khả
thi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt)
Tất cả các dự án đầu tư vốn ODA có yêu cầu về vốn đối ứng hàng năm đều
phải lập kế hoạch vốn đối ứng. Các cơ quan chủ quản tổng hợp kế hoạch vốn đối
ứng của các dự án ODA do mình trực tiếp quản lý. Đối với các dự án đầu tư vốn
ODA mà trong Điều ước quốc tế được ký kết không quy định cụ thể phía Việt Nam
phải đóng góp vốn đối ứng thì không bố trí vốn đối ứng, kể cả vốn góp bằng tiền,
hiện vật hay bằng các trách nhiệm khác. Các dự án ODA phải tính toán đầy đủ nhu
cầu vốn đối ứng trong kế hoạch năm tới, kể cả phần vốn đối ứng cho nguồn vốn vay
năm trước đã được phê duyệt nhưng chưa giải ngân và phải dự trù các khoản thuế
(kể cả các khoản thuế nộp theo hình thức ghi thu, ghi chi)
+) Thủ tục chuẩn bị đầu tư, thẩm định, giám sát, quản lý các dự án thành
phần
Đây là quá trình triển khai thực hiện dự án bao gồm các bước thực hiện:
21
-Hợp đồng tư vấn lập khảo sát thiết kế (đối với một số quốc gia tài trợ, họ
yêu cầu phải tuyển tư vấn là đơn vị tư vấn của quốc gia đó)
-Thẩm định dự án đầu tư: chủ đầu tư, ban quản lý dự án trình hồ sơ lên các
cơ quan có thẩm quyền
-Phê duyệt kế hoạch đấu thầu đối với các dự án đầu tư lớn chia thành nhiều

gói thầu
Quá trình phê duyệt hồ sơ mời thầu
Phê duyệt giá gói thầu
Mở thầu, đánh giá kết quả lựa chọn nhà thầu
Ký kết hợp đồng trao thầu
-Triển khai thực hiện dự án đầu tư, song song với quá trình này là sự giám
sát của các đơn vị tư vấn, Ban quản lý dự án và các cơ quan liên quan.
- Nghiệm thu, quyết toán dự án: đây là trách nhiệm của Ban quản lý dự án,
của Chủ đầu tư, Bộ Tài chính, Kho bạc nhà nước
Đánh giá, kết thúc dự án đầu tư vốn ODA
Khi kết thúc thời gian hoạt động dự án, cần phải tiến hành đánh giá dự án
trên các cơ sở chính sau:
Dự án có đạt được mục tiêu trực tiếp đề ra hay không?
Dự án có góp phần vào tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân hay
không?
Hiệu quả của việc đạt được các mục tiêu đó ra sao?
Những bài học cần rút ra
Sau khi kết thúc, giám đốc Ban quản lý dự án phải làm báo cáo về tình hình thực
hiện và đánh giá dựa trên các cơ sở trên với sự xác nhận của Cơ quan chủ quản và
gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Văn
phòng Chính phủ.
1.1.2.4. Đặc điểm của dự án đầu tư bằng vốn ODA
Mỗi một dự án đầu tư bằng vốn ODA có những đặc thù riêng có của nó tùy
thuộc vào mục đích của nước nhận viện trợ cũng như nước viện trợ, nhưng nhìn
chung các dự án này có một số đặc điểm chung như sau:
- Nguồn vốn đầu tư: Toàn bộ hoặc một phần nguồn vốn thực hiện dự án
ODA là do các tổ chức/chính phủ nước ngoài, các tổ chức song phương tài trợ. Cơ
chế tài chính trong nước đối với việc sử dụng ODA là cấp phát, cho vay (toàn
bộ/một phần) từ ngân sách Nhà nước. Các dự án ODA thường có vốn đối ứng là
khoản đóng góp của phía Việt Nam bằng hiện vật và giá trị để chuẩn bị và thực hiện

các chương trình, dự án (có thể dưới dạng tiền được cấp từ ngân sách hoặc nhân
22
lực, cơ sở vật chất). Nguồn vốn là điểm khác biệt lớn nhất giữa dự án ODA với các
dự án khác; kèm theo nó là các yêu cầu, quy định, cơ sở pháp lý về quản lý và thực
hiện của nhà đầu tư và nhà tài trợ.
- Tính tạm thời: Tính tạm thời có nghĩa là các dự án ODA có khởi điểm và
kết thúc xác định. Dự án không phải là loại công việc hàng ngày, thường tiếp diễn,
lặp đi lặp lại theo quy trình có sẵn. Dự án có thể thực hiện trong một thời gian ngắn
hoặc có thể kéo dài trong nhiều năm. Về mặt nhân sự, dự án không có nhân công cố
định, họ chỉ gắn bó với dự án trong một khoảng thời gian nhất định (một phần hoặc
toàn bộ thời gian thực hiện dự án). Khi dự án kết thúc, các cán bộ dự án có thể phải
chuyển sang/tìm kiếm một công việc/hợp đồng mới.
- Tính duy nhất: mặc dù có thể có những mục đích tương tự, nhưng mỗi dự
án ODA phải đối mặt với những vấn đề về nguồn lực, môi trường và khó khăn khác
nhau. Hơn thế nữa, ở mức độ nhất định, mỗi dự án đem lại các sản phẩm, dịch vụ
“duy nhất”, không giống hoàn toàn với bất kỳ dự án nào khác. Ví dụ như đều với
mục đích xây nhà nhưng các dự án có sự khác biệt về chủ đầu tư, thiết kế, địa
điểm, Khi sử dụng kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch các dự án tương tự nhau,
cần phải hiểu rõ các đặc trưng riêng của mỗi dự án. Hơn thế nữa, cần phải phân tích
thật kỹ lưỡng cũng như có kế hoạch chi tiết trước khi bắt đầu thực hiện.
- Sự phát triển của dự án luôn luôn là sự chi tiết hóa: Đặc tính này đi kèm
với tính tạm thời và duy nhất của một dự án ODA. Trong suốt quá trình thực hiện
dự án, ở mỗi bước thực hiện cần có sự phát triển và liên tục được cụ thể hoá với
mức độ cao hơn, kỹ lưỡng, công phu hơn. Ví dụ như: Mục đích ban đầu đặt ra của
dự án ”Đảm bảo an ninh lương thực và nước sạch cho những người nông dân nghèo
ở tỉnh X” có thể được cụ thể hoá là “Ưu tiên tập trung nâng cao năng suất, sản
lượng lương thực và tiếp thị và tiếp đến cung cấp nguồn nước sạch cho người dân”
khi nhóm thực hiện dự án phát triển các hiểu biết của mình về mục đích, phạm vi,
sản phẩm của dự án.
- Tính giới hạn: Mỗi dự án ODA được thực hiện trong một khoảng thời gian,

nguồn lực và kinh phí nhất định. Các nhà quản lý cần phải liên tục cân bằng về nhu
cầu, tài chính, nguồn lực và lịch trình để hoàn thành dự án, đảm bảo yêu cầu của
nhà đầu tư và nhà tài trợ.
1.1.3. Thẩm định dự án đầu tư bằng vốn ODA
1.1.3.1. Sự cần thiết của việc thẩm định dự án đầu tư bằng vốn ODA
Thẩm định dự án đầu tư là việc rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học,
23

×