Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Đo lường khả năng phục hồi của nền kinh tế tầm quan trọng và các khuyến nghị chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.94 KB, 63 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình:
ĐO LƯỜNG KHẢ NĂNG PHỤC HỒI CỦA NỀN
KINH TẾ - TẦM QUAN TRỌNG VÀ CÁC KHUYẾN
NGHỊ CHÍNH SÁCH
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lý 3
HÀ NỘI, 2014
2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình: ĐO LƯỜNG KHẢ NĂNG PHỤC HỒI CỦA
NỀN KINH TẾ - TẦM QUAN TRỌNG VÀ CÁC KHUYẾN
NGHỊ CHÍNH SÁCH
Thuộc nhóm ngành khoa học: KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ 3
Họ và tên sinh viên (nhóm sinh viên):
1. TRƯƠNG THU HƯƠNG Nữ
2. NGHIÊM MINH NGỌC Nữ
3. LÊ THỊ DIỆU THÚY Nữ
Lớp, Khoa: Kinh tế học Năm thứ:
3/4
Ngành học: Kinh tế
Người hướng dẫn: PGS. TS. TÔ TRUNG THÀNH
HÀ NỘI, 2014
3


MỤC LỤC
4
DANH MỤC BẢNG
5
DANH MỤC HÌNH
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. ASEAN
Association Of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các quốc qia Đông nam á
2. AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN
3. TPP
Trans-Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương
4. OLS Ordinary Least Squares Phương pháp bình phương nhỏ nhất
5. SUR Seemingly Unrelated Regressions
Hồi quy giữa các mô hình dường như
không liên quan
6. AR Autoregressive Mô hình tự hồi quy
7. IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
8. DSGE
Dynamic Stochastic General
Equilibrium
Cân bằng động học ngẫu nhiên tổng
quát
9. GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
10. 2-SLS 2 Stage Least Of Square Mô hình ước lượng 2 giai đoạn

11. VAR Vector-Autoregression Mô hình tự hồi quy vector
12. OECD
Organisation For Economic Co-
Operation And Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
13. HDI Human Development Index Chỉ số phát triển con người
14. UNDP
United Nations Development
Programme
Chương trình phát triển liên hiệp quốc
15. UNCTAD
United Nations Conference On
Trade And Development
Diễn đàn thương mại và phát triển liên
hiệp quốc
16. WEO World Economic Outlook Triển vọng kinh tế thế giới
17. WDI World Development Indicators Chỉ số phát triển thế giới
18. EFW Economic Freedom Of The World Tự do kinh tế thế giới
19. AEs Advanced Economies Các nền kinh tế tiên tiến
20. EMDEs
Emerging Markets And Developing
Economies
Thị trường mới nổi và các nền kinh tế
đang phát triển
7
TÓM TẮT
Thế kỷ XXI với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng mang tới cho
các nền kinh tế khá nhiều cơ hội cũng như thách thức; và một trong những thách
thức lớn được đề cập tới trong những cuộc thảo luận gần đây, đó là ảnh hưởng
của sự bất ổn và rủi ro toàn cầu tới nền kinh tế. Qua cuộc đại khủng hoảng năm

2008, thực tiễn đã chứng minh được rằng các nền kinh tế chịu ảnh hưởng khác
nhau và phản ứng khác nhau trước cùng một cú sốc. Điều này làm dấy lên các
tranh luận về khả năng phục hồi (resilience) của các nền kinh tế. Vậy khả năng
phục hồi của nền kinh tế là gì? Khả năng phục hồi này được xác định như thế
nào, các nhân tố nào ảnh hưởng tới khả năng phục hồi của nền kinh tế? Khả
năng phục hồi có ý nghĩa như thế nào đối với một nền kinh tế. Bài nghiên cứu
tập trung khai thác vấn đề xác định khả năng phục hồi và các nhân tố ảnh hưởng
khả năng phục hồi cũng như tầm quan trọng của khả năng phục hồi đối với nền
kinh tế bằng các phương pháp: xây dựng chỉ số, hồi quy probit, OLS, SUR và
AR(1). Kết quả bài nghiên cứu cho thấy khả năng phục hồi có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc chống đỡ, kháng cự, thậm chí là hấp thụ sốc; đồng thời
giải thích được sự khác biệt về hiệu suất của các nền kinh tế và mức độ quan
trọng của khả năng phục hồi cũng như mức độ dễ tổn thương của nền kinh tế tới
nền kinh tế Việt Nam.
Từ khóa: khả năng phục hồi, mức độ dễ tổn thương, rủi ro, cú sốc.
8
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Chúng ta đã bước sang thế kỉ XXI, đây là thời kỳ diễn ra quá trình biến
đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế thế giới bao gồm nhiều nền kinh tế quốc gia sang
nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội nhập sâu, rộng là một quá trình tất yếu khó
tránh khỏi. Hội nhập kinh tế mang tới nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nền
kinh tế; một trong những thách thức lớn đặt ra cho nền kinh tế vĩ mô, đó là nền
kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của tình hình quốc tế. Đó không
phải là thách thức của riêng một quốc gia nào, không phải chỉ là thách thức đối
với riêng các nước đang phát triển, mà tất cả nước trên thế giới khi tham gia hội
nhập quốc tế đều có thể vấp phải thách thức này. Và câu hỏi được đặt ra ở đây
là, có phải tất cả các quốc gia đều phản ứng như nhau trước những cú sốc kinh
tế như nhau, có phải tất cả các quốc gia đều bị ảnh hưởng như nhau bởi những

cú sốc kinh tế như nhau? Theo nghĩa chung nhất, các cú sốc kinh tế ở đây bao
gồm tất cả các biến động kinh tế như toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, hay
các đợt sóng khủng hoảng trong một khoảng thời gian chu kỳ kinh tế nhất định.
Thực tiễn đã chứng minh rằng các quốc gia không phản ứng như nhau trước các
cú sốc giống nhau, cũng không bị ảnh hưởng như nhau trước những cú sốc
giống nhau. Vậy điều gì làm nên sự khác biệt đó? Qua những quan sát thực tiễn
theo thời gian, có những nền kinh tế mặc dù có bị ảnh hưởng bởi các cú sốc,
nhưng ngay sau đó lại có thể bật lại ngay và nhanh chóng thoát ra khỏi ảnh
hưởng của cú sốc; cũng có những nền kinh tế càng ngày càng lún sâu và mất rất
lâu mới có thể thoát khỏi dư chấn của cú sốc. Vì vậy mà thuật ngữ “khả năng
phục hồi của nền kinh tế” (economic resilience) ra đời. Nó giải thích sự khác
biệt về phản ứng của các nền kinh tế trước một cú sốc giống nhau, làm thế nào
mà một quốc gia có thể nhanh chóng vượt qua được cú sốc. Chính vì vậy mà
nghiên cứu về khả năng phục hồi của nền kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Đánh giá về khả năng phục hồi của nền
9
kinh tế giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về khả năng chống đỡ và/hoặc
hấp thụ các cú sốc, mức độ rủi ro của nền kinh tế và đánh giá các chính sách
thích ứng liệu có phù hợp và giúp nền kinh tế vượt qua được các cú sốc, từ đó
giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra được những hướng đi phù hợp.
Trên thế giới cũng đã có nhiều các nghiên cứu đề cập đến khả năng phục
hồi của khu vực/nền kinh tế. Một số bài nghiên cứu tiêu biểu về đề tài này có
thể kể đến như Evans và Karecha (2013), Jack Boorman và cộng sự (2013),
Hans và Goetz (2013), Ch. Buelens (2013), Doran và Fingleton (2013), Martin
(2012), Augustine và cộng sự (2012), Fingleton, Garretsen và Martin (2012),
Andrés Fuentes và cộng sự (2011), Sara Davies (2011), Stella Karoulia và Eleni
Gaki (2011), Karl Aiginger (2009), Lino Briguglio và cộng sự (2008), Romain
Duval và Lukas Vogel (2008), Adam Elbourne và cộng sự (2008),… Tuy nhiên,
những bài nghiên cứu trên vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Ví dụ như với
các nghiên cứu của Evans và Karecha (2013), Andrés Fuentes và cộng sự

(2011), Sara Davies (2011),… mới chỉ tập trung vào phân tích các kịch bản của
nền kinh tế chứ chưa đưa ra được một phương pháp định lượng cụ thể để đánh
giá về khả năng phục hồi của nền kinh tế. Các nghiên cứu của Jack Boorman và
cộng sự (2013), Hans và Goetz (2013) và đặc biệt là nghiên cứu Lino Briguglio
và cộng sự (2008) đã đưa ra được phương pháp cụ thể nhằm đo lường và so
sánh sự khác biệt về khả năng phục hồi giữa các nước, tuy nhiên cũng chưa
đánh giá được tầm quan trọng của khả năng phục hồi đối với một nền kinh tế.
Các nghiên cứu của Ch. Buelens (2013), Doran và Fingleton (2013), Romain
Duval và Lukas Vogel (2008),… đã có những bước tiến đáng kể, đó là sử dụng
các mô hình kinh tế lượng để xác định/kiểm định các nhân tố ảnh hưởng tới khả
năng phục hồi của nền kinh tế. Tuy nhiên các nghiên cứu này cũng vướng phải
một hạn chế là cũng mới chỉ xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng
phục hồi của nền kinh tế, khẳng định được tầm quan trọng của các nhân tố, ví
dụ như chính sách đối với khả năng phục hồi của nền kinh tế chứ chưa đo lường
một cách định lượng cũng như đưa ra một kết quả cụ thể nào về tầm quan trọng
của khả năng phục hồi. Ngoài ra, các phân tích thường tập trung vào khả năng
phục hồi của một vùng, lãnh thổ (trong phạm vi một nước) hơn là tập trung vào
10
khả năng phục hồi của cả nền kinh tế, trừ những nghiên cứu của Jack Boorman
và cộng sự (2013), Ch. Buelens (2013), Lino Briguglio và cộng sự (2008),…
Những hạn chế này chủ yếu là do khả năng phục hồi (resilience) vẫn còn là một
khái niệm khá mơ hồ, trừu tượng. Hơn nữa, khả năng phục hồi (resilience) còn
là một chủ đề tương đối rộng, nên việc các nghiên cứu khó có thể đi sâu phân
tích tường tận tất cả các vấn đề liên quan cũng là một điều dễ hiểu.
Tại Việt Nam vẫn chưa có một bài nghiên cứu định lượng cụ thể nào đánh
giá khả năng phục hồi của nền kinh tế hoặc khu vực (economic
resilience/regional resilience). Trong một trong những cuộc thảo luận đầu tiên,
Reggiani, de Graff và Nijkamp (2002) đã lập luận rằng "khả năng phục hồi
(resilience) có thể là một khía cạnh then chốt của động lực của hệ thống kinh
tế”. Chính vì vậy mà một nghiên cứu về đề tài này sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay, Việt Nam lại chuẩn
bị gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), chuẩn bị kí kết hiệp định TPP
(Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương), cũng như đối
mặt với rất nhiều các cú sốc lớn nhỏ bất ngờ.
Một nghiên cứu về khả năng phục hồi của nền kinh tế Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay là rất cần thiết, giúp lấp đầy khoảng trống trong nghiên cứu thực
nghiệm và giúp đưa ra khuyến nghị cho các nhà hoạch định chính sách ở Việt
Nam, từ đó có những đề xuất chính sách phù hợp.
1.2. MỤC TIÊU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Mục tiêu nghiên cứu.
Bài nghiên cứu sẽ tập trung trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:
i. Khả năng phục hồi của một nền kinh tế (economic resilience) là
gì?
ii. Những nhân tố nào quyết định tới khả năng phục hồi của nền kinh
tế và tầm quan trọng của mỗi nhân tố?
iii. Mức độ quan trọng của khả năng phục hồi đối với một nền kinh tế
nói chung và với Việt Nam nói riêng là như thế nào?
11
iv. Các khuyến nghị chính sách nào là phù hợp cho Việt Nam để
chuẩn bị tốt hơn khi đứng trước những cú sốc bất ngờ.
- Phạm vi nghiên cứu.
Căn cứ vào lí do và mục đích nghiên cứu, nhóm tác giả đi sâu vào khai
thác đề tài này theo hai góc độ, một là xây dựng chỉ số khả năng phục hồi
(resilience index) cho tổng thể 72 nước được xét; hai là tập trung phân tích về
vấn đề khả năng phục hồi đối với riêng nền kinh tế Việt Nam. Theo đó bộ số
liệu tổng hợp nghiên cứu được chúng tôi khai thác từ 72 nước và trong giai
đoạn 2003-2012.
1.3. PHƯƠNG PHÁP VÀ SỐ LIỆU NGHIÊN CỨU
Với các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi dựa trên cơ sở nghiên
cứu của Lino Briguglio và cộng sự nhằm xây dựng chỉ số khả năng phục hồi của

các nền kinh tế để đưa ra so sánh và sau đó sử dụng hồi quy OLS (ordinary
least squares) với dữ liệu tổng hợp (pooled data) nhằm kiểm định giả thuyết về
tầm quan trọng của chỉ số này. Tiếp đó chúng tôi sử dụng các mô hình: hồi quy
với biến nhị phân (probit), hồi quy giữa các mô hình dường như không liên
quan (SUR - seemingly unrelated regressions) và mô hình tự hồi quy (AR –
autoregressive) nhằm trả lời các câu hỏi được đặt ra ở trên.
Với dữ liệu sẵn có từ các nguồn số liệu thống kê đáng tin cậy như World
Bank, IMF, UN,… chúng tôi tập trung khai thác thông tin tổng hợp phục vụ cho
bài nghiên cứu gồm các số liệu về thâm hụt ngân sách, lạm phát, thất nghiệp, nợ
nước ngoài, các chỉ số về thị trường vi mô cũng như quản trị, chỉ số sức khỏe,
chỉ số giáo dục, xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ, chỉ số độ tập trung xuất khẩu,
nhập khẩu nhiên liệu, lương thực,… để xây dựng chỉ số, tuy nhiên do số liệu
Việt Nam là không đầy đủ nên chúng tôi lựa chọn sử dụng số liệu trong giai
đoạn 2003-2012. Với các số liệu sử dụng để phân tích riêng cho Việt Nam,
chúng tôi khai thác các số liệu về nợ chính phủ, cán cân vãng lai, nợ xấu, tỷ lệ
thu nhập lãi cận biên của ngân hàng, dự trữ và tốc độ tăng trưởng, cũng trong
giai đoạn 2003-2012.
12
1.4. CẤU TRÚC BÀI NGHIÊN CỨU
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, cấu trúc bài nghiên cứu được chia
thành 5 chương như sau:
Chương 1. Giới thiệu đề tài nghiên cứu. Chương 1 tập trung vào những lý do,
mục đích, phạm vi bài nghiên cứu, số liệu sử dụng và phương pháp nghiên cứu.
Chương 2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu. Chương 2 sẽ đánh giá
tổng quan về mặt lý thuyết chung và được chia làm 2 phần:
i. Khái niệm về khả năng phục hồi và mức độ dễ tổn thương của nền
kinh tế (economic resilience and vulnerability).
ii. Những nhân tố nào quyết định tới khả năng phục hồi của nền kinh tế.
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu, số liệu và các kết quả thực nghiệm.
Chương 3 sẽ mô tả chi tiết các biến số và số liệu sử dụng, phương pháp nghiên

cứu, các kết quả nghiên cứu nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu chính:
i. Những nhân tố nào quyết định tới khả năng phục hồi của nền kinh
tế và tầm quan trọng của mỗi nhân tố?
ii. Mức độ quan trọng của khả năng phục hồi đối với một nền kinh tế
nói chung và với Việt Nam nói riêng là như thế nào?
Chương 4. Kết luận và khuyến nghị chính sách. Chương 4 sẽ tóm tắt những
kết luận chính của bài nghiên cứu, đồng thời đưa ra những khuyến nghị chính
sách để trả lời cho câu hỏi số 4 trong mục đích nghiên cứu. Cuối cùng, nhóm tác
giả đưa ra hạn chế của đề tài và những đề xuất về hướng nghiên cứu cho các bài
nghiên cứu tiếp theo.
13
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Tổng quan nghiên cứu sẽ cung cấp một hướng tiếp cận vấn đề từ cơ sở lý
thuyết đến các kết quả nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến khả năng phục hồi
của nền kinh tế. Chúng tôi đã tham khảo các tài liệu nghiên cứu liên quan trong
những năm gần đây nhằm lựa chọn được hướng đi phù hợp nhất cho bài để đạt
được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
2.1. KHÁI NIỆM, PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG PHỤC
HỒI CỦA NỀN KINH TẾ
2.1.1. Khái niệm khả năng phục hồi và mức độ dễ tổn thương của nền
kinh tế
Thuật ngữ “khả năng phục hồi” (resilience) được xuất hiện từ rất sớm,
vào khoảng đầu thế kỷ 17, bắt nguồn từ động từ “resilire” trong tiếng Latin, với
ý nghĩa phục hồi hay bật trở lại. Tuy nhiên, phải đến những năm 1970, thuật
ngữ này mới được sử dụng nhiều trong các lĩnh vực nghiên cứu, mà đầu tiên
phải kể tới lĩnh vực sinh thái, bắt nguồn từ nghiên cứu của C.S. Holling. Sau đó,
thuật ngữ này đã luôn được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như y học, kĩ
thuật, sinh học, tâm lí học … trong suốt bốn thập kỷ qua, nhưng mãi tới gần
đây nó mới thu hút sự chú ý của các nhà kinh tế. Tuy nhiên thuật ngữ này cũng

mới chỉ được áp dụng chủ yếu đối với vùng (regional resilience), mà ít được sử
dụng cho cả nền kinh tế (economic resilience). Đối với số ít các nghiên cứu
phân tích về khả năng phục hồi của nền kinh tế (economic resilience) thì cũng
không có nhiều nghiên cứu đề cập tới khái niệm này. Sau đây chúng ta sẽ cùng
điểm qua về khái niệm/cách hiểu về khả năng phục hồi của nền kinh tế thông
qua số ít các bài nghiên cứu đó:
Nghiên cứu đầu tiên và cũng là tiêu biểu nhất, có lẽ phải kể tới
“Economic Vulnerability and Resilience: Concepts and Measurements” của
Lino Briguglio và cộng sự (2008). Ở đây, khả năng phục hồi của nền kinh tế
14
(economic resilience) được hiểu là khả năng ứng phó, cho phép nền kinh tế
chống chịu hoặc bật trở lại trước các cú sốc đến từ bên ngoài. Và ông cũng nhấn
mạnh rằng khả năng phục hồi ở đây không phải là một đặc tính tự nhiên, cố hữu
của nền kinh tế mà có thể xây dựng được, phụ thuộc vào chính sách và quản lý.
Nghiên cứu thứ hai được đề cập tới ở đây là “Decoupled and resilient ?
The changing role of emerging market economies in an interconnected world”
của Ch. Buelens (2013). Bài nghiên cứu này định nghĩa về khả năng phục hồi
của nền kinh tế dựa vào định nghĩa của IMF (2012), khả năng phục hồi là “khả
năng duy trì lâu hơn và mạnh hơn khoảng thời gian mở rộng; trải qua khoảng
thời gian suy thoái ngắn hơn và nông hơn; và phục hồi một cách nhanh chóng”.
Định nghĩa này cũng tương tự như định nghĩa về khả năng phục hồi được đề cập
tới trong bài “On the Notion of Regional Economic Resilience:
Conceptualisation and Explanation” của Ron Martin và Peter Sunley (2013).
Khả năng phục hồi ở đây được hiểu là khả năng bật ngược trở lại khỏi các cú
sốc, được hiểu như khả năng hồi phục về vị trí trước khi cú sốc xảy ra. Cả hai
định nghĩa này đều nhấn mạnh tới tốc độ hồi phục và mức độ hồi phục.
Nghiên cứu thứ ba mà chúng tôi muốn đưa ra là “The Centennial
Resilience Index: Measuring Countries’ Resilience to Shock” của Jack Boorman
và cộng sự (2013). Trong đó, khả năng phục hồi được định nghĩa là hàm của rất
nhiều yếu tố: hiệu quả hoạt động của chính phủ và quản trị nói chung; sức mạnh

của các tổ chức thể chế, đặc biệt trong hoạch địch chính sách kinh tế, tài chính;
tính bền vững của hệ thống ngân hàng và tài chính; cấu trúc của nền kinh tế,…
Trong nghiên cứu “Macroeconomic resilience in a DSGE model”, Adam
Elbourne và cộng sự (2008) lại cho rằng “thuật ngữ khả năng phục hồi đề cập
tới khả năng một nền kinh tế vẫn có thể phát triển thịnh vượng kể cả khi phải
đối mặt với các cú sốc”. Còn trong nghiên “Strengthening the Resilience of an
Economy Strategies to Prevent another Crisis”, Karl Aiginger (2009) lại định
nghĩa về khả năng phục hồi của nền kinh tế như “khả năng giảm thiểu xác suất
trở nên sâu rộng của cuộc khủng hoảng hoặc ít nhất là giảm thiểu được phần
nào tác động của cuộc khủng hoảng”.
15
Nghiên cứu cuối cùng mà chúng tôi muốn đề cập tới ở đây là “Economic
Resilience to Shocks: The Role of Structural Policies” của Romain Duval và
Lukas Vogel (2008). Ở đây, “khả năng phục hồi của nền kinh tế có thể được
định nghĩa một cách lỏng lẻo như khả năng duy trì sản lượng ở mức gần với sản
lượng tiềm năng kể cả sau khi trải qua các cú sốc”. Do đó, khả năng phục hồi sẽ
bao gồm ít nhất hai nội dung: mức độ mà cú sốc bị làm yếu đi và tốc độ mà nền
kinh tế trở lại mức bình thường sau cú sốc.
Mỗi một cách hiểu khác nhau về khả năng phục hồi sẽ đưa đến những
cách giải thích khác nhau, những phương pháp nghiên cứu, thậm chí là phương
pháp luận khác nhau với cùng một vấn đề. Thông thường, khả năng phục hồi
của nền kinh tế sẽ được cấu thành bởi ba đặc trưng như sau: khả năng phục hồi
nhanh chóng từ cú sốc, khả năng chống chịu được ảnh hưởng của cú sốc và khả
năng tránh được cú sốc một cách hoàn toàn. Trong bài nghiên cứu này, chúng
tôi định nghĩa về khả năng phục hồi của nền kinh tế như là khả năng ứng phó,
chống lại, thậm chí là hấp thụ cú sốc của nền kinh tế, nghĩa là ở đây, nó thể hiện
hai đặc trưng đầu tiên: khả năng phục hồi nhanh chóng từ cú sốc và khả năng
chống chịu được ảnh hưởng của cú sốc. Đối với đặc trưng thứ ba, khả năng
tránh được cú sốc một cách hoàn toàn , chúng tôi sử dụng một khái niệm khác -
“mức độ dễ tổn thương” (vulnerability) – để giải thích.

Thuật ngữ “mức độ dễ tổn thương” (vulnerability) thường được coi là
một từ trái nghĩa với thuật ngữ “khả năng phục hồi” (resilience). Tuy nhiên, ở
đây, mức độ dễ tổn thương của nền kinh tế thì lại không hoàn toàn được hiểu
như thế, mà là “nguy cơ sự phát triển của một nền kinh tế bị kìm hãm bởi các cú
sốc và sự bất ổn” - Patrick Guillaumont (2011). Nhưng định nghĩa về mức độ dễ
tổn thương của nền kinh tế như vậy vẫn là quá rộng, ở đây chúng tôi lựa chọn
định nghĩa của Lino Briguglio (2004) để phân tích: “mức độ nhạy cảm của nền
kinh tế khi phải đối mặt với các cú sốc đến từ bên ngoài, nảy sinh từ tính chất
nội tại của nền kinh tế”. Điều này hàm ý rằng mức độ dễ tổn thương của nền
kinh tế là một đặc tính cố hữu và thường trực của nền kinh tế, không phụ thuộc
và các chính sách cũng như quản lý.
16
Lý do trong nghiên cứu này, chúng tôi tách riêng ba đặc trưng của khả
năng phục hồi thành hai thuật ngữ, hai chỉ số khác nhau, bởi lẽ đặc trưng thứ ba
của khả năng phục hồi được xem là cố hữu và thường trực của nền kinh tế,
không phụ thuộc vào các chính sách mà chỉ phụ thuộc vào các yếu tố không thể,
hoặc rất khó thay đổi của nền kinh tế, như quy mô của nền kinh tế (trong bài
này được hiểu như quy mô về mặt dân số), nguồn lực về tài nguyên và khả năng
thay thế nhập khẩu,… Do đó hàm ý của việc này là chỉ ra khả năng phục hồi
của nền kinh tế là có thể thay đổi được, nên kể cả là một nước nhỏ, với mức độ
dễ tổn thương của nền kinh tế là lớn thì cũng không có nghĩa là đất nước đấy sẽ
chịu ảnh hưởng nặng nề hơn sau các cú sốc. Điều này sẽ được chứng minh ở các
phần sau.
2.1.2. Phương pháp phân tích khả năng phục hồi của nền kinh tế
Để phân tích khả năng phục hồi của nền kinh tế, chúng ta có nhiều
phương pháp, cũng như nhiều hướng tiếp cận. Ví dụ như phương pháp phân tích
trường hợp: lấy một cú sốc làm gốc, sau đó thu thập các số liệu vĩ mô của nền
kinh tế trước và sau cú sốc, cuối cùng sử dụng các phương pháp thống kê đơn
giản, mô tả sự khác biệt của nền kinh tế trước và sau khi xảy ra cú sốc nhằm chỉ
ra khả năng phục hồi (resilience) của nền kinh tế đó.

Cách tiếp cận thứ hai là sử dụng các mô hình hồi quy như mô hình DSGE
trong “Macroeconomic resilience in a DSGE model”, Adam Elbourne và cộng
sự (2008), mô hình hồi quy phi tuyến sản lượng đầu ra trong “Economic
Resilience to Shocks: The Role of Structural Policies” của Romain Duval và
Lukas Vogel (2008), hay phân tích sống sót (phân tích sự kiện) trong
“Resilience in emerging market and developing economies : Will it last?” (IMF
2012) nhằm phân tích/đánh giá khả năng phục hồi của một/một nhóm các nền
kinh tế.
Cách tiếp cận thứ ba, cũng là cách tiếp cận mà chúng tôi ưu tiên sử dụng,
đó là xây dựng chỉ số tổng hợp nhằm đo lường, so sánh khả năng phục hồi của
các nền kinh tế. Phương pháp này nhìn chung được sử dụng tương đối rộng rãi
đối với phân tích khả năng phục hồi của vùng (regional resilience), đối với khả
17
năng phục hồi của nền kinh tế (economic resilience), có hai nhóm tác giả tiêu
biểu, đó là Jack Boorman và cộng sự (2013) với nghiên cứu “The Centennial
Resilience Index: Measuring Countries’ Resilience to Shock” và Lino Briguglio
và cộng sự (2008) với nghiên cứu “Economic Vulnerability and Resilience:
Concepts and Measurements”.
2.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG PHỤC HỒI
CỦA NỀN KINH TẾ
Trong nhiều nghiên cứu từ trước tới nay, có nhiều nhân tố được xem là có
ảnh hưởng tới khả năng phục hồi của nền kinh tế. Tuy nhiên, chung quy lại,
chúng tôi có thể tổng kết ra bốn nhân tố chính:
- Kinh tế vĩ mô ổn định
Các lý thuyết cho thấy có một sự tương quan chặt chẽ giữa sự ổn định
kinh tế vĩ mô và khả năng phục hồi của nền kinh tế. Lino Briguglio (2008) từng
đánh giá rằng các biến số vĩ mô “chịu ảnh hưởng lớn bởi các chính sách kinh tế
và là những chỉ số tốt trong việc đánh giá khả năng phục hồi của nền kinh tế khi
phải đối mặt với các cú sốc bất lợi”. Ch. Buelens (2013) cũng đã đánh giá tầm
quan trọng của ổn định kinh tế vĩ mô đối với khả năng phục hồi của nền kinh tế

thông qua các biến số: lạm phát thấp, thặng dư ngân sách, nợ công thấp, thặng
dư cán cân vãng lai, nợ nước ngoài thấp và dự trữ cao. Tất các các biến số vĩ mô
này đều có tác động tích cực tới việc kéo dài thời gian mở rộng và rút ngắn
khoảng thời gian cần để phục hồi của nền kinh tế. Jack Boorman (2013) cũng
cho rằng ổn định vĩ mô là một trong những nhân tố chủ chốt, quan trọng đối với
khả năng phục hồi của một nền kinh tế. Trong nghiên cứu “Resilience in Latin
America: Lessons from Macroeconomic Management and Financial Policies”,
José De Gregorio (2012) cũng đã chỉ ra vai trò, tầm quan trọng của ổn định vĩ
mô đối với khả năng phục hồi của các nước Mĩ Latin.
- Hiệu quả thị trường vi mô
Ingrid Formosa (2008) cũng đã từng đề cập tới hiệu quả của thị trường vi
mô trong nghiên cứu “Measuring market efficiency: A comparative study” của
18
mình. Ở đây, bà đã nhấn mạnh rằng “vai trò của hiệu quả thị trường trong việc
xác định hiệu suất kinh tế đang trở thành một vấn đề trung tâm trong việc hoạch
định chính sách và nghiên cứu hàn lâm. Hơn nữa, ở nhiều quốc gia, đang diễn ra
xu hướng chuyển đổi từ các chính sách điều hành và kiểm soát của chính phủ
sang các biện pháp thúc đẩy hiệu quả thị trường vi mô thông qua hàng loạt các
cải cách kinh tế”. Theo như các lý thuyết kinh tế, hiệu quả thị trường vi mô
chính là yếu tố tiên quyết trong hiệu quả phân bổ tài nguyên (Woodfird, 2002),
đồng thời được coi là yếu tố quan trọng của phúc lợi xã hội. Và đây cũng là một
yếu tố có liên quan mật thiết tới chỉ số phục hồi của nền kinh tế (Briguglio et
al., 2006). Một thị trường vi mô được xem là hiệu quả sẽ giúp một quốc gia/nền
kinh tế có khả năng đối kháng với cú sốc sau đó quay trở lại trạng thái cân bằng
như trước khi xảy ra cú sốc. Chính sự điều chỉnh nhanh chóng của thị trường sẽ
phân phối lại tài nguyên một cách hiệu quả để giảm thiểu những tác động tiêu
cực của các cú sốc. Trong nghiên cứu “Economic Resilience to Shocks: The
Role of Structural Policies”, một lần nữa Romain Duval và Lukas Vogel (2008)
đã khẳng định lại tầm quan trọng của hiệu quả thị trường vi mô trong việc quyết
định khả năng phục hồi của nền kinh tế.

- Quản trị công tốt
Trong nghiên cứu “Governance and small states”, Liliana Curmi (2009)
đã khẳng định nhân tố “quản trị công tốt đã luôn là trung tâm của các cuộc tranh
luận về đề tài phát triển trong nhiều năm qua”. Quản trị công đóng vai trò rất
quan trọng đối với mọi quốc gia, đặc biệt với các quốc gia nhỏ mà nguồn sở hữu
tài nguyên hạn chế và phải đối mặt với các tác động tiêu cực của các cú sốc bên
ngoài. Để đạt được sự phát triển kinh tế thì bộ máy quản lý nhà nước hiệu quả,
ổn định và tinh thần trách nhiệm cao là không thể thiếu được. Gần đây nhân tố
này được xem là có liên quan chặt chẽ tới khả năng phục hồi của nền kinh tế.
Việc nâng cấp hiệu quả quản trị trong bộ phận nhà nước cũng như tư nhân được
xem là yếu tố chủ chốt trong viêc tăng cường khả năng phục hồi của các quốc
gia. Jack Boorman (2013) cũng đã chỉ ra rằng “quản trị tốt thường được xem là
một nền tảng cần thiết của một nền kinh tế hiệu quả”.
- Sự phát triển xã hội
19
Đây cũng là một nhân tố đóng vai trò quan trọng trong khả năng phục hồi
của một nền kinh tế. Nó có tính chất ảnh hưởng, quyết định tới các yếu tố khác.
Ví dụ như một xã hội phát triển có thể giúp cho việc hoạch định, ban hành, thực
thi chính sách đạt hiệu quả cao, đồng thời đem lại những tác động tích cực tới
nền kinh tế. Chính sự phát triển của xã hội là một vũ khí quan trọng để chống
chọi với những cú sốc bất lợi. Tuy nhiên, lại không có nhiều nghiên cứu gộp
chung các vấn đề xã hội vào để phân tích khả năng phục hồi của nền kinh tế, bởi
các lý do sau. Thứ nhất, có quá nhiều biến số đánh giá về sự phát triển xã hôi.
Thứ hai, tồn tại các nghiên cứu đơn lẻ nghiên cứu về sự phát triển của xã hội tới
khả năng phục hồi quốc gia (national resilience). Tuy vây, vẫn có những nghiên
cứu chỉ ra sự phát triển xã hội có mối liên quan chặt chẽ, mật thiết với khả năng
phục hồi của nền kinh tế, như nghiên cứu của Abdul Abiad, John Bluedorn,
Jaime Guajardo, và Petia Topalova (2012) hay của Lino Briguglio, Gordon
Cordina, Nadia Farrugia, và Stephanie Vella (2008).
Cũng có nhiều nghiên cứu khác chỉ ra thêm các nhân tố khác nhau ảnh

hưởng tới khả năng phục hồi của nền kinh tế, ví dụ như các cú sốc nội sinh của
nền kinh tế như khủng hoảng hệ thống ngân hàng, bùng nổ tín dụng, các cú sốc
ngoại sinh như sự suy giảm của các nền kinh tế tiên tiến,…; các đặc tính cấu
trúc của nền kinh tế,… (Ch. Buelens., 2013) (Jack Boorman et al., 2013). Tuy
nhiên, như đã đề cập ở phần trên, thứ nhất, chúng tôi không xem xét các cú sốc
dưới dạng nhân tố ảnh hưởng tới khả năng phục hồi, bởi khả năng phục hồi
được xét tới ở đây chủ yếu đề cập tới quá trình phản ứng và phục hồi, hơn nữa,
cú sốc được xem như một tác nhân tác động tới nền kinh tế thay vì tác động tới
khả năng phục hồi; thứ hai, các đặc tính cấu trúc của nền kinh tế được xem là
đặc tính cố hữu, thường xuyên, nên trong nghiên cứu này, nó được xét như là
mức độ dễ tổn thương của nền kinh tế thay vì là khả năng phục hồi.
Để đối chứng, so sánh các nghiên cứu thực nghiệm về khả năng phục hồi
của nền kinh tế, chúng tôi tổng hợp bảng tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm
chính sau đây:
Bảng . Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về khả năng phục hồi của
nền kinh tế
20
Tên nghiên
cứu
Tác giả
Khu vực
và thời
gian
nghiên
cứu
Phươn
g pháp
nghiên
cứu
Các kết luận chính

The Rising
Resilience of
Emerging
Market and
Developing
Economies
Abdul
Abiad,
John
Bluedorn,
Jaime
Guajardo,
and Petia
Topalova
21 nền kinh
tế tiên tiến
và 128 nền
kinh tế mới
nổi, các
nước đang
phát triển
(1950-
2011)
Thống
kê,
AR(1),
và phân
tích
sống
sót

(phân
tích sự
kiện)
Các nền kinh tế mới nổi và các nước đang
phát triển đang ngày càng có khả năng
phục hồi cao hơn so với những thập kỷ
trước. Có được điều này là nhờ vào việc
thực hiện tốt các khung chính sách, các
chính sách kinh tế nghịch chu kỳ và sự
vắng bóng của các cú sốc.
The
Centennial
Resilience
Index:
Measuring
Countries’
Resilience to
Shock
Jack
Boorman,
José
Fajgenbau
m, Hervé
Ferhani,
Manu
Bhaskharan
, Drew
Arnold,
Harpaul
Alberto

Kohli
33 nước có
nền kinh tế
tiên tiến và
116 nước
đang phát
triển
(1997-
2011)
Xây
dựng
chỉ số
tổng
hợp
bằng
phương
pháp
phân
tích
nhân tố
Các cuộc cải cách quan trọng ở các nước
đang phát triển vào những năm 1990, đầu
những năm 2000 đã mang lại những lợi
ích đáng kể cho các nước này. Nó không
chỉ đóng góp và khả năng phục hồi của
riêng mỗi quốc gia đó mà còn góp phần
ổn định phần nào kinh tế toàn cầu. Nếu
như không có những cuộc cải cách ấy thì
khả năng đương đầu với khủng hoảng của
các nước này sẽ là yếu hơn nhiều. Các

năng lực chính sách mới của các nước
đang phát triển còn cho phép các nước
này hấp thụ các cú sốc, thậm chí chống lại
và đảo ngược các tác động mang tính toàn
cầu.
Economic
Vulnerability
and
Resilience:
Concepts and
Measurement
s
Lino
Briguglio,
Gordon
Cordina,
Nadia
Farrugia,
and
Stephanie
Vella
85 quốc gia
trên thế
giới
(2003)
Xây
dựng
chỉ số
và hồi
quy

OLS
Có những quốc gia mặc dù có mức độ dễ
bị tổn thương lớn nhưng vẫn có thể đạt
được mức GDP bình quân đầu người cao.
Một nước có hiệu suất kinh tế cao là bởi
nước đó vốn dĩ đã không dễ tổn thương
hoặc quan trọng hơn là khả năng phục hồi
của nước đó đủ hoặc thậm chí là lấn át
những tổn thương đó của nền kinh tế.
Khả năng phục hồi của nền kinh tế có tác
động tích cực với GDP bình quân đầu
người và mức độ dễ bị tổn thương thì
ngược lại. Tuy nhiên GDP bình quân đầu
người thì nhạy cảm với khả năng phục hồi
hơn.
Economic
Resilience to
Shocks: The
Role of
Structural
Policies
Romain
Duval and
Lukas
Vogel
20 quốc gia
trong
OECD
(1982-
2003)

Non-
linear
least
squares
Luật bảo vệ lao động làm gia tăng khoảng
cách sản lượng, trong khi đó điều tiết thị
trường hàng hóa lại làm giảm hiệu ứng
chênh lệch sản lượng ban đầu của các cú
sốc ngoại sinh không quan sát được.
Việc điều tiết sâu rộng trong thị trường lao
21
động và thị trường sản phẩm làm giảm đi
tác động ban đầu nhưng lại khiến cho cú
sốc kéo dài và dai dẳng.
Kênh truyền dẫn tiền tệ trở nên mạnh hơn
trong một thị trường tài chính ít điều tiết.
Một thị trường lao động và thị trường sản
phẩm cứng nhắc sẽ kéo dài thời gian cần
cho sản lượng trở lại mức tiềm năng và
làm tăng tổn thất sản lượng tích lũy phát
sinh trong giai đoạn này. Tuy nhiên, một
nền kinh tế có thị trường lao động và thị
trường sản phẩm linh hoạt thì lại có biến
động về sản lượng lớn hơn.
Macro-
economic
resilience in
a DSGE
model
Adam

Elbourne,
Debby
Lanser,
Bert Smid
and Martin
Vromans
Hà Lan
Mô hình
DSGE
Ảnh hưởng của chi phí điều chỉnh vốn, giá
danh nghĩa, tiền lương danh nghĩa cứng
nhắc về mức độ thỏa dụng kỳ vọng là nhỏ,
đặc biệt là khi so sánh với tác động của
cạnh tranh trên thị trường hoặc tăng
trưởng kinh tế lên mức độ thỏa dụng.
Asia Rising
Growth and
Resilience in
an Uncertain
Global
Economy
Hal Hill,
Maria
Socorro
Gochoco-
Bautista
6 nước
Châu Á
(1987-
2007)

OLS và
2-SLS
Tổ chức và quản lý là hai yếu tố có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới đầu tư ở Châu Á và
hình thành lời giải thích cho hành vi đầu
tư quan sát được ở khu vực này. Các yếu
tố về quản lý như thể chế pháp lý, kiểm
soát tham nhũng và điều tiết có mối liên
quan đặc biệt mật thiết tới khả năng phục
hồi của các nước này.
Differences
in Resilience
Between the
Euro-Area
and US
Economies
Drew, A.,
M.
Kennedy
and T. Sløk
Khu vực
Châu Âu
và nước

(2000-
2010)
VAR và

hình
cấu trúc


phỏng
Khi thị trường sản phẩm và lao động linh
hoạt, lãi suất điều hành phải giảm đáng kể
để đáp ứng với một cú sốc cầu tiêu cực.
Với một nền kinh tế linh hoạt, có nghĩa là
giá cả và tiền lương đều được điều chỉnh
một cách linh hoạt thì chu kỳ kinh tế sẽ dễ
bị suy giảm, đặc biệt là đối với lạm phát.
Một hệ thống tài chính đa dạng, đặc biệt
trong đó có ít các ngân hàng phụ thuộc
hơn, có thể giúp cho nền kinh tế điều
chỉnh nhanh hơn sau một cú sốc.
Policies to
Improve
Turkey's
Resilience to
Financial
Market
Shocks
Anne-
Marie
Brook
Thổ Nhĩ
Kỳ
(1999-
2006)
Thống
kê mô
tả và

giả
định
nhằm
phân
tích
trường
hợp
Nhờ quản lý vĩ mô tốt sau cuộc khủng
hoảng vào năm 2001, Thổ Nhĩ Kỳ đã thu
hút được một dòng vốn đáng kể, và điều
này đã gây áp lực cho tỷ giá, góp phần
đáng kể vào việc tăng thâm hụt cán cân
vãng lai. Mức độ rủi ro đối với tài sản của
Thổ Nhĩ Kỳ giảm đi cùng với tỷ giá giúp
làm giảm nguy cơ điều chỉnh sau này. Tuy
nhiên, tỷ lệ lạm phát cũng lại tăng lên hàm
ý phần nào sự mất tín nhiệm của ngân
hàng trung ương, và điều này là rất khó để
22
có thể khôi phục.
Sự suy giảm sâu hơn nữa của nền kinh tế
thế giới hay mất lòng tin vào thị trường
nội địa có thể dẫn tới những sự thay đổi
đột ngột về tỷ giá, lạm phát và lĩnh vực tài
chính. Tỷ lệ nợ công và nợ nước ngoài của
Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí cũng mang lại
những rủi ro lớn hơn nhiều so với các
nước OECD khác.
The Swiss
Economy’s

Resilience to
Crisis and Its
Lessons for
Austria
Andrés
Fuentes,
Paul
Ramskogle
r, Maria
Antoinette
Silgoner
Thụy Sỹ và
Áo
(1980-
2010)
Thống
kê mô
tả và so
sánh
Một thị trường lao động ổn định và không
tồn tại bong bóng nhà đất trước khủng
hoảng là một trong những yếu tố tiên
quyết góp phần vào khả năng phục hồi cao
của cả hai nước. Đồng thời, việc cắt giảm
lãi suất chủ chốt, các gói kích thích kinh tế
và các chính sách trên thị trường lao động
đã đóng góp một phần rất quan trọng
trong ổn định nhu cầu tiêu dùng và củng
cố niềm tin kinh doanh ở cả hai nước này.
Cả hai quốc gia này cũng đều đã thành

công trong việc ổn định hệ thống ngân
hàng mà không làm tăng gánh nặng ngân
sách của chính phủ giúp cho mức độ nợ
của khu vực tư nhân và chính phủ giữ ở
mức vừa phải.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, SỐ LIỆU VÀ CÁC KẾT QUẢ
THỰC NGHIỆM
3.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ SỐ LIỆU
3.1.1. Phương pháp nghiên cứu
Như đã đề cập đến ở chương 2, để đánh giá về khả năng phục hồi của nền
kinh tế/khu vực có rất nhiều phương pháp khác nhau, tuy nhiên, tựu chung lại
có ba nhóm phương pháp chính:
Bảng . Một số phương pháp tiếp cận chính nhằm đánh giá khả năng phục
hồi của nền kinh tế/khu vực
Phương
pháp
Mô tả Ví dụ
23
Nghiên cứu
trường hợp
Chủ yếu dựa vào các thống kê mô tả
đơn giản của các dữ liệu để phân tích
các kịch bản của nền kinh tế
Andrés Fuentes và cộng sự, 2011
Sara Davies, 2011
Stella Karoulia và Eleni Gaki,
2011s
Karl Aiginger, 2009
Xây dựng chỉ

số
Xây dựng các chỉ số đơn hoặc chỉ số
tổng hợp, so sánh và đo lường sức đề
kháng cũng như khả năng phục hồi
của nền kinh tế
Jack Boorman và cộng sự, 2013
Hans và Goetz, 2013
Martin, 2012
Augustine và cộng sự, 2012
Lino Briguglio và cộng sự, 2008
Xây dựng mô
hình kinh tế
lượng
Xây dựng mô hình chuỗi thời gian,
mô hình giả thiết ngược, mô hình
nhân quả, mô hình xác suất để đánh
giá, xác định các nhân tố ảnh hưởng
tới khả năng phục hồi của nền kinh tế
Ch. Buelens, 2013
Doran và Fingleton, 2013
Fingleton, Garretsen và Martin,
2012
Romain Duval và Lukas Vogel,
2008
Adam Elbourne và cộng sự, 2008
Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Tuy nhiên,
chúng tôi thiên về hướng sử dụng phương pháp xây dựng chỉ số để đánh giá khả
năng phục hồi của nền kinh tế. Trong bài nghiên cứu của mình, Lino Briguglio
và cộng sự (2008) đã đưa ra nhận định về việc xây dựng chỉ số khả năng phục
hồi: “Chỉ số khả năng phục hồi có thể trở nên rất hữu ích trong việc hỗ trợ việc

ra quyết định chính sách, đặc biệt trong việc thiết lập phương hướng và giải
thích tại sao cần phải ưu tiên lựa chọn xây dựng khả năng phục hồi cho nền kinh
tế”. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng mô hình kinh tế lượng để xác định những
nhân tố quyết định khả năng phục hồi cao và ít tổn thương của nền kinh tế và
đánh giá khả năng dự báo cũng như giải thích của chỉ số khả năng phục hồi đối
với nền kinh tế.
3.1.1.1. Xây dựng chỉ số
Ở đây, chúng tôi ưu tiên phương pháp xây dựng chỉ số vì hai lý do như
sau:
- Tóm tắt và làm đơn giản hóa các vấn đề phức tạp, đa chiều, mà cụ thể ở
đây là khả năng phục hồi của nền kinh tế.
- Dễ dàng đưa ra so sánh giữa các năm, các nước.
24
Như đã đề cập ở các phần trước, khả năng phục hồi ở bài nghiên cứu này
được hiểu là khả năng hấp thụ cú sốc và khả năng phản ứng lại cú sốc. Theo
Lino Briguglio, khả năng phục hồi của nền kinh tế có thể tìm thấy ở 4 lĩnh vực:
- Sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- Hiệu quả thị trường vi mô.
- Quản trị công tốt.
- Sự phát triển xã hội.
Do đó, chỉ số khả năng phục hồi (Resilience Index) sẽ được tính bằng
cách tổng hợp từ 4 chỉ số phụ trên. Mỗi chỉ số phụ sẽ bao gồm các nhân tố ảnh
hưởng, mỗi nhân tố này là một biến số, sẽ được trình bày ở phần dưới. Tất cả
các biến số đều được chuẩn hóa theo công thức sau:
XS
ij
= (X
ij
– min
j

)/(max
j
– min
j
)
Trong đó, XS
ij
là giá trị đã được chuẩn hóa của quan sát thứ i của biến j, X
ij

giá trị thực tế của cùng quan sát, min
j
và max
j
lần lượt là giá trị nhỏ nhất và giá
trị lớn nhất của biến j. Các quan sát đã biến đổi theo công thức trên theo từng
biến sẽ nhận các giá trị trong khoảng từ 0 đến 1.
Ngoài ra, chúng tôi còn tính thêm chỉ số dễ tổn thương của nền kinh tế
(Vulnerability Index) nhằm so sánh và đưa ra mức độ nguy hiểm mà nền kinh tế
đang phải đối mặt, dựa trên định nghĩa của Briguglio và Galea (2003), là độ
nhạy cảm của nền kinh tế trước các cú sốc ngoại sinh. Chỉ số dễ tổn thương của
nền kinh tế được tổng hợp từ các nhân tố sau: độ mở của nền kinh tế, độ tập
trung xuất khẩu và sự phụ thuộc chiến lược nhập khẩu.
Để tổng hợp các nhân tố thành chỉ số hay chỉ số phụ, và các chỉ số phụ
thành chỉ số tổng hợp có rất nhiều phương pháp, tuy nhiên ở đây, chúng tôi lựa
chọn phương pháp trung bình cộng giản đơn. Bởi thứ nhất, mỗi chỉ số/chỉ số
phụ đều có tương đối ít nhân tố để có thể sử dụng phương pháp phân tích nhân
tố; thứ hai, mỗi biến số xây dựng nên chỉ số lại có ý nghĩa khác nhau đối với
mỗi nước, nên ở đây, tính trung bình cho toàn bộ 72 nước trong bài nghiên cứu,
chúng tôi coi các nhân tố/chỉ số phụ đều có ý nghĩa ngang nhau đối với chỉ số

phụ/chỉ số tổng hợp, và sử dụng phương pháp trung bình cộng giản đơn.
3.1.1.2. Mô hình hồi quy
25
Đầu tiên, chúng tôi sẽ xác định các nước có chỉ số khả năng phục hồi cao
(>0.5) và chỉ số dễ tổn thương thấp (<0.4) qua việc xây dựng các chỉ số ở trên,
sau đó, sử dụng hồi quy probit nhằm xác định xem nhân tố nào quyết định một
nền kinh tế là ít rủi ro hay đang ở trong trường hợp tốt nhất (best-case) – nghĩa
là nền kinh tế đó có khả năng phục hồi cao hơn mức trung bình của thế giới và
mức độ dễ tổn thương là tương đối thấp.
Tiếp theo, chúng tôi đặt ra nghi ngờ về giả thuyết của Briguglio (2004) và
Cordina (2004) rằng hiệu suất của một nền kinh tế phụ thuộc vào khả năng phục
hồi và mức độ dễ bị tổn thương của chính nền kinh tế đó. Do vậy, chúng tôi
thực hiện hồi quy OLS với biến phụ thuộc hay biến được giải thích là GDP bình
quân đầu người với biến độc lập/biến giải thích là chỉ số khả năng phục hồi và
chỉ số dễ bị tổn thương của nền kinh tế.
G = α + λ
1
*RI

+ λ
2
*VI + ε
Trong đó, G là logarit tự nhiên của GDP bình quân đầu người; RI, VI lần lượt là
chỉ số khả năng phục hồi và chỉ số dễ tổn thương của nền kinh tế được xây dựng
ở trên.
So sánh với nhiều bài nghiên cứu khác, cách xây dựng chỉ số ở đây đã
phân ra đâu là các biến số ảnh hưởng tới khả năng phục hồi và đâu là các biến
số ảnh hưởng tới mức độ dễ tổn thương của nền kinh tế. Tuy nhiên, có một số
biến số không được xét tới ở đây lại có thể có tác động tới cả hai chỉ số, đặc biệt
ngay trong định nghĩa về mức độ dễ tổn thương của nền kinh tế ở trên, ta chỉ xét

tới các cú sốc ngoại sinh, trong khi đó, vẫn tồn tại một số cú sốc nội sinh cũng
có tác động đáng kể tới nền kinh tế theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Theo Ch.
Buelens (2013), Jack Boorman (2013), tỷ lệ nợ chính phủ so với GDP và cán
cân vãng lai cũng có thể ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ tới khả năng phục hồi
của nền kinh tế. Thậm chí biến số cán cân vãng lai cũng có thể có ảnh hưởng tới
mức độ dễ tổn thương của nền kinh tế. Sự ổn định của hệ thống ngân hàng cũng
là một biến số quan trọng để đánh giá, và ở đây chúng tôi chọn đại diện biến tỷ
lệ nợ xấu trên tổng số nợ, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM). Ngoài ra biến dự
trữ cũng được sử dụng trong nhiều nghiên cứu để đánh giá khả năng phục hồi
cũng như dễ tổn thương của nền kinh tế. Do đó, ở đây, để đánh giá các biến số

×