Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

sự phục hồi của nền kinh tế việt nam sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.94 KB, 25 trang )

Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
MỤC LỤC
trang
Lời mở đầu ………………………………………………………………… 2
Chương I: Lí luận ……………………………………………………………4
I . Khái niệm khủng hoảng và dấu hiệu………………………………… 4
II.Đặc điểm của cuộc khủng hoảng ………………………………………. 4
III.Diễn biến và nguyên nhân của khủng hoảng……………………………4
IV.Các biện pháp khắc phục khủng hoảng của các nước ………………….7
Chương II: Thực trạng……………………………………………………….10
I . Tác động của khủng hoảng đối với nền kinh tế Việt Nam…………… 10
1.Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế………………………………………10
2.Đối với hoạt động xuất khẩu…………………………………………….11
3.Đối với hệ thống ngân hàng…………………………………………… 12
4.Đối với đầu tư nước ngoài …………………………………………… 12
5.Hoạt động trên thị trường chứng khoán ……………………………… 13
6.Đối với thị trường bất động sản………………………………………….13
7.Đối với thị trường hàng hóa- dịch vụ ……………………………………14
II.Sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng……………… 14
III.Nhìn lại tổng quan sau khủng hoảng tài chính ở Việt Nam…………… 15
Chương III.Một số giải pháp với nền kinh tế nước ta……………………… 16
I.Giải pháp đối với nền kinh tế Việt Nam………………………………… 16
1.Đối với hoạt động ngân hàng…………………………………………….16
2.Đối với chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa……………………… 17
3.Đối với hoạt động chứng khoán và đầu tư nước ngoài………………… 18
4.Khuyến khích đầu tư xuất khẩu………………………………………….18
5.Đảm bảo an sinh xã hội ………………………………………………….19
II.Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong cuộc khủng hoảng……………20
1.Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam do tác động khủng hoảng…….20
2.Cơ hội cho nền kinh tế ………………………………………………… 21
III. Kiến nghị một số biện pháp của bản thân…….…………………………21


Kết luận……………………………………………………………………… 23
1
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 60 trong các nền kinh tế thành viên
của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa
năm 2009 và đứng thứ 133 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình
quân đầu người . Đây là nền kinh tế hỗn hợp , phụ thuộc cao vào xuất khẩu
và đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương xây
dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .
Hiện nay , Việt Nam là quốc gia thành viên của rất nhiều tổ chức như : Liên
Hiệp Quốc ,tổ chức thương mại thế giới , quỹ tiền tệ quốc tế , nhóm ngân
hàng thế giới , ngân hàng phát triển Châu Á , Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Châu Á – Thái Bình Dương ,ASEAN . Việt Nam cũng tham gia các hiệp
định thương mại tự do đa phương và kí với Nhật Bản một hiệp định đối tác
kinh tế song phương . Có thể nói , Việt Nam đang dần hòa mình vào nền
kinh tế mở cửa tự do thương mại và đang từng bước phát triển nhờ sự giúp
đỡ của các đối tác song phương , các nước bạn bè quốc tế và các tổ chức
thương mại trên toàn thế giới . Việt Nam là một nước đang phát triển với số
dân đông , trong hơn 30 năm qua đã phải phục hồi bởi sự tàn phá của chiến
tranh , sự mất mát chỗ dựa về tài chính sau khi Liên bang Xô viết tan rã và
sự cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung . Nền kinh tế Việt Nam
ban đầu lạc hậu và gặp vô vàn khó khăn . Đó là nền kinh tế bao cấp đóng
cửa ngoại giao thông thương với các nước bên ngoài , chỉ tập trung vào nông
nghiệp .Sau nhiều năm với các cuộc chiến tranh kéo dài , trong hoàn cảnh bị
cô lập về chính trị và trì trệ về kinh tế , Việt Nam đang nhanh chóng hòa
mình vào dòng chảy chung của kinh tế và chính trị thế giới . Từ năm 1986 ,
Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới , hướng tới một nền kinh tế
thị trường ,kết hợp giữa nông nghiệp-công nghiệp-dịch vụ và cho đến nay đã
gặt hái được không ít thành công :

+ Tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Việt Nam đạt mức 8-9.5%
trong suốt hơn mười năm cho đến năm 1997 . Mặc dù vậy , do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á , tốc độ tăng trưởng của Việt Nam
giảm xuống còn 5.8% năm 1998 , 4.7% năm 1999 nhưng sau đó phục hồi và
đạt mức 6.7% năm 2000 , 7% năm 2002 ,7.7% năm 2004 , 8% năm 2006 và
8.5% năm 2007 .
+ Tăng trưởng công nghiệp đạt trung bình từ 12% đến 14% trong suốt
hơn một thập kỉ vừa qua .
Có thể nói ,với một nền kinh tế non trẻ sau chiến tranh ,những con số trên
là những tín hiệu đáng mừng . Trong môi trường tự do đầu tư hiện nay ,
những nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đang thể hiện rõ sự quan tâm
2
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
chưa từng có đối với Việt Nam thông qua một loạt các dự án đầu tư trên
nhiều lĩnh vực . Tuy nhiên ,cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 2008
cũng gây ra những ảnh hưởng lớn đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế của Việt Nam . Trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới , Việt
Nam đang xây dựng cho mình nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường
có sự điều tiết của nhà nước , đã và đang hội nhập sâu hơn với nền kinh tế
toàn cầu . Do đó , cuộc khủng hoảng kinh tế đã tác động đến Việt Nam một
cách nhất định. Bên cạnh đó , những khó khăn nội tại của nền kinh tế Việt
Nam về tỷ giá , lạm phát , thâm hụt cán cân thương mại … cũng là bài toán
khó đối với các nhà hoạch định chính sách trong việc đảm bảo mục tiêu tăng
trưởng , ổn định kinh tế vĩ mô,thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Vì vậy , việc
nghiên cứu về cuộc khủng hoảng kinh tế để tìm ra nguyên nhân , biện pháp
để bình ổn nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng
có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hoạch định đường lối để ổn định và
phát triển kinh tế .Xuất phát từ những ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng
kinh tế năm 2008 đến nền kinh tế các nước và với Việt Nam nói riêng , vậy
cuộc khủng hoảng này đã tác động đến kinh tế Việt Nam ra sao ? hậu quả và

biện pháp khắc phục để đối phó với nó thế nào ? tôi chọn đề tài “sự phục hồi
của nền kinh tế Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính – Tiền tệ năm
2008”
Nội dung của đề tài được cấu trúc theo 3 phần :
+ Phần 1 :Lí luận – Khái quát về cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008
+ Phần 2 : Thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 2008 ở
Việt Nam
+ Phần 3 :Giải pháp nhằm khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng
đối với nền kinh tế .

Sự thành công của bài viết dưới đây có sự giúp đỡ rất lớn của cô giáo
chủ nhiệm Trần Việt Trang – phụ trách giảng dạy bộ môn tài chính – tiền tệ .
Trong quá trình làm bài còn có nhiều thiếu xót ,rất mong nhận được sự giúp
đỡ của cô và các bạn . Em xin chân thành cảm ơn !
3
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
CHƯƠNG I:LÍ LUẬN
I . Khái niệm khủng hoảng tài chính và dấu hiệu của nó
1 . Khái niệm
- Khủng hoảng : theo từ điển tiếng việt đó là “tình trạng rối loạn , mất
thăng bằng nghiêm trọng do có nhiều mâu thuẫn không được hoặc chưa
được giải quyết .
- Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của
nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ , bổn phận tài chính của
mình .
2 . Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính
+ Các ngân hàng thương mại không hoàn trả được các khoản tiền gửi của
người gửi tiền
+ Các khách hàng vay vốn , gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không

thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng
+ Chính phủ từ bỏ chế độ tỉ giá hối đoái cố định
II . Đặc điểm của cuộc khủng hoảng tài chính
- Thứ nhất : cuộc khủng hoảng này xuất phát từ các nước phát triển
- Thứ hai : Cuộc khủng hoảng này nổ ra khi kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa đã chuyển từ giai đoạn kinh tế công nghiệp lên giai đoạn kinh tế
tri thức được gần 3 thập kỉ
- Thứ ba : Cuộc khủng hoảng tài chính này diễn ra trong bối cảnh
toàn cầu hóa và khu vực hóa mạnh mẽ
- Thứ tư : Cuộc khủng hoảng này không phải là cuộc khủng hoảng
theo chu kì kinh doanh thông thường mà nó biểu hiện sự yếu kém về cấu
trúc bên trong của mô hình kinh tế thị trường tự do và những khiếm khuyết
trong hệ thống luật pháp quản lí hệ thống tài chính quốc tế
III. Diễn biến và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính
- Như chúng ta đã biết , Mỹ là một nước mạnh trên nhiều lĩnh vực . Đặc
biệt nền kinh tế Mỹ chi phối nền kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế
giới . Sự kiện nước Mỹ bị khủng bố vào ngày 11/9/2001 và việc Mỹ tập
trung tấn công Afghanistan , Iraq cũng gây ra những tác động đối với nền
kinh tế Mỹ và từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu . Khi đó để giúp nền
kinh tế thoát khỏi sự trì trệ kéo dài , Thống đốc Hệ thống Dự trữ Liên bang
Mỹ Fed liên tục điều chỉnh hạ thấp lãi suất từ 6% xuống còn 1% vào ngày
25/6/2003 . Từ đó dẫn đến các ngân hàng thương mại cũng hạ lãi suất cho
4
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
vay từ 9% - 10%/ năm xuống còn 4% - 5% / năm . Khi đó , chính sách tiền
tệ của ngân hàng trung ương được nới lỏng , do đó dư nợ tín dụng của các
ngân hàng thương mại cũng được mở rộng theo . Nhiều khoản vay mua nhà
dưới chuẩn được thực hiện dưới sự tiếp sức của các môi giới tín dụng và môi
giới bất động sản .
+ Theo ước tính của các chuyên gia thì dư nợ cho vay dưới chuẩn tăng từ

160 tỉ USD năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm
2007 . Trong 22.000 tỉ USD giá trị bất động sản tại Mỹ thì có tới 12.000 tỉ
USD là tiền đi vay , trong đó có khoảng 4.000 tỉ USD là nợ xấu .
- Có thể nói , chính sách nới lỏng tiền tệ đã dẫn đến những lo ngại về
lạm phát và đưa nền kinh tế tài chính của đất nước rơi vào tình trạng bất ổn .
Khi đó FED đã liên tục điều chỉnh lãi suất từ 1% lên 1.25 ; 1.5 … và dần
điều chỉnh lãi suất lên đến 5.25% vào ngày 30/6/2006 ; kéo theo lãi suất
ngân hàng thương mại tăng từ 4% lên 8-9%/ năm . Điều này dẫn đến các
khoản tiền lãi vay phải trả của những người mua nhà đã gia tăng mạnh và đe
dọa khả năng trả nợ của họ . Từ đó làm cho thị trường bất động sản Mỹ bắt
đầu đóng băng và sụt giảm giá trị , nợ quá hạn , nợ khó đòi gia tăng khiến
cho các ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản
và đó là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ .
- Từ ngày 15/9/2008 thì cuộc khủng hoảng tài chính đã bùng tại Mỹ
bởi thị trường Mỹ sản xuất và tiêu thụ một tổng giá trị sản phẩm quá lớn và
sở hữu lượng giá trị nhập khẩu và xuất khẩu lớn nhất trong các khu vực kinh
tế thế giới . Sau đó lan rộng và trở thành cuộc khủng hoảng tài chính trên
phạm vi toàn cầu . Trong cuộc khủng hoảng này , Mỹ và Châu Âu chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất vì đây là khu vực tập trung nhiều nước có nền kinh tế
lớn mạnh như Pháp , Đức , Nga…có liên kết và hợp tác với Mỹ nhiều .
Riêng Mỹ , IMF đã nâng mức dự báo về những thiệt hại do cuộc khủng
hoảng tài chính Mỹ gây ra lên đến 1.400 tỉ USD . Một số nước khác có thị
trường vốn liên thông với Mỹ và Châu Âu cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp .
Riêng thị trường tài chính ở các nước Châu Á và Nam Mỹ cũng bị ảnh
hưởng nhưng mức độ chưa lớn .
+ Theo thống kê , trong thời điểm diễn ra khủng hoảng tài chính có
tới 89 ngân hàng , công ty bảo hiểm lớn ở Mỹ và Châu Âu bị buộc phải phá
sản , bị quốc hữu hóa hoặc bị các ngân hàng khác mua lại :
Có thể kể đến sự phá sản của ngân hàng Lehman Brothers . Các
ngân hàng Bear Stearns , Merrill Lynch , Wachovia , Washington mutual bị

bán cho các ngân hàng khác . Công ty bảo hiểm AIG của Mỹ , các ngân
hàng Northern Rocks , Bradford&bingley của Anh , ngân hàng Fortis ,
Dexia của Bỉ ….bị quốc hữu hóa hoặc nhận các khoản hỗ trợ tài chính từ
chính phủ các nước
5
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
=> Có thể nói , cuộc khủng hoảng đã gây lên những tổn thất to lớn cho
tài chính của nhiều quốc gia . Cũng chính từ những diễn biến phức tạp của
cuộc khủng tài chính này , giới chuyên gia đã chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn
đến cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 :
+ Do FED thực hiện chính sách tiền tệ “ nới lỏng “ trong nhiều năm
trước đây , lãi suất cho vay thấp đã thúc đẩy mở rộng cho vay bất động sản
đối với cả khách hàng không đủ điều kiện vay vốn .
+ Do thị trường tài chính tín dụng ở Mỹ và Châu Âu phát triển theo
hướng tự do hóa nhưng thiếu lành mạnh ,cho phép các hoạt động đầu tư
mang tính đầu cơ , gây lên những bất lợi cho thị trường tài chính
+ Do lòng tin của các nhà đầu tư bị suy giảm đối với khả năng thanh
toán của các ngân hàng . Cùng với đó là sự suy giảm mạnh của kinh tế Mỹ ,
Châu Âu và thế giới đã kéo theo tình trạng bán tháo chứng khoán , hạn chế
cho vay trên thị trường .
- Trong quá trình tìm hiểu nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính
trước hết phải kể đến sự phát triển trên cơ sở nhu cầu ảo của thị trường hàng
hóa , thị trường tài chính , thị trường địa ốc , trên cơ sở nhu cầu được quyết
định bởi các nhà đầu cơ .
+ Về thị trường hàng hóa – dịch vụ ngày nay đều được phát triển chủ
yếu thông qua các hợp đồng tương lai , các hợp đồng quyền chọn , các hợp
đồng kì hạn . Thông qua việc kí kết các hợp đồng này , các nhà đầu cơ đã vẽ
nên một thị trường tiêu thụ hàng hóa dịch vụ khổng lồ , và theo đó các nhà
sản xuất – kinh doanh đã dầu tư cho nó để đáp ứng yêu cầu của các hợp
đồng này . Để có nguồn lực tài chính đầu tư cho sự bành trướng của chính

sách tiền tệ nới lỏng , chính sách phá giá nội tệ được thực thi để cấp các
khoản vay cho các nhà sản xuất kinh doanh , các nhà đầu tư cũng như các
nhà đầu cơ .
+ Bên cạnh đó thị trường chứng khoán cũng được cấp nhiệt bởi các
nhà làm giá đầu cơ , bong bóng giá được thổi phồng nhanh chóng . Trong
không khí đó , hàng triệu triệu người lao động lập tức bị kích động nhảy vào
thị trường này để mong có được cơ hội đổi đời nhanh chóng . Và với vài
phiên giao dịch đầu tiên , họ đã bị lôi ngay vào vòng xoáy làm giàu nhanh ,
trở thành một tỉ phú trong một thời gian ngắn . Điều đó càng làm họ hăng
say làm giàu , càng bị cuốn hút vào vòng xoáy , để rùi ngay lập tức họ vội
vàng vay mượn thêm , bán vội những tài sản có thể bán , thế chấp những tài
sản có thể để vay mượn thêm làm sao có thể sau vài tuần , vài tháng là có thể
đổi đời nhanh chóng .
=> Khi các thị trường này đã đạt đến đỉnh điểm của cao trào , các nhà
đầu cơ sành sỏi đã vội thoát nhanh ra khỏi thị trường , còn lại một đám đông
các nhà đầu cơ “trẻ” , những nhà đầu cơ “ cừu non” thiếu kinh nghiệm say
6
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
máu làm giàu nhanh vật lộn với cơn xoáy tụt giá của thị trường . Trong tình
huống như vậy , chính phủ thấy nguy cơ của rủi ro tín dụng của các ngân
hàng đang đến một cách âm ỉ thì các chính sách thắt chặt tín dụng sẽ được
đưa ra nhằm khóa cửa cổng tín dụng đang chảy ra ào ạt . Khi đó , khủng
hoảng thanh khoản xảy ra trước hết là nó đến với những người đi vay ,
những mong đợi rằng nguồn tiền để họ trả nợ là tiền thu được từ việc bán
các chứng khoán mua được với giá cao hơn . Khi người vay không trả được
nợ đến lượt các ngân hàng cho vay gặp khó khăn . Trong điều kiện sản xuất
đã được triển khai theo các hợp đồng tương lai và các sản phẩm tái sinh khác
, trong lúc đó sức tiêu dùng của xã hội lại bị suy giảm nhanh chóng do công
ăn việc làm bị suy giảm , thanh khoản được dùng để trả nợ ngân hàng là
chính , lập tức vòng xoáy suy thoái sẽ được nhân lên nhiều lần .

- Thị trường địa ốc cũng có những hiện tượng tương tự như vậy . Các
nhà đầu cơ lớn thi nhau làm giá để kích thích thị trường và kiếm lời đã kích
thích các nhà đầu tư xây dựng lao vào lập các dự án lớn và thu hút vốn từ
những nhà đầu tư nhỏ - những người muốn đầu cơ vào địa ốc để tìm kiếm cơ
hội đổi đời . Từ đó , các hiện tượng cầm cố bất động sản để vay mượn phát
triển nhanh chóng . Cho đến khi bong bóng địa ốc tan vỡ thì thảm trạm mất
khả năng chi trả xảy ra , các ngân hàng cho vay mua bán bất động sản lâm
vào tình trạng rủi ro không thể chống đỡ được .
- Như vậy , khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế hiện nay bản
chất là do sự đổ vỡ mất cân bằng ở tất cả các thị trường hiện hữu , từ thị
trường tài chính đến thị trường sản xuất kinh doanh , đến thị trường lao động
. Như Các – Mác đã khẳng định : “nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là một nền
kinh tế vô chính phủ , sự cân bằng trong sản xuất và tiêu dùng , sự cân bằng
giữa cung và cầu chỉ là nhất thời” . Do đó , khủng hoảng tài chính cũng bắt
nguồn từ các nước lớn – những nước vay nợ nước ngoài lớn để nhập khẩu
hàng hóa – dịch vụ và khi các nước lớn không còn muốn nhập khẩu nữa thì
đến lượt các nước xuất khẩu chịu ảnh hưởng .Khi đó , các nước sẽ phải đưa
ra các biện pháp nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính này .
IV. Các biện pháp khắc phục khủng hoảng của các nước
1 . Các biện pháp can thiệp thị trường , giải cứu ngân hàng của chính phủ
, ngân hàng trung ương các nước và các tổ chức tài chính quốc tế nhằm
khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính .
- Cuộc khủng hoảng tài chính đã làm giảm sút nghiêm trọng lòng tin của
các nhà đầu tư , đẩy nền kinh tế thế giới sớm rơi vào suy thoái :
+ Đến tháng 12/2008 , có 25 nước rơi vào suy thoái , trong đó phải kể đến
những nước có nền kinh tế rất phát triển là Mỹ , Nhật Bản , khu vực đông
EURO , các nước Đông Âu. Suy thoái kinh tế ở nhiều nước tiếp tục diễn ra
trong những tháng đầu của năm 2009 . IMF đã dự báo năm 2009 , kinh tế thế
7
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang

giới giảm -1.4% , trong đó các nước phát triển giảm -3.8% , riêng Trung
Quốc tăng 7.5% , Ấn Độ tăng 5.4% .
+ Lạm phát ở các nước có xu hướng giảm , điều đó cho thấy một nền kinh
tế đáng lo ngại với sự sụt giảm mạnh trong mọi lĩnh vực .
+ Thương mại toàn cầu sụt giảm . IMF dự báo năm 2009 giảm 12.2%
+ Thị trường chứng khoán thế giới chao đảo và suy giảm mạnh (chỉ số
chứng khoán DownJones của Mỹ giảm 24% , Anh giảm 19% , Nikkei giảm
20%
- Chính phủ các nước G7 và G20 đều tuyên bố sẽ sử dụng tất cả các biện
pháp để ổn định thị trường tài chính – tiền tệ , bảo đảm thanh toán tiền gửi
tiết kiệm của người dân , tiến hành quốc hữu hóa các ngân hàng có nguy cơ
phá sản , cung cấp vốn vay không giới hạn bằng USD cho các ngân hàng .
IMF cam kết cho các nước đang phát triển vay 175 tỉ USD để ổn định thị
trường tài chính (Iceland , Ukraina , Pakistan , Hungari…) . Ngày
02/04/2009 , các nước G20 đồng ý cho IMF vay 750 tỉ USD để hỗ trợ các
nước
- Chính phủ Mỹ đã triển khai kế hoạch giải cứu thị trường trị giá 700 tỉ
USD . Hiện nay , chính phủ Mỹ cũng đang bàn biện pháp hỗ trợ ngành sản
xuất ô tô trong nước để tránh bị phá sản với 14 tỉ USD . FED thực hiện trả
lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc cho các
ngân hàng để tăng tiền dự trữ bắt buộc của các ngân hàng tại FED , bảo lãnh
các ngân hàng vay trên thị trường liên ngân hàng để ổn định thị trường tiền
tệ trong điều kiện các ngân hàng không thực hiện cho vay lẫn nhau do lo
ngại rủi ro mất vốn
- Chính phủ các nước EU tuyên bố đưa ra kế hoạch tổng cộng khoảng
3000 tỉ USD và giải cứu thị trường bằng biện pháp mua lại nợ xấu , cơ cấu
lại tài sản của các ngân hàng.
Ngân hàng trung ương nhiều nước bơm thêm các khoản tiền lớn nhằm tăng
thanh khoản cho thị trường , đưa ra thị trường khoảng 2.200 tỉ USD . Ngân
hàng trung ương các nước phát triển (Mỹ , Đức , Pháp ,Anh ,Nhật …) và các

nước đang phát triển cũng tuyên bố sẽ cung ứng tiền không có giới hạn ,
phối hợp điều chỉnh giảm lãi suất chủ đạo đẻ tác động trực tiếp làm giảm lãi
suất thị trường nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế : FED giảm từ
2%/năm xuống còn 1.5%/năm , ECB giảm từ 4.25%/năm xuống còn
3.75%/năm , BOE giảm từ 5%/năm xuống còn 4.5%/năm . Đồng thời thực
hiện các biện pháp sau để tăng khả năng thanh khoản và mở rộng tín dụng ,
hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng và công ty tài chính :
+ Thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng bằng biện pháp giảm mạnh lãi suất
chủ đạo , bơm tiền ra lưu thông
+ Trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc và vượt dự trữ bắt buộc
8
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
+ Bảo lãnh cho các ngân hàng vay trên thị trường liên ngân hàng
+ Phối hợp thực hiện hoán đổi tiền tệ để cung ứng USD cho thị trường
ngoài nước Mỹ ( FED đã hoán đổi ngoại tệ với 13 ngân hàng trung ương )
+ Cho phép một số ngân hàng đầu tư được huy động vốn như ngân hàng
thương mại
+ Cho các ngân hàng gặp khó khăn về tài chính vay dài hạn để mua cổ
phiếu của chính các ngân hàng đó
+ Phối hợp với bộ tài chính cơ cấu lại vốn cho các ngân hàng
- Liên minh Châu Âu tổ chức rất nhiều các cuộc họp cấp Bộ trưởng và
Thượng đỉnh để tìm giải pháp cứu nguy cho các nền kinh tế đang bị đe dọa .
Ngày 12/12/2008 bước đầu thực hiện kế hoạch thúc đẩy kinh tế trị giá 264.3
tỉ USD , tương đương 1.5% GDP nhằm khôi phục nhanh chóng nền kinh tế ,
tăng trưởng và tạo việc làm
- Chính phủ các nước đã thực hiện rất nhiều biện pháp nhằm ổn định thị
trường tài chính và kích thích kinh tế :
+ Mua lại cổ phiếu , nợ xấu của các ngân hàng mất khả năng thanh toán .
+ Đưa ra tuyên bố đảm bảo thanh toán các khoản tiền gửi tại hệ thống
ngân hàng , tăng số tiền được bảo hiểm tiền gửi

+ Rà soát lại khả năng tài chính của các ngân hàng để lập kế hoạch hỗ trợ
tài chính cơ cấu lại
+ Triển khai gói giải pháp kích thích kinh tế với tổng trị giá của các nước
khoảng 12.500 tỉ USD , tương đương 20.6% GDP thế giới năm 2008 .
2 . Hạ lãi suất , tăng tính thanh khoản của thị trường và kích thích đầu tư
cho sản xuất
3 . Kích cầu đầu tư và tiêu dùng
4 . Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng , phát triển năng lượng và bảo vệ môi
trường
5 . Cắt giảm thuế
6 . Thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch
7 . Thực hiện các chính sách hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D) , giáo
dục , y tế và thực hiện các chính sách an sinh xã hội
9
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH TIỀN TỆ NĂM 2008 TẠI VIỆT NAM
I. Tác động của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế Việt Nam .
Sau 20 năm đổi mới , nền kinh tế Việt Nam đạt tỉ lệ tăng trưởng cao ,
giảm nghèo ấn tượng , được quốc tế công nhận . Tuy nhiên ,cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã tác động đến hầu hết các nền kinh tế trên thế
giới trong đó có Việt Nam . Do vị thế đặc biệt của Mỹ :
- Là trung tâm tài chính lớn nhất của thế giới
- Là nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam , chiếm tới 1/5 tổng kim
ngạch xuất khẩu
hàng năm
- Là nơi có lượng Việt Kiều đông nhất trên thế giới
Nên xét về tổng thể , khủng hoảng tài chính Mỹ cũng có những ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam . Việt Nam bị ảnh hưởng chậm hơn một

nhịp so với các quốc gia khác nhưng cũng gây ra những tác động không nhỏ
đối với nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội . Tác động đến tăng trưởng
kinh tế , tác động lên xã hội , gây ra lạm phát ở mức cao , kim ngạch xuất
nhập khẩu biến động , thâm hụt thương mại và tác động đến tăng trưởng bền
vững . Dù chính phủ đã áp dụng một số biện pháp kích cầu có hiệu quả
nhưng hậu quả của cuộc suy thoái kinh tế gây ra là không nhỏ , nhưng đây
cũng là một cơ hội góp phần làm thay đổi vị thế Việt Nam trên trường quốc
tế .
1. Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế .
Tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm
cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta chậm lại . Kế hoạch đầu năm 2008 ,
tăng trưởng GDP dự kiến từ 8.5 – 9% . Đến tháng 5/2008 Quốc hội đã điều
chỉnh tỉ lệ tăng trưởng GDP xuống 7% . Nhưng đến tháng 10/2008 , tỉ lệ
tăng trưởng GDP thực tế là 6.52% .Cuộc khủng hoảng đã tác động đến mọi
tầng lớp dân cư của Việt Nam , trong đó tầng lớp công nhân lao động chịu
ảnh hưởng trực tiếp . Sản xuất bị thu hẹp , số người thất nghiệp gia tăng , thu
nhập bị giảm sút .
2. Đối với hoạt động xuất khẩu
- Nếu như sức tàn phá của cuộc khủng hoảng ở hầu hết các nước thể hiện
đầu tiên và rõ nét nhất ở hệ thống tài chính , ngân hàng thì ở Việt Nam lại
thể hiện trước hết ở lĩnh vực xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Hiện nay , Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam , chiếm khoảng 20-
21% kim ngạch xuất khẩu . Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ
10
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
tăng trưởng xuất khẩu , làm cho xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ giảm mạnh
do :
+ Hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn vẫn là các loại hàng thô , trong
khi giá các nguyên liệu thô trên thị trường thế giới đang giảm .Giá dầu mỏ
và các mặt hàng xuất khẩu giảm , kéo theo thâm hụt ngân sách tăng lên .

+ Cầu tiêu dùng trên thị trường Mỹ cũng trên đà giảm mạnh . Sự eo hẹp
của thị trường tài chính dẫn đến eo hẹp thị trường nhập khẩu hàng hóa . Do
đó , nhu cầu về hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm đi .
-Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ ảnh
hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam nếu như nền
kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi . Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ tác
động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới , đặc biệt là EU và
Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam . Do tác
động của khủng hoảng , người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm
chi tiêu , các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về
tài chính , theo đó nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ có
xu hướng giảm . Thực tế , tháng 11/2008 , kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ
còn 4.8 tỉ USD , giảm so với mức 5.044 tỉ USD của tháng 10 . Trong đó , dệt
may giữ được kim ngạch ở mức 780 triệu USD , giày dép tăng nhẹ lên 400
triệu USD so với 396 triệu USD của tháng 10/2008 . Một số mặt hàng khác
cũng suy giảm , trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do giá dầu đã giảm
60% so với mức tháng 7/2008 . Giá dầu giảm mạnh sẽ tác động đến nguồn
thu từ dầu của Việt Nam . Lượng dầu thô xuất khẩu năm 2008 là 14.5 triệu
tấn và đến năm 2009 giảm còn 12 triệu tấn , năm 2010 còn 11 triệu tấn
tương đương với việc làm giảm kim ngạch từ 11.3 tỉ USD năm 2008 xuống
còn 7.2 tỉ USD năm 2009 , 6.6 tỉ USD năm 2010. Các hoạt động xuất khẩu
nông lâm thủy sản , công nghiệp chế biến cũng giảm mạnh .Tổng kim ngạch
xuất khẩu nông – lâm – thủy sản tháng 9/2008 đạt 1.45 tỉ USD , tăng 32.6%
so với tháng 9/2007 và giảm 11% so với tháng 8/2008 . Có thể nói , khủng
hoảng kinh tế đã dẫn đến nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam đã giảm
giá , tổng kim ngạch xuất khẩu từng ngành giảm mạnh , ảnh hưởng trực tiếp
đến kim ngạch xuất khẩu của đất nước .
- Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế cũng đã gây ra những
biến động chưa từng có về giá cả xuất nhập khẩu , ảnh hưởng đến kế hoạch
kinh doanh của nhiều doanh nghiệp . Trong nửa đầu năm 2008 , giá hàng

hóa trên thị trường thế giới leo thang , gây áp lực tăng chi phí nhập khẩu và
đẩy nhập siêu lên cao . Từ cuối tháng 7/2008 , giá hàng trên thị trường thế
giới bắt đầu bước vào một đợt thoái trào mạnh ,đặc biệt từ tháng
9/2008.Theo đó , xuất khẩu chịu ảnh hưởng nặng . Những biến động của giá
cả đã đánh đổ hầu hết các dự báo và tính toán của các doanh nghiệp , cũng
11
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
như hoạch định , dự kiến của các nhà điều hành chính sách .Điều này càng
gây thêm nhiều khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam .
3 . Đối với hệ thống tài chính ngân hàng .
- Nhìn nhận trên thực tế thì thị trường tài chính và mức độ liên kết của các
ngân hàng trong nước với hệ thống tài chính quốc tế còn hạn chế ,chính vì
thế mà thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong nước chịu ít tác động
trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính hoặc có tác động gián tiếp ở mức
độ không lớn . Nhìn chung , thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong
nước diễn biến theo chiều hướng ổn định ,bảo đảm an toàn thanh toán . Các
ngân hàng hoạt động tại Việt Nam cũng khá linh hoạt trước cú sốc tài chính
thế giới . Thanh khoản trong hệ thống ở mức cao , thậm chí còn dư thừa tới
40.000 tỉ đồng . Trong 9 tháng đầu năm 2008 , tốc độ tăng trưởng huy động
vốn của các ngân hàng thương mại đạt 11.01% . Trong đó , đáng chú ý là sự
gia tăng nguồn vốn huy động từ dân cư , vốn nội tệ tăng 28.5% và ngoại tệ
tăng gần 35% . Tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đạt mức
19.15% . Trong đó , dư nợ cho vay với bất động sản đạt 115.000 tỉ đồng ,
chiếm 9.15% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế .Tất nhiên , những khó khăn từ
cuộc khủng hoảng cũng khiến các ngân hàng dè chừng hơn trong việc hoạch
định đường lối phát triển nhưng thực tế cho thấy không ít ngân hàng đã có
những kết quả hết sức khả quan :
+ Vượt 2000 tỉ đồng như : Vietcombank , Vietinbank , ACB ,
Techcombank
+ Trên 1000 tỉ đồng gồm :Sacombank , Eximbank , Ngân hàng quân đội

+ Dưới 1000 tỉ đồng gồm : ngân hàng Hàng Hải , Ngân hàng Đông Á ….
- Mặc dù hệ thống tài chính – ngân hàng của Việt Nam chưa chịu tác
động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ vì hệ thống tài chính ngân
hàng Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội nhập nhưng cũng có những
hạn chế trên một số lĩnh vực :
+ Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị
trường tài chính bên ngoài và với ngân hàng Mỹ sẽ gặp khó khăn .
+ Trong ngắn hạn , do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính ,
lợi nhuận của nhiều ngân hàng có thể giảm , thậm chí một số ngân hàng nhỏ
có thể thua lỗ , nợ xấu tăng lên , từ đó cũng gây ảnh hưởng đến hệ thống
ngân hàng Việt Nam
+ Khả năng giao dịch ngân hàng , tài chính quốc tế giảm , ảnh hưởng
đến nợ vay ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp
4 . Đối với vốn đầu tư của nước ngoài , kể cả đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp
- Trong tình hình khủng hoảng , chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị
trường xuất khẩu trở nên thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam cũng
12
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
giảm sút . Thêm vào dó , hầu hết các dự án đầu tư nói chung và đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) nói riêng , phần vốn vay thường chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng số vốn đầu tư nên khi các tổ chức tài chính , các ngân hàng gặp
khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được kí kết hoặc không
thể giải ngân được . Ngay cả đến các dự án FDI đang triển khai cũng có thể
bị chững lại vì có thể các công ty sẽ phải cân đối lại nguồn vốn , bảo đảm tài
chính an toàn trong khủng hoảng .
Theo số liệu thống kê , số dự án FDI đăng kí mới có xu hướng bị chững
lại . Trong tháng 10/2008 , tổng số dự án đăng kí mới là 68 dự án với tổng số
đăng kí là 2.02 tỉ USD,thấp hơn nhiều so với 9 tháng đầu năm có 885 dự án
đăng kí với tổng số vốn đăng kí là 56.27 tỉ USD . Khủng hoảng tài chính thế

giới có thể khiến dòng đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt
Nam suy giảm vì những lo ngại về bất ổn kinh tế và suy thoái kinh tế toàn
cầu .
- Khả năng huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam
cũng có những ảnh hưởng nhất định do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh
đầu tư an toàn . Việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường
quốc tế cũng sẽ gặp khó khăn và chi phí tăng cao . Chính phủ Việt Nam có
kế hoạch phát hành 1 tỉ USD và Vinashin có kế hoạch huy động 400 triệu
USD trên thị trương quốc tế vào năm 2009 . Tuy nhiên , trong bối cảnh của
cuộc khủng hoảng , khó khăn trong việc thực hiện kế hoạch trên là điều
không thể tránh khỏi . Tuy đầu tư nước ngoài đã gặp nhiều khó khăn , nhưng
Việt Nam cũng có những cơ hội nhất định qua cuộc khủng hoảng tài chính
này . Bởi lẽ , dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi
trường chính trị và kinh doanh ổn định mà Việt Nam lại đang là nước có
những lợi thế này . Hơn nữa , các nhà đầu tư luôn tin tưởng vào tương lai và
triển vọng đi lên của nước ta , đó là một điểm thuận lợi để nước ta có thể thu
hút được những nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế đất nước .
5 . Hoạt động trên thị trường chứng khoán
- Khủng hoảng tài chính gây ra những ảnh hưởng rộng trên thị trường tài
chính thế giới.Theo đó , các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp
khó khăn hơn trong việc huy động vốn hoặc họ sẽ có xu hướng thận trọng
hơn trong quyết định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp khó khăn
, và việc họ cơ cấu lại chứng khoán Việt nam là điều có thể xảy ra .
- Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính , các doanh nghiệp niêm
yết trên thị trường tài chính sẽ không tránh khỏi tác động xấu , đặc biệt là
các doanh nghiệp xuất khẩu . Do đó , giá cổ phiếu cũng có những dấu hiệu
sụt giảm .
- Khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm lí các nhà đầu tư
chứng khoán Việt Nam . Khi đó , thị trường chứng khoán lập tức bị tác động
13

Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
xấu vì những lo ngại của các nhà đầu tư trong nước . Trong kinh doanh , yếu
tố tâm lí là khá quan trọng , vì vậy cần có những giải pháp thông tin , tuyên
truyền , củng cố tâm lí cho các nhà đầu tư , hạn chế những lo ngại thái quá
gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán .
6 . Đối với thị trường bất động sản
- Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản ở Việt Nam tiềm lực
tài chính khá hạn hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài , chủ
yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng . Điều đó đã gây nên
những khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong điều
kiện khủng hoảng tài chính . Cuối năm 2007 , tình trạng đầu cơ bất động sản
đã đẩy giá bất động sản ở Việt Nam lên quá cao so với giá trị thực . Thị
trường đã lên cơn sốt ảo , cầu ảo tăng cao . Bước sang năm 2008 ,nền kinh tế
Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế , lạm phát
tăng cao buộc người dân phải giảm chi tiêu , thị trường bất động sản đóng
băng , giá bất động sản đã giảm đến 40% , các doanh nghiệp kinh doanh bất
động sản rơi vào khó khăn , không bán được sản phẩm lại phải chịu lãi suất
cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao . Giá bất
động sản giảm kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo , nợ xấu tăng lên
làm cho cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi .
7. Đối với thị trường hàng hóa và dịch vụ
Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dùng . Trong tình hình suy thoái của
nền kinh tế thế giới , tình hình vĩ mô của Việt Nam mặc dù đã được cải thiện
nhưng nhìn chung còn nhiều khó khăn . Trong thời kì đó , nhiều doanh
nghiệp đã cắt giảm hoạt động sản xuất kinh doanh , thu hẹp quy mô do chi
phí sản xuất tăng , đặc biệt là lãi vay ngân hàng . Từ đó làm cho các hoạt
động dịch vụ cũng bị thu hẹp
II . Sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng
Với việc triển khai kế hoạch kích thích tài chính từ tháng 1/2009 , Việt
Nam đã 6 lần cắt giảm lãi suất cơ bản từ 14 xuống còn 7% , giảm tương ứng

1 và 2 điểm phần trăm với mức dự trữ bắt buộc bằng VND và ngoại tệ , nới
rộng biên độ tỉ giá giữa USD và VND vào tháng 3/2009 ,hỗ trợ lãi suất 4%
cho các khoản tín dụng hợp lệ đến hết ngày 31/12/2009 , áp dụng gia hạn và
giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp , tạm thời hoàn 90% thuế giá trị gia
tăng cho một số sản phẩm xuất khẩu theo quy định . Đồng thời với chính
sách tài chính và tiền tệ ,chính sách xã hội đã tiến xa hơn một bước bằng sự
ra đời của “bảo hiểm thất nghiệp” tính từ ngày 1/1/2009 . Rộng hơn nữa ,
chính phủ chủ trương hỗ trợ những khoản vay không tính lãi dành cho các
doanh nghiệp để trả lương , đóng bảo hiểm xã hội và trợ cấp thất nghiệp cho
người lao động . Với những chính sách hỗ trợ của chính phủ , nền kinh tế
14
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
Việt Nam đã có những bước phục hồi đáng kể , dần vượt qua giai đoạn khó
khăn .
- So với năm 2008 , tăng trưởng GDP từ 3.1% trong quý I/2009 ( mức
thấp nhất trong vòng một thập kỉ ) đã vượt lên 4.5% trong quý II/2009 . Và
đến năm 2010 , tăng trưởng GDP đã được đẩy nhanh lên đến 6.8% nhờ sự
phục hồi của xuất khẩu và những điều tiết phù hợp về chính sách .
- Sản xuất công nghiệp bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc kể từ năm 2009.
Tăng trưởng tháng 8 đạt 10.6% so với cùng kì năm 2008 và gấp hai lần so
với mức tăng đầu năm 2009 . Doanh thu bán lẻ thực tế gồm cả mua sắm gia
đình và cho doanh nghiệp tiếp tục tăng mạnh . Điều đó chứng tỏ hoạt động
thương mại nội địa đã được cải thiện đáng kể .
- Tỷ lệ lạm phát giảm từ mức đỉnh từ 27.9% vào tháng 9/2008 xuống
còn 2% vào tháng 8/2009 . Tuy nhiên áp lực về giá leo thang và đó chính là
mối quan tâm lo ngại cho tình hình lạm phát của đất nước trong thời gian
tiếp theo . Và đến năm 2010,lạm phát của Việt Nam đã tăng cao lên mức hai
con số (11.8%) vào cuối năm 2010 và tiền đồng Việt Nam bị trượt giá .
- Kim ngạch xuất khẩu vẫn duy trì ở mức tăng trưởng thấp .Bên cạnh
đó , các mặt hàng như gạo , đồ dệt may và linh kiện điện tử vẫn giữ được tỷ

trọng xuất khẩu lớn
- Năm 2010 , tín dụng tăng ở mức 32.4% và tăng trưởng nguồn cung
tiền là 33.3%
III . Nhìn lại tổng quan sau cuộc khủng hoảng tài chính ở Việt Nam
Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với nền kinh tế Việt Nam .Phải
đối phó với lạm phát đang tăng cao vào cuối năm 2007 , cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu lại bùng nổ gây ra cho nền kinh tế Việt Nam không ít khó
khăn trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Trong tình hình đó , Việt
Nam vừa chịu tác động của tăng chỉ số giá tiêu dùng do yếu tố chủ quan
trong nước lại cùng lúc chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng nước ngoài đã
cho thấy những khó khăn lớn được đặt ra đối với Việt Nam . Tuy nhiên , các
biện pháp được áp dụng để khắc phục tình trạng này đã tuân thủ các quy luật
của nền kinh tế thị trường nên chính sách đề ra đạt được hiệu quả trong thời
gian ngắn nhất có thể . Ngay từ tháng 5/2008 , nhiều ngân hàng thương mại
của Việt Nam cũng gặp phải tình trạng khó khăn trong thanh khoản , làm
15
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
cho lãi suất qua đêm tăng rất cao nhưng nhiều biện pháp tổng hợp đã được
áp dụng để xử lí . Đến cuối năm 2009 . khi các yếu tố bất thường đã dần dần
được khắc phục ,các ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống chính sách hỗ trợ đã
bộc lộ rõ , Việt Nam đã dừng thực hiện gói hỗ trợ kinh tế để giữ ổn định vĩ
mô .Quá trình xử lí đó được nhiều tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế ghi
nhận là kịp thời và nền kinh tế trong nước đã có những phản ứng tích cực .
Như vậy , cuộc khủng hoảng tài chính đã gây ra không ít khó khăn cho nền
kinh tế Việt Nam còn rất non trẻ . Tuy nhiên ,Việt Nam đã sớm ổn định nền
kinh tế , tiếp tục mở cửa hội nhập và phát triển .
16
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM

I . Giải pháp đối với nền kinh tế của Việt Nam
Trước những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu , ngay từ
quý 4/2008 chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt các biện pháp để ngăn
chặn , phòng ngừa những hậu quả khôn lường của “cơn bão tài chính” . Các
biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác dụng : lạm phát giảm , tính
thanh khoản giữa các ngân hàng được tăng cường , thanh khoản của thị
trường được đảm bảo ,thu hẹp cán cân thương mại , tăng cường ngân sách
nhà nước , thắt chặt chi tiêu công , tăng dự trữ ngoại tệ . Sự chao đảo của thị
trường thế giới khiến giá nguyên liệu giảm dẫn đến làm giảm gánh nặng trợ
cấp giá nguyên liệu của ngân sách nhà nước . Các ngân hàng thương mại
cũng được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp của ngân hàng nhà nước . Nền kinh
tế được phục hồi bằng các biện pháp phù hợp
1 . Đối với hoạt động ngân hàng
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam , bộ tài chính chỉ đạo và yêu cầu các
ngân hàng thương mại ,các tập đoàn kinh tế rà soát ngay các khoản tiền gửi
và đầu tư tại các ngân hàng thương mại , tổ chức tài chính nước ngoài cũng
như các khoản vay của các tổ chức này .Từ đó thực hiện các biện pháp cần
thiết thích hợp để giảm thiểu nguy cơ mất vốn hoặc tăng chi phí . Đồng thời
rà soát hoạt động đầu tư , kinh doanh của các ngân hàng đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam .Các tổ chức tín dụng ở nước ta , đặc biệt là các ngân hàng
thương mại có vai trò to lớn trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế , thực
hiện tốt sự chỉ đạo của ngân hàng nhà nước về tín dụng , lãi suất , ngoại hối
… đã cung ứng cho nền kinh tế một khối lượng vốn rất lớn . Các ngân hàng
thương mại nhà nước đã chủ động điều hành một cách linh hoạt cơ chế lãi
suất và cho vay , góp phần kiềm chế lạm phát .
- Phải áp dụng và kết hợp một cách chặt chẽ về tiền tệ - tài chính để thúc
đẩy sản xuát và xuất khẩu , kích cầu tiêu dùng để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và tiếp tục kiềm chế lạm phát . Chính phủ , ngân hàng nhà nước đã và
đang chủ động thực hiện các biện pháp vừa góp phần ổn định hệ thống , tiếp
tục chống lạm phát , vừa góp phần kích cầu nền kinh tế theo nghị quyết số

30 của chính phủ , bảo đảm an toàn của các tổ chức tín dụng , kiểm soát tốc
độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2008 ở mức hợp
lí ,bảo đảm khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng ở mức cao , giảm
dần lãi suất cho vay , điều hành tỉ giá phù hợp với quan hệ cung cầu của thị
trường nhằm thúc đẩy xuất khẩu , hạn chế nhập siêu
17
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
- Ngân hàng nhà nước phối hợp với ngân hàng thương mại theo dõi chặt
chẽ diễn biến trên thị trường tài chính , tiền tệ thế giới , đánh giá , nhận định
về các khả năng có thể xảy ra đối với nền kinh tế và thị trường tiền tệ Việt
Nam để dự báo , có phương án và thực hiện các biện pháp để xử lí các tình
huống rủi ro có thể xảy ra
- Thủ tướng chỉ đạo , trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần đảm bảo ổn
định , an toàn của hệ thống ngân hàng . Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần
có những biện pháp giám sát chặt chẽ và chỉ đạo các ngân hàng thương mại
rà soát lại các khoản cho vay đầu tư , đặc biệt đầu tư vào những lĩnh vực rủi
ro cao (bất động sản , chứng khoán , đầu tư đa ngành …) , tăng cường hơn
nữa kiểm soát và phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động cho vay bất động sản .
- Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế mua bán nợ và thiết lập tổ chức mua bán ,
xử lí nợ khó đòi cho hệ thống ngân hàng thương mại . Sớm xây dựng trình
chính phủ ban hành quy định về việc sáp nhập , hợp nhất , mua lại , phá sản
những ngân hàng gặp vấn đề . Trên cơ sở đó để có căn cứ pháp lí thực hiện
chủ trương về cơ cấu lại những ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
yếu kém , bảo đảm an toàn , lành mạnh của hệ thống
- Bước sang năm 2010, nền kinh tế có những dấu hiệu phục hồi khá tốt
nhờ những chính sách thắt chặt cũng như nới lỏng khá linh hoạt . Tuy
nhiên , hệ thống ngân hàng thương mại cũng cần có những bước thay đổi
trong kinh doanh để luôn phù hợp với những chính sách đổi mới của nhà
nước
2 . Đối với chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa

- Năm 2009 cần áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát , kích
thích đầu tư . Để góp phần tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp
,đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa ,các ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp
như khoanh nợ , giãn nợ , giảm lãi suất cho vay . Cùng với đó , chính sách
tài khóa cũng được xem xét miễn giảm thuế cho doanh nghiệp sản xuất và
xuất khẩu
- Quản lí chặt chẽ thị trường giao dịch ngoại tệ tự do để tránh hiện tượng
đầu cơ dẫn đến xu hướng nhà đầu tư trong nước rút tiền chuyển thành ngoại
tệ , gây sức ép lên vấn đề tỉ giá và dự trữ ngoại tệ
- Thường xuyên rà soát đánh giá lại các khoản vay nợ ngắn hạn nước
ngoài của chính phủ , ngân hàng , doanh nghiệp và danh mục đầu tư gián
tiếp nước ngoài
- Nâng cao khả năng tài chính cho các ngân hàng để giữ chân luồng vốn
nước ngoài
- Chính phủ cần nghiên cứu xem xét về cấp hạn ngạch cho việc mua trái
phiếu của nhà đầu tư nước ngoài để đảm bảo tỉ lệ kiểm soát , phòng khi nhà
đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn bằng bán trái phiếu
18
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
- Tiếp tục thắt chặt chi tiêu công , nhất là những dự án kém hiệu quả và
chưa thật cần thiết
3 . Đối với hoạt động chứng khoán , hoạt động đầu tư nước ngoài
- Bộ tài chính chỉ đạo ủy ban chứng khoán nhà nước theo dõi , giám sát
chặt chẽ luồng vốn ra – vào của nhà đầu tư nước ngoài . Đồng thời , xử lí
những vướng mắc về thủ tục hành chính trong hoạt động chứng khoán để
đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ thị trường này và phát triển thị trường bền
vững . Thực hiện rà soát các hoạt động của các tổ chức tài chính , các quỹ
đầu tư tài chính để đánh giá và xác định tình trạng tài chính của từng quỹ và
toàn bộ hệ thống , sửa đổi , bổ sung , xây dựng các tiêu chí , điều kiện về cấp
phép thành lập và hoạt động đối với các công ty chứng khoán , công ty bảo

hiểm và công ty quản lí quỹ để phù hợp với tình hình mới
- Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì , cùng với ngân hàng nhà nước chỉ đạo rà
soát tình hình thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài , đầu tư trong nước để
sớm đưa công trình vào sử dụng hoặc đình hoãn đối với những dự án , công
trình xét thấy chưa thật cần thiết
4 . Khuyến khích đầu tư và xuất khẩu
- Cần tìm mọi cách để hỗ trợ xuất khẩu bao gồm : vốn , lãi suất , thuế , thủ
tục mở rộng thị trường . Thực hiện việc kích cầu đầu tư , đặc biệt đối với
đầu tư vào hạ tầng , kích thích đầu tư vào những dự án có hiệu quả không
những bằng nguồn vốn ngân sách , trái phiếu chính phủ mà bằng cả sự tham
gia của doanh nghiệp , của tư nhân , của các thành phần kinh tế khác trong
và ngoài nước . Cùng với kích cầu đầu tư cần phải tính ngay đến giải pháp
kích cầu tiêu dùng bằng biện pháp hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng ,
giảm thuế , miễn thuế … Điều này sẽ giải quyết được bài toán tồn đọng vốn
tại ngân hàng và giảm áp lực về chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu và thị trường
nội địa sẽ được kích cầu
5 . Đảm bảo an sinh xã hội
- Thực hiện bằng nhiều biện pháp : bảo hiểm thất nghiệp , hỗ trợ nông
nghiệp , trồng trọt ,chăn nuôi, bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất
khẩu và hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng dễ bị tổn thương qua cơn bão tài
chính
- Thường xuyên nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh , tình hình tài
chính của các doanh nghiệp nhà nước , công ty cổ phần , doanh nghiệp tư
nhân … để có những giải pháp xử lí phù hợp
- Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư . Vì dòng vốn trên thế giới sẽ tập
trung vào những nơi có môi trường chính trị và kinh doanh ổn định . Đây là
một trong những lợi thế của Việt Nam
- Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu : Tập trung
vào xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có lợi thế .Chuyển việc xuất khẩu
19

Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
các mặt hàng của Việt Nam sang các thị trường khác có lợi thế (Đông Nam
Á , Châu Phi , Châu Mỹ La tinh)
- Chọn lọc nhập khẩu : Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tranh thủ nhập
khẩu các mặt hàng , công nghệ hiện đại mà các nước phát triển phải bán đi
do kinh tế của họ khó khăn
=> Trước những giải pháp nhằm phục hồi kinh tế Việt Nam ,bên cạnh
những mặt tích cực mà những giải pháp này mang lại , để khắc phục những
hạn chế yếu kém về kinh tế vĩ mô , tháng 2/2011 chính phủ Việt Nam đã có
nghị quyết 11 tập trung “ ưu tiên kiềm chế lạm phát , ổn định kinh tế vĩ mô ,
đảm bảo an sinh xã hội” với 6 gói các biện pháp chính sách bao gồm “ thắt
chặt chính sách tiền tệ, thắt chặt chính sách tài chính , kìm hãm thâm hụt
thương mại , tăng giá điện . Đồng thời kết hợp với việc hỗ trợ người nghèo
và sử dụng một cơ chế mang tính thị trường hơn đối với việc định giá xăng
dầu , tăng cường an sinh xã hội , nâng cao hiệu quả việc phổ biến thông tin
chính sách” . Đồng thời để thực hiện hóa các mục tiêu trên , ngân hàng nhà
nước đã yêu cầu các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác phải kìm hãm
tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% trong năm . Các tổ chức tín dụng hạn
chế cấp tín dụng cho các hoạt động không mang tính sản xuất như bất động
sản và chứng khoán xuống dưới 22% trong tổng số tiền cho vay tính đến
cuối tháng 6/2011 và 16% tính đến cuối năm 2011 .
- Mặt khác , ngân hàng nhà nước cũng tìm cách hạn chế cho vay bằng
ngoại tệ đối với việc nhập khẩu hàng hóa không thiết yếu , giới hạn việc
nhập khẩu vàng và cấm kinh doanh vàng miếng trên thị trường . Đó là
những động thái có tính quyết liệt của ngân hàng nhà nước nhằm giảm thiểu
những giao dịch đầu cơ tích trữ ngoại tệ và vàng để đảm bảo ổn định đồng
tiền VND
- Bên cạnh đó , bộ tài chính đã sửa đổi mục tiêu thâm hụt ngân sách năm
2011 xuống dưới mức 5.0% GDP (thấp hơn so với mức ban đầu là 5.3%) .
Các bộ ngành khác được yêu cầu phải cắt giảm 10% các chi phí hoạt động

không cần thiết (không bao gồm lương và phụ cấp) đến hết năm 2011.Chính
phủ đặt mục tiêu thu thêm thuế thông qua việc nâng cao hiệu quả thực thi
quản lí thuế , đồng thời giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư của chính phủ và
các doanh nghiệp nhà nước , cải thiện hiệu quả các hoạt động sản xuất để
xuất khẩu , hạn chế những mặt hàng ngập khẩu nhất định .
=>Các giải pháp nhằm thắt chặt tài chính tiền tệ trong năm 2011 trên
trong ngắn hạn của chính phủ được xem là gói các chính sách sáng suốt để
cải thiện mọi mặt tình hình kinh tế đất nước và nâng cao khắc phục những
thiếu xót còn tồn đọng . Bên cạnh đó góp phần giúp ổn định nền kinh tế
trong nước , tiếp tục là mục tiêu tìm đến của các nhà đầu tư nước ngoài ,
20
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
đem đến cho nền kinh tế Việt Nam những nguồn thu nhập mới để phát triển
đất nước và nâng cao đời sống người dân .
II . Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong cuộc khủng hoảng
1 . Những thách thức của nền kinh tế Việt Nam do tác động của
cuộc khủng hoảng
- Thứ nhất : Dù tác động của cuộc khủng hoảng không kéo tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế Việt Nam âm như nhiều nước nhưng thực tế cho thấy
từ tốc độ tăng trưởng 8.5% trước khủng hoảng xuống còn 3% - 5% trong
khủng hoảng là một khoảng cách tụt giảm quá lớn . Nếu không có biện pháp
thích ứng , Việt Nam sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng suy thoái mạnh mẽ .
- Thứ hai : Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế Việt Nam do hai nhân
tố đóng góp quan trọng là xuất khẩu và đầu tư nước ngoài . Thực tế cho thấy
trong giai đoạn khủng hoảng hai yếu tố này đều giảm . Nếu kim ngạch xuất
khẩu trước khủng hoảng tăng từ 17% - 24% thì trong khủng hoảng giảm còn
2.4% ( giảm gần 10% về tốc độ ) . tốc độ kim ngạch xuất khẩu tăng là do
tăng xuất khẩu vàng . Giảm chủ yếu do các mặt hàng thuộc công nghiệp chế
biến thực phẩm , da giày , dệt may là những ngành hàng chủ lực , thu hút
nhiều lao động Việt Nam . Tốc độ tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) giảm đến 32% trong quý 1/2009 , vốn FDI đăng kí giảm trên 40%
- Thứ 3 : Do hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được , hàng tồn kho
tăng mạnh trên 67% so với cùng kì cho thấy cho thấy hiệu quả sản xuất kinh
doanh thấp và nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản do không bán được
hàng và sản xuất bị ngưng trệ
- Thứ 4 : Cùng với co giảm về sản xuất , doanh nghiệp phá sản ,một tỉ lệ
không nhỏ (15%) lao động đang làm việc bị cắt giảm , góp phần tăng tỉ lệ
lao động thất nghiệp ở thành thị và tăng tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn
- Thứ 5 : Khi lao động thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng , đời sống
của một bộ phận dân cư , người làm công ăn lương giảm .Đời sống giảm sẽ
tác động vào tiêu dùng giảm là một nhân tố làm cho tốc độ tăng trưởng giảm
. Đồng thời sẽ làm gia tăng tệ nạn xã hội như buôn lậu , cướp giật , lừa đảo ,
trôm cắp….
- Thứ 6 : Khi gia tăng lao động thất nghiệp sẽ làm tăng số người từ các
tỉnh nhỏ đổ về các đô thị lớn như Hà Nội , Thành phố Hồ Chí Minh để tìm
kiếm việc làm sẽ làm gia tăng nạn kẹt xe , ô nhiễm môi trường , tai nạn giao
thông…
2. Các cơ hội cho kinh tế Việt Nam
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã gây ra cho nền kinh tế Việt Nam không
ít thách thức.Tuy nhiên bên cạnh những thách thức đó chúng ta có thể tìm
thấy những cơ hội cho sự phát triển của Việt Nam .
21
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
- Thứ nhất : Bên cạnh việc giảm mạnh từ các nguồn đầu tư nước ngoài
, nền kinh tế Việt Nam cũng có những tia sáng từ đầu tư nội địa gia tăng
.Một số ngành dịch vụ nội địa gia tăng gồm bưu chính viễn thông , vận tải
hành khách . Như vậy , việc phát huy nguồn nội lực đầu tư trong nước khi
mà tiềm năng nguồn vốn trong dân chưa khai thác hết chính là một cơ hội
cho sự phát triển kinh tế đất nước . Đầu tư trong nước sẽ hướng vào những
lĩnh vực đang có cơ hội phát triển như :các ngành dịch vụ , xây dựng , sản

xuất chế biến quy mô nhỏ linh hoạt về công nghệ
- Thứ hai : Khi việc làm bị eo hẹp do tác động của khủng hoảng thì
người dân nghĩ đến việc phải đầu tư cho chính mình để có cơ hội tìm kiếm
việc làm mới . Từ đó tạo nên cơ hội cho phát triển các dịch vụ đào tạo và các
ngành dịch vụ khác có liên quan
- Thứ ba : Khi mà xuất khẩu giảm mạnh do khủng hoảng cũng là cơ
hội để chúng ta xem xét lại vấn đề đa dạng hóa thị trường , cơ cấu lại định
hướng thị trường và các mặt hàng xuất khẩu
- Thứ tư : Do tốc độ tăng trưởng chậm lại , các khoản chi hỗ trợ sản
xuất và giãn thuế cho người dân sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách quốc gia ,
tăng chi . Vì vậy đây chính là cơ hội để Việt Nam xem xét cơ cấu lại các
khoản chi , chống lãng phí thất thoát
- Thứ năm : Việt Nam hiện đang trong quá trình hội nhập và chuyển
đổi nền kinh tế , chỉ mới bước chân vào tiến trình tự do hóa thương mại ,là
một nền kinh tế non trẻ . Vì vậy cuộc khủng hoảng này giúp Việt Nam có cơ
hội học cách ứng xử với khủng hoảng ,biện pháp thích hợp để đối phó với
khủng hoảng cũng như các biện pháp giúp ổn định và tăng trưởng kinh tế

III . Kiến nghị một số biện pháp để đưa kinh tế Việt Nam nhanh
chóng vượt ra khỏi khủng hoảng
Từ các nhận định trên , để đối phó với những thách thức và nắm lấy cơ
hội để đưa nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng , đưa nền
kinh tế đạt tới tốc độ tăng trưởng bền vững , theo em những biện pháp đó có
thể là :
- Biện pháp thắt chặt chính sách tài khóa , giảm chi ngân sách . Điều
hành linh hoạt chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng . Cần triển khai các
chính sách tín dụng ưu đãi để tăng khả năng huy động vốn của các ngân
hàng thương mại , tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung ứng vốn cho nền
kinh tế phát triển .
- Cần điều chỉnh các chính sách tài chính quốc gia cho phù hợp với

từng thời kì kinh tế , đảm bảo việc phát triển phù hợp và đi đến bền vững
22
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
- Tăng cường các hoạt động đầu tư vào xây dựng và phát triển kết cấu
hạ tầng để thu hút nguồn đầu tư từ các nước trong khu vực và trên thế giới ,
tạo cơ hội phát triển kinh tế quốc gia .
- Cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiệu quả , bao gồm cả điều chỉnh ,
quy hoạch và phát triển
- Cần có những biện pháp phát triển bền vững , tăng trưởng phải gắn
liền với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội .Thực tế cho thấy , chất
lượng cuộc sống của người dân ngày càng thấp do ảnh hưởng của môi
trường , không khí , môi trường sống ngày càng đi xuống . Sự phát triển của
các ngành công nghiệp gắn liền với các vấn đề ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng nặng nề đến sức khỏe con người . Nếu thu hút một dự án đầu tư để có
tăng trưởng thêm một phần nhưng thiệt hại về môi trường ảnh hưởng đến
sức khỏe nhiều hơn so với những gì có được thì liệu có cần một dự án đầu tư
như vậy ?
- Thực hiện biện pháp đầu tư cho giáo dục , khoa học , nâng cao chất
lượng của hệ thống giáo dục , đào tạo , đáp ứng nhu cầu xã hội , nhu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Cần có biện pháp nhằm thu hút người dân vào những dự án đầu tư
nôi địa .Cần phải tăng cường các biện pháp bảo hiểm rủi ro tiền gửi , tiền
đầu tư của người dân để họ có lòng tin vào nguồn đầu tư
- Cần phải có những biện pháp đa dạng hóa thị trường cho hàng hóa
Việt Nam để thu hút sự chú ý của khách hàng trong ngoài nước trong bối
cảnh thắt chặt chi tiêu do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Từ đó tăng
nguồn thu lợi nhuận từ lĩnh vực này
- Cuối cùng là biện pháp rất quan trọng đối với những người điều
hành nền kinh tế đất nước . Cần đẩy mạnh cải cách hành chính , tăng tính
minh bạch và tính chuyên nghiệp trong quản lí nhà nước để sẵn sang đối phó

với mọi tình huống xảy ra .



23
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm biến đổi sắc thái
kinh tế của nhiều nước , đặc biệt là nền kinh tế Mỹ . Chính vì sự lay động
của nền kinh tế nước Mỹ -một nền kinh tế mạnh có ảnh hưởng lớn đến toàn
bộ nền kinh tế thế giới mà cuộc khủng
hoảng đã có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế các nước , gây ra suy
thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước
lớn nhỏ . Vì sự tác động kép của cuộc khủng hoảng kinh tế nên việc nghiên
cứu nguyên nhân và tìm ra biện pháp khắc phục , bình ổn nền kinh tế các
nước trên thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng là hết sức
quan trọng và cần thiết .
Để từng bước khôi phục , bình ổn nền kinh tế , chính phủ đã phải quan
tâm thắt chặt hơn những chính sách tài chính – tiền tệ , chứng khoán , nguồn
vốn ra vào của nhà đầu tư nước ngoài … Hơn thế nữa , nhờ sự can thiệp kịp
thời của chính phủ trong việc ban hành và thực thi một loạt các giải pháp
chống lạm phát mà tình hình kinh tế đất nước đã dần ổn định , cơ cấu kinh tế
vĩ mô được đảm bảo . Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng trên toàn thế
giới , theo các số liệu thống kê cho thấy : Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
năm 2008 giảm xuống còn 6.31% , năm 2009 còn 5.32% . Vốn đầu tư trực
tiếp nước ngời giảm mạnh về vốn đăng kí (từ 71.7 tỉ USD năm 2008 còn
21.5 tỉ USD năm 2009 ) và vốn thực hiện ( từ 11.5 tỉ USD xuống 10 tỉ USD)
. Lượng khách quốc tế giảm từ trên 4.2 triệu lượt người xuống còn trên 3.7
triệu lượt người . Lượng kiều hối giảm từ 7.2 tỉ USD xuống còn gần 6.3 tỉ
USD . Vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm mạnh . Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao

trong năm 2007 (12.63%) , bùng phát trong năm 2008 đã tăng tới 19.89%
( tính bình quân năm đã tăng tới 22.97%) . Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ
thì năm 2008 tăng 6.31% và năm 2009 đã tăng 10.7% . Nhập siêu năm 2007
lên trên 14.2 tỉ USD , năm 2008 đã lên đến trên 18 tỉ USD , và năm 2009
cũng gần 12.9 tỉ USD . Những con số đã cho thấy những tác động mạnh mẽ
từ cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam . Tuy nhiên , nhờ việc thực
thi các giải pháp phù hợp mà nền kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng thoát
khỏi khủng hoảng .
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 2008 vừa mang đến những
thách thức cũng vừa là cơ hội trong công cuộc khôi phục và tăng trưởng
kinh tế của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng . Thách thức càng
nhiều nỗ lực càng phải lớn hơn để không chỉ tồn tại mà còn để phát triển .
Những bài học từ tài chính Mỹ có lẽ là bài học đắt giá cho ngành ngân hàng
Việt Nam . Lợi nhuận cao luôn đi kèm với rủi ro cao là bài học muôn thuở ,
24
Bài tiểu luận GVHD : Trần Việt Trang
luôn được các ngân hàng nói đến nhưng các ngân hàng cũng rất khó bỏ qua
những “khoản lợi nhuận cao” này . Vì thế thận trọng luôn là cần thiết ,
không nên lấy ngắn nuôi dài , không nên lấy tiền thực để nuôi các tài sản
ảo , không nên cho vay dựa trên các quan hệ thân hữu , không nên mù quáng
theo đuổi lợi nhuận , nhất là trong bối cảnh kinh tế hiện nay.


25

×