BẢN CHẤT VÀ NGUỒN CỦA LUẬT HỒI GIÁO
Th.S ĐỖ THỊ MAI HẠNH
Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2006
Trên thế giới có nhiều hệ thống pháp luật cùng tồn tại. Đó là hệ thống pháp luật Châu Âu lục
địa, hệ thống pháp luật Thông luật, hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật
Tôn giáo (hay còn gọi là hệ thống Luật Hồi giáo). So với các hệ thống pháp luật khác, hệ thống
Luật Hồi giáo luôn là một bí ẩn đối với giới luật gia. Hiện nay, ở Việt Nam, các thông tin về
nguồn gốc và đặc điểm nguồn luật của hệ thống pháp luật này qua các tài liệu còn tương đối
hiếm và không thống nhất. Vì vậy, trong bài viết, tác giả muốn giới thiệu thật cô đọng về hệ
thống Luật Hồi giáo, đặc biệt là xác định bản chất và nguồn của hệ thống pháp luật này.
I. Về bản chất của Luật Hồi giáo
Trước hết cần hiểu đúng về Đạo Hồi và Luật Hồi giáo. Cũng như Đạo Phật, Đạo Chúa,... Đạo
Hồi là một tín ngưỡng tôn giáo. Đạo Hồi khuyên các tín đồ sống, làm việc thiện để sau này có
một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc ở cõi vĩnh hằng. Các tín đồ theo Đạo Hồi phải thực hiện
những nghĩa vụ như: ăn chay, cầu nguyện, bố thí, hành hương và sống theo những lời răn dạy
của thánh Alla trong Kinh Qu’ran (Koran).[1] Nếu làm được như vậy, họ sẽ có một cuộc sống
vĩnh hằng hạnh phúc ở thiên đường.
Luật Hồi giáo, theo nghĩa gốc bằng tiếng Arập được phiên âm sang tiếng Latinh, là Luật
Shari’ah - nghĩa là “con đường đúng” (the right path) hoặc là “sự hướng dẫn” (guide)[2]. Đây
là các quy phạm tôn giáo được nâng lên thành quy phạm pháp luật được các quốc gia trong hệ
thống Luật Hồi giáo (điển hình như Afghanistan, Pakistan, Kowait, Bahrain, Quatar, Arập
Xêut)[3] áp dụng để điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong xã hội.
Hai yếu tố cơ bản, tiên quyết để xác định một quốc gia thuộc hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm:
Đạo Hồi là quốc đạo của quốc gia, quốc gia lấy các quy định trong Kinh Thánh của Đạo Hồi
làm luật. Chính vì vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ, dù là nước có Đạo Hồi là quốc đạo, nhưng vẫn là quốc
gia thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa vì ở quốc gia này Đạo Hồi chỉ được coi là tôn
giáo[4] chứ không phải là luật.
Đặc điểm mấu chốt của sự khác biệt giữa hệ thống Luật Hồi giáo với các hệ thống pháp luật
thế giới khác là ở các quốc gia áp dụng Luật Hồi giáo không có sự tách rời giữa nhà thờ và nhà
nước (church and state). Ở đây, chính trị thần quyền (chế độ cai trị của các tăng lữ, trong đó
các luật lệ của nhà nước được tin tưởng là luật lệ của Chúa Trời) bao trùm và điều chỉnh các
vấn đề mang tính chất công và tư. Cũng chính từ học thuyết này, Shari’ah là luật Thánh Alla
ban hành, không biến đổi và được nhà nước áp dụng cho mọi thời đại; nói khác đi, nhà nước,
luật pháp và tôn giáo chỉ là một. Khái niệm này có thể hiểu ở mức độ khác nhau giữa các quốc
gia, nhưng luật pháp, chính quyền đều dựa vào khái niệm đó và là một phần của tôn giáo Đạo
Hồi[5].
Hiện nay có trên 1.2 tỉ người theo Đạo Hồi (chiếm khoảng 20% dân số thế giới).[6] Đa số
những người theo Đạo Hồi sống ở hơn 50 quốc gia có luật pháp là Luật Hồi giáo hoặc ảnh
hưởng chủ yếu bởi Luật Hồi giáo.[7] Số còn lại, là các tín đồ của Đạo Hồi nhưng sống ở những
quốc gia chỉ coi Đạo Hồi thuần túy là một hình thức tôn giáo. Tuy không thể nói một cách
chính xác có bao nhiêu người thực sự bị ảnh hưởng bởi Luật Hồi giáo, nhưng rõ ràng đó là một
con số đáng kể. Do đó hệ thống Luật Hồi giáo bao gồm những quốc gia theo Luật Hồi giáo,
cũng là một hệ thống pháp luật thế giới lớn, tồn tại và phát triển và tương tác cùng các hệ thống
pháp luật thế giới khác.
II. Về nguồn của Luật Hồi giáo
Như đã đề cập ở trên, Luật Hồi giáo chính là Luật Shari’ah. Luật này điều chỉnh, đưa ra
nguyên tắc và quy định hành vi của người dân, hoạt động của các cơ quan tổ chức, đưa ra các
quy phạm để áp dụng trong đời sống của một con người như: ăn kiêng, cách nuôi dạy con cái,
đồng thời cũng quy định và miêu tả những nguyên tắc dành cho người tu hành, việc bố thí cho
người nghèo và những vấn đề tôn giáo khác. Bên cạnh đó Luật Shari’ah cũng được sử dụng
như những hướng dẫn đối với các hoạt động của con người trong xã hội cũng như đối với
những tác động qua lại giữa các nhóm dân tộc. Ở phạm vi rộng hơn, Luật Shari’ah được áp
dụng để giải quyết những tranh chấp trong phạm vi quốc gia và giữa các quốc gia với nhau,
đồng thời giải quyết những tranh chấp, xung đột quốc tế và vấn đề chiến tranh[8]. Do đó nguồn
luật của Luật Hồi giáo cũng chính là các thành tố của Luật Shari’ah. Luật này gồm 4 thành tố
sau: Kinh Qu’ran (hay còn gọi là Koran), Kinh Sunna, Idjmá và Qiyás.[9]
Thành tố đầu tiên mang tính chất chủ đạo của Luật Hồi giáo là Kinh Qu’ran. Đây cũng là
nguồn luật với những quy định mang giá trị chung thẩm khi được áp dụng[10]. Kinh Qu’ran là
nguồn luật cao nhất của Luật Hồi giáo, được coi là những lời của Thánh Alla tiết lộ cho tiên tri
Muhammed (570-632)[11]. Sự hình thành và phát triển của Qu’ran với tư cách vừa là Kinh
Thánh vừa là luật xuất hiện ban đầu bởi sự truyền đạo của nhà tiên tri (Prophet) Mohammad tại
thành phố Madinah, sau đó đã đồng loạt xuất hiện ở mọi nơi cùng với sự gia tăng những tín đồ
của Đạo Hồi. Nhà tiên tri vừa là chỗ dựa tinh thần vừa là người tạm thời đứng đầu cộng đồng.
Về cấu trúc Kinh Qu’ran được chia thành 30 phần và 114 chương và được sắp xếp theo ý của
nhà tiên tri[12] . Các chương lại chia nhỏ thành 6.200 khổ thơ (verse), các luật gia Đạo Hồi gọi
chúng là “Những khổ thơ pháp luật”[13]. Chỉ có khoảng 3% các khổ thơ đó là liên quan đến
pháp luật. Ví dụ, Luật Gia đình được quy định trong khoảng 70 khổ thơ; các vấn đề phát sinh
trong lĩnh vực luật tư khác được quy định trong 70 khổ thơ; khoảng 30 khổ thơ được coi là đặc
trưng cho Luật Hình sự; các vấn đề về tài chính và hiến pháp thì được đề cập trong khoảng 20
khổ thơ; các vấn đề liên quan đến Luật Quốc tế thì cũng được quy định trong khoảng 20 khổ
thơ[14].
Cách thức thể hiện những điều răn dạy và điều cấm trong Kinh Qu’ran bao giờ cũng theo cùng
một công thức: điều răn dạy đều bắt đầu bằng lời giới thiệu, sau đó kết thúc bằng một lời cấm
đoán. Đơn cử như điều răn sau[15]:
Đoạn đầu tiên, lời giới thiệu là: “Người dân hỏi nhà tiên tri về rượu và bài bạc. Hãy nói rằng,
cả hai thứ đó đều xấu xa, dù rằng nó có một thuận lợi nào đó cho đàn ông, nhưng sự xấu xa của
nó thì to lớn hơn sự thuận lợi đó nhiều lần”.
Đoạn thứ hai, lời giới thiệu hướng đến điều cấm đoán: “Hỡi những tín đồ, không được cầu
nguyện khi người đang say”.
Đoạn thứ ba, lời giới thiệu đã chuyển thành điều cấm hoàn toàn: “ Hỡi những tín đồ, uống
rượu và chơi cờ bạc là những hành động xấu xa, là công việc của quỷ dữ, vì vậy phải tránh xa
nó”.
Trong Kinh Qu’ran, tín ngưỡng tồn tại bên cạnh một số nguyên tắc pháp lý và hầu hết các
nguyên tắc pháp lý liên quan đến luật gia đình (kết hôn, ly dị và thừa kế), một số liên quan đến
Luật Hình sự (ngoại tình, vu khống, uống rượu), một số liên quan đến hợp đồng (hình thức hợp
đồng, phương thức thanh toán), một số liên quan đến vấn đề pháp luật về tài chính, hiến pháp,
tòa án, tranh chấp quốc tế... Các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nghi lễ, nghi thức và luật pháp
rất ngắn gọn trong Qu’ran và hầu như mang tính nguyên tắc, không cụ thể. Hơn thế nữa, vẫn
có một số vấn đề bỏ ngỏ, chưa được đề cập. Vì vậy, về nguyên tắc, vẫn rất cần sự giải thích và
mô tả từ nhà tiên tri, hay nói cách khác, bên cạnh Kinh Qu’ran vẫn cần có nguồn luật bổ trợ;
đây chính là tiền đề để nguồn luật quan trọng thứ hai của Luật Hồi giáo ra đời, đó là Kinh
Sunna.
Kinh Sunna chứa đựng những lời dạy bảo của tiên tri Mohamed và những giai thoại, những câu
chuyện (gọi là Hadith) về nhà tiên tri và các tín đồ của mình đã sống một cuộc sống phù hợp
với trật tự tôn giáo được quy định trong Kinh Qu’ran[16]. Những câu chuyện và giai thoại đó
đã chi tiết hóa những vấn đề được đề cập mang tính nguyên tắc, hoặc chưa rõ ràng trong Kinh
Qu’ran. Cuộc sống của Mohamad và tín đồ của ông dần được xem là khuôn mẫu cho cuộc
sống của người dân trong xã hội. Nội dung của Sunna gồm 3 loại: lời nói của tiên tri về tôn
giáo; hoạt động và hành vi của nhà tiên tri và sự chấp nhận của tiên tri đối với một số hành vi
nhất định của con người. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, trong một chừng mực nhất định, các
nguyên tắc của Đạo Hồi, Luật Hồi giáo cũng được rút ra từ nguồn Sunna này. Bởi vì Qu’ran
nhìn chung chỉ giải quyết những nguyên tắc lớn về pháp luật, những vấn đề cốt yếu về tôn giáo
và đi sâu vào chi tiết một số ít trường hợp. Điển hình như: Kinh Qu’ran cấm uống ruợu, nhưng
lại không nói gì về chế tài đối với hành vi này; chế tài này lại được tìm thấy trong Kinh Sunna
bằng việc miêu tả rằng nhà tiên tri đã ra chế tài và bản thân ông là người thực thi hình phạt
đánh roi đối với hành vi uống rượu này[17]. Như vậy, Kinh Sunna đã chi tiết hóa những vấn đề
đó bằng lời giải thích và hành động của nhà tiên tri và của những tín đồ ngoan đạo đi theo ông.
Khác biệt hẳn so với Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật của Luật Hồi giáo mang
tính thần thánh, tự nhiên thì thành tố thứ ba của Luật Hồi giáo là Idjimá lại được ra đời trên
cơ sở sự thống nhất về quan điểm pháp luật của các học giả pháp lý Đạo Hồi[18]. Những vấn
đề mà các nhà học giả pháp lý Đạo Hồi bàn luận là những vấn đề về con người và cả chính trị
nữa. Khi những vấn đề đó đạt được sự thống nhất, chúng được giải thích là Idjimá. Những khái
niệm và ý kiến trong Idjimá thì không tìm thấy trong Kinh Qu’ran và Kinh Sunna. Đơn cử như
một quy định được đề cập trong Idjimá, phụ nữ không thể trở thành thẩm phán. Quy định này
không hề được đề cập trong Kinh Qu’ran và Kinh Sunna mà lại được rút ra từ quan điểm thống
nhất của các học giả pháp lý Đạo Hồi.[19] Trong thực tiễn, các thẩm phán có thể kiểm tra trong
Idjmá để tìm kiếm nhiều giải pháp khả thi để áp dụng trong xã hội hiện đại. Và họ hoàn toàn tự
do sáng tạo phương pháp mới để giải quyết các vấn đề tội phạm và vấn đề xã hội dựa trên cơ
sở những quan điểm được đề cập trong Idjimá. Do vậy thẩm phán có quyền quyết định rất lớn
trong việc áp dụng quan điểm nào trong Idjmá để giải quyết một vụ việc cụ thể bất kỳ.
Thành tố thứ tư của Luật Hồi giáo là Qiyas, là án lệ được tuyên bởi thẩm phán cấp cao[20].
Nói một cách khác, Qiyas có thể gọi là “phương pháp suy xét theo sự việc tương tự”[21]. Các
thẩm phán của các nước theo Luật Hồi giáo có thể sử dụng tiền lệ pháp đó để giải quyết một vụ
việc mới phát sinh sau này mà hướng giải quyết vụ việc đó không được đề cập trong Kinh
Qu’ran, Kinh Sunna và Idjmá. Ví dụ như đó là một tội phạm về máy vi tính, trộm cắp phần
mềm máy tính, trong Kinh Qu’ran và Sunna không đề cập đến loại tội phạm này. Hành vi này
là cần thiết bị cấm nên thẩm phán phải dựa trên lý lẽ và logic để sáng tạo ra án lệ, hay còn gọi
là Qiyas.
Vậy ở các nước theo Luật Hồi giáo có tồn tại nguồn luật là các văn bản pháp luật hay không?
Có thể nói rằng, có văn bản pháp luật ở các quốc gia theo Luật Hồi giáo cũng như việc có tồn
tại án lệ trong hệ thống pháp luật của những quốc gia này. Nhưng đây là sự chuyển hóa những
quan điểm pháp luật, ý kiến pháp luật được thống nhất bởi các học giả pháp lý Đạo Hồi vào
các văn bản pháp luật[22]. Và sự chuyển hóa này bắt đầu vào khoảng thế kỷ 19, thời điểm lịch
sử các quốc gia theo Luật Hồi giáo có một sự thay đổi rất lớn lao, khi các quốc gia Phương Tây
tăng cường quyền lực toàn cầu và chinh phục một phần rộng lớn của thế giới, trong đó có các
vùng lãnh thổ của Luật Hồi giáo[23].
Như vậy có thể khẳng định rằng những quốc gia nằm trong hệ thống Luật Hồi giáo là những
quốc gia điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội bằng Luật Shari’ah - hay
còn gọi là Luật Hồi giáo. Luật này bao gồm bốn thành tố, nói khác đi là bốn nguồn luật: Kinh
Qu’ran, Kinh Sunna, Idjmá và Qiyas; trong đó Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật
chủ đạo nhất, có giá trị pháp lý cao nhất đồng thời thể hiện là nguồn luật mang tính thần thánh
và tự nhiên, còn Idjmá và Qiyas đóng vai trò là nguồn luật bổ trợ cho hai nguồn luật trên nhưng
không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật của các quốc gia theo Luật Hồi giáo và là nguồn
luật thể hiện cho sự điều chỉnh pháp luật bằng việc kết hợp những tư tưởng thần thánh tự nhiên
với lý trí và sự thông thái của con người./.
====================================
CHÚ THÍCH
[1] Lê Phụng Hoàng chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới, Nxb Giáo dục, năm 2000, tr. 73 - 74.
[2] Michael Bogdan, Comparative Law, Nxb Kluwer Law and Taxation, năm 1994, tr. 227.
[3] Réne David (Người dịch: Nguyễn Sĩ Dũng và Nguyễn Đức Lâm), Những hệ thống pháp
luật chính trong thế giới đương đại, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr . 341.
[4] Michael Bogdan, sđd, tr. 228.
[5] />[6] />[7] Michael Bogdan, sđd, tr . 220.
[8] />[9] Các nguồn này được thừa nhận thống nhất bởi nhiều nhà nghiên cứu như Michael Bogdan
(sđd, tr. 221 - 223) và Réne David (sđd, tr. 342 - 345).
[10] />[11] Michael Bogdan, sđd, tr. 221.
[12] Dr. Ahmad A. Galwash, Handbook of Muslim Belief, năm 2001, tr. 169.
[13] Réne David, sđd, tr. 343.
[14] Michael Bogdan, sđd, tr. 221.
[15] Dr. Ahmad A. Galwash, sđd, tr. 166.
[16] />[17] Michael Bogdan, sđd, tr. 222.
[18] Về điểm này có được sự thống nhất của các nhà nghiên cứu như Michael Bogdan (sđd, tr.
222) và Réne David (sđd, tr. 344) và cũng là ý kiến được trình bày trong trang web
/>[19] Michael Bogdan, sđd, tr. 222.
[20] />