Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đề cương lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.36 KB, 48 trang )

Đề cương lịch sử Đảng
Câu 1: Phân tích các phong trào yêu nước Việt Nam cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ý nghĩa của các phong trào đó
đối với sự ra đời của Đảng cộng sán Việt Nam.
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập chế độ
thống trị rất tàn bạo, và phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Xã hội VN có những biên đổi to lớn: Từ chế độ phong kiến chuyển sang
thuộc địa nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày
càng gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc Pháp
xâm lược và giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ, phong
kiến tay sai- chỗ dựa của thực dân Pháp. Trước hoàn cảnh ấy, rất nhiều
phong trào đấu tranh yêu nước đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau.
Mặc dù bị thất bại nhưng các phong trào đã để lại ý nghĩa sâu sắc, thúc đấy
quá trình ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với tinh thần yêu nước sâu sắc, nhân
dân ta đã đứng dậy đấu tranh chông thực dân pháp và bọn tay sai phản động.
Các cuộc đấu tranh này diễn ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau.
Một là: Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và
tư sản.
Phong trào Cần Vương (1885-1896), một phong trào đấu tranh vũ trang
do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã dẫy lên một phong trào
chống Pháp rộng lớn ở Bắc và Trung kỳ. Tuy nhiên cuối cùng bị thất bại. Sự
thất bại của Phong tào Cần vương đã chuwngsn tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc.
Phong trào đấu tranh của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh:Phan Bội
Châu chủ trương dựa vào bên ngoài để đánh Pháp, giành độc lập dân tộc,
phương pháo tiến hành là bạo động. Ông lập ta Duy tân hội, Việt Nam
quang phục hội, tổ chức phong tào Đông du.
Phan Châu Trinh với khuynh hướng cải cách, chủ trương ỷ Pháp cầu tiến bộ,
phát động một cuộc duy tân để nhằm đưa dất nước ngày một phát triên, dần
dần thoát ra khỏi ách thống trị cử người Pháp.


Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp nên Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh cùng các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX
không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
1
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt
đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng nhiều hình thức khác
nhau.
- Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa
chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá,bài trừ ngoại
hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa
gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản
Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn, tập
hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do
dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc
nhân nhượng cho một số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu
tư sản thành thị và tư sản lớp dưới với những sự kiện lớn: Đấu tranh đòi thả
tự do cho Phan Bội Châu( 1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu
Trinh( 1926), đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh( 1926).
Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời
và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Đây là tổ chức
chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các
thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong
quân đội Pháp.
Về tư tưởng, Việt Nam quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân
của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương đánh
đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền, nhưng chưa có
một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân

Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng
chưa có một hệ thống tổ chức thống nhất.
Ngày 9/2/1930, Việt Nam quốc dân Đảng phát động cuộc khởi nghĩa Yên
Bái nhưng nhanh chóng bị dập tắt.

Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia
với những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần
chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều thất bại vì
2
giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức
lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mặc dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng
dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân
ta, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí
thức có khuynh hướng dân chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải
Hai là: Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Nguyễn Aí Quốc tìm đường giải phóng dân tộc:
Trước yêu cầu của cách mạng, ngày 5- 6-1911, Nguyễn Ái Quốc đã
lên đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học- kỹ thuật phát triển
và những tư tưởng dân chủ tự do, xem “nước Pháp và các nước phương Tây
làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình’’.
Trong những ngày hoạt động cách mạng sôi nổi đó, cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Người hướng
đến ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư
tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó.
Tháng 7- 1920, nguyễn Ái Quốc đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Người tìm thấy trong
Luận cương lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp ở

Tua, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và
tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt
quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản; mở đường giải quyết đúng đắn về đường
lối giải phóng dân tộc của Việt Nam. Người nói: "Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm
vụ đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc
tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết
cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác- Lênin để truyền bá vào nước, từng
bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập chính
đảng Cộng sản ở Việt Nam. Cụ thể:
ở pháp: Năm 1921, Nguyễn Aí Quốc cùng các nhà cách mạng yêu
nước lập ra “ Hội liên hiệp thuộc địa’’, với tờ báo “ Người cùng khổ” làm cơ
quan ngôn luận.
Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài đăng trên các báo Người cùng khổ,
Nhân đạo, Đời sống công nhân. Người viết một số tác phẩm, đặc biệt Bản án
chế độ thực dân Pháp, được xuất bản lần đầu tiên ở Pari năm 1925. Những
bài viết trong tác phẩm đã vạch trần bản chất phản động của đế quốc Pháp
đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh tinh thần dân tộc, hướng nhân dân các
nước thuộc địa đi tới giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
3
Nhân dân ta, trước hết là những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ,
nhờ tác phẩm này và các bài viết khác của Nguyễn Ái Quốc, mà hướng tới
con đường cách mạng của Người để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc của nhân dân Việt Nam.
Ở Liên Xô: Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva để
tham dự các Hội nghị Quốc tế, đồng thời học tập kinh nghiệm Cách mạng
Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin.
Ở Trung Quốc: Người lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh

niên( tháng 6/1925), hạt nhân là “Cộng sản đoàn”. Cơ quan ngôn luận của
Hội là tuần báo Thanh niên. Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn
luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Sau các khoá học một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông
của Quốc tế Cộng sản, phần đông được đưa về nước hoạt động. Đây là sự
chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại Quảng Châu
được xuất bản thành sách với tên gọi là “Đường kách mệnh”. Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến
lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam:
Trước tiên, Người chỉ rõ các cuộc cách mạng tư sản là không triệt để,
chỉ có cách mạng tháng 10 Nga là triệt để nhất. Vì thế, cách mạng Việt Nam
cần phải đi theo con đường cách mạng của học thuyết Mac- lenin thì mới
thành công.
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:Cách mạng Việt Nam
trước hết phải làm dân tộc cách mệnh, nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, dành
độc lập tự do, đồng thời tiến lên làm giai cấp cách mệnh, đánh đuổi tư bản
nhằm giải phóng quần chúng nhân dân lao động.
Lực lượng cách mạng: Gồm “ sĩ, nông, công, thương”, trong đó, công-
công là chủ cách mênhj, là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn, điền chủ
nhỏ chỉ là “bầu bạn của cách mạng”.
Phương pháp cách mạng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì
vậy, phải động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng vùng lên đánh đuổi kẻ
thù.”
Vấn đề đoàn kết quốc tế : Nguyễn Ái Quốc xác định, Cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới cần được sự giúp đỡ của quốc tế
nhưng không được ỷ lại mà phải chủ động, tự cường.
Sự lãnh đạo của Đảng: Cách mạng muốn thắng lợi “ trước hết phải có
Đảng cách mệnh. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công”.

“Đường kách mệnh” đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho
việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản.
4
Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất: Ngay từ khi ra đời, giai cấp
công nhân đã đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản bằng
những hình thức tự phát như chống đánh đập, đòi tăng lương … nhưng đều
bị thất bại
Sau chiến tranh thế giwois lần thứ nhất: Cuộc đấu tranh của công nhân
diễn ra sôi nổi.
Từ năm 1919-1925 đã có hơn 25 cuộc cuộc bãi công của công nhân các
thành phố Nam Định, Hà nội…
Tư 1926 trở đi, phong trào phát triển mạnh với sự ra đời của “Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên”. Thắng 7/1929, ‘công hội đỏ” thành lập, thể
hiện bước trưởng thành của giai cấp công nhân, tạo điều kiện thúc đẩy giai
cấp công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức.
Ba là: Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
- Đông Dương Cộng sản Đảng: Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 Khâm
Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp Đại hội,
quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn,
Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa liềm và cử ra Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời của Đảng.
- An Nam Cộng sản Đảng: Trước nhu cầu của phong trào cách mạng và
với sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng, một số hội viên tiên tiến
trong bộ phận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Trung Kỳ và
Nam Kỳ vạch ra kế hoạch tổ chức đảng cộng sản. Ngày 25-7-1929, các đồng
chí trong bộ phận Việt Nam Cách mạng Thanh niên hoạt động ở Trung Quốc
gửi Đông Dương Cộng sản Đảng một bức thư thông báo rằng họ quyết định
lập một đảng cộng sản bí mật là An Nam Cộng sản Đảng.
- Đông Dương Cộng sản liên đoàn: Cùng với sự phân hoá trong Hội

Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng cũng có sự
chuyển biến mạnh mẽ.
Sự ra đời của Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929) và An Nam cộng
sản Đảng (8-1929) tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt,
những đảng viên tiên tiến đã tách ra thành lập các chi bộ cộng sản. Tháng 9-
1929, họ lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Như vậy, chưa đầy 4 tháng, ở Việt Nam đã có 3 tổ chức cộng sản ra
đời, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Nó chững
tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào yêu nước dân
tộc. Sự kiện này cũng chỉ ra rằng, những điều kiện để thành lập Đảng đã
hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nước. Yêu cầu của cách mạng nước ta
là phải hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng cộng sản thống
nhất.
Y nghĩa: Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh của
các tầng lớp nhân dân ta diễn ra sôi nổi, theo nhiều khuynh hướng khac
5
nhau: Phong kiến, tư sản... mặc dù bị thất bại nhưng đã để lại ý nghĩa lịch sử
to lớn: góp phần cỗ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân ta, là những đòn
đánh chí mạng vào kẻ thù và bọn tay sai phản động, có tác dụng làm nền
tảng để thúc đẩy các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng mới ra đời:
khuynh hướng vô sản.
Với sự hoạt động tích cực của Nguyễn Aí Quốc, cùng các phong trào yêu
nước đấu tranh theo khuynh hướng vô sản, với sự ra đời của 3 tổ chức Đảng
đã thúc đẩy sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Đó thực chất là sự chuẩn
bị về tổ chức, chính trị cho sự thành lập Đảng.
Với sự chín muồi về điều kiện, tổ chức, chính trị, ngày 3/2/1930, Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng là sự kết hợp của chủ nghĩa Mac-
leenin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Do đó, có thể nói, sự
phát triển của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ý
nghĩa quyết định trực tiếp đối với sự ra đời của Đảng cộng dản Việt Nam.

Câu 2: Vì sao nói sự lựa chọn con đường cách mạng vô
sản ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ 20 của Nguyễn Ái
Quốc là một tất yếu lịch sử?
Mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều sản sinh ra những vĩ nhân của mình,
nhưng hiếm có vĩ nhân nào mà con người, tinh thần và cuộc đời lại gắn liền
với sự nghiệp cm khăng khít như Nguyến Aí Quốc. Với tinh thần cách
mạng, với sự hoạt động bền bỉ và lòng yêu nước nồng nàn, Người đã tìm ra
con đường cứu nước cho dân tộc ta, đó là con đường cách mạng vô sản. Đây
là con đường cách mạng tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhân dân ta sôi nổi đứng lên chống
Pháp và tay sai theo nhiều khuynh hướng khác nhau: Phong kiến, tư sản…
Tuy nhiên cuối cùng đều bị thất bại. Sự thất bại của các phong trào này là do
chưa có đường lối đúng đắn và hợp lí.
Nguyễn Aí Quốc lơn lên trong cảnh nước mât nhà tan. Người rất
khâm phục tinh thần yêu nước của những người đi trước nhưng ko tán thành
con đườngđi của họ.Với chủ trương dựa vào Nhật của Phan Bội Châu,
Người cho rằng như thế chẳng khác nào: “ Đưa hổ cửa trước, rước beo cử
sau”. Còn Phan Châu Trinh lại dựa vào Pháp, chẳng khác nào: “Xin giặc rủ
lòng thương”. Chính vì thế, các phong trào này đều bị thất bại.
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới,
Người quyết định đi sang các nước Phương Tây nơi có khoa học kĩ thuật
phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do xem họ làm như thế nào để về
giúp đồng bào mình. Người tìm hiểu các cuộc cách mạng tử sản lớn trên thế
giới: Cách mạng tư sản Pháp, Cách mạng tư sản Mĩ tuy thắng lợi nhưng
6
nhân dân lao động vẫn chịu khổ sai. Nhận thức đc rằng cách mạng tư sản
chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác tinh vi hơn chứ ko
xóa bỏ áp bức bóc lột. Người cho rằng đó là cách mạng ko triệt để. Cứu
nước theo ngọn cờ của cách mạng tư sản ko phải là lối thoát. Cách mạng
tháng 10 Nga thăng lợi, đã chứng tỏ sự đúng đắn, triệt để của nó. Anh sáng

của cách mạng tháng 10 đã soi sáng con đường của Nguyến ái quốc.
Từ khi đọc bản sơ thảo lần thứ nhất luận cương về “Những vấn đề về
dân tộc và thuộc địa” của LêNin, Người đã tìm ra con đường cách mạng vô
sản. người khẳng định “ Muốn cứu nước , giải phóng dân tộc ko có con
đường nào khác ngoài con đường cách mạng Vô sản ”
Từ đó, Người tích cực hoạt động, truyền bá những tư tưởng của cách mạng
vô sản vào Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau: Viết bai cho các báo
Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân. Người viết một số tác
phẩm, đặc biệt Bản án chế độ thực dân Pháp, tố cáo tội ác của thực dân Phap
và tay sai, kêu gọi sự đoàn kết, đấu tranh của các tầng lớp nhân dân..
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại Quảng Châu
được xuất bản thành sách với tên gọi là “Đường kách mệnh”. Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về chiến
lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam:
Trước tiên, Người chỉ rõ các cuộc cách mạng tư sản là không triệt để,
chỉ có cách mạng tháng 10 Nga là triệt để nhất. Vì thế, cách mạng Việt Nam
cần phải đi theo con đường cách mạng của học thuyết Mac- lenin thì mới
thành công.
Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:Cách mạng Việt Nam
trước hết phải làm dân tộc cách mệnh, nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, dành
độc lập tự do, đồng thời tiến lên làm giai cấp cách mệnh, đánh đuổi tư bản
nhằm giải phóng quần chúng nhân dân lao động.
Lực lượng cách mạng: Gồm “ sĩ, nông, công, thương”, trong đó, công-
công là chủ cách mênhj, là gốc cách mệnh, còn học trò, nhà buôn, điền chủ
nhỏ chỉ là “bầu bạn của cách mạng”.
Phương pháp cách mạng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì
vậy, phải động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng vùng lên đánh đuổi kẻ
thù.”
Vấn đề đoàn kết quốc tế : Nguyễn Ái Quốc xác định, Cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới cần được sự giúp đỡ của quốc tế

nhưng không được ỷ lại mà phải chủ động, tự cường.
Sự lãnh đạo của Đảng: Cách mạng muốn thắng lợi “ trước hết phải có
Đảng cách mệnh. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công”.
“Đường kách mệnh” đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho
việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
7
Ngoài ra, nhờ sự truyền bá tư tưởng cách mạng của Nguyễn Aí Quốc,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã thu được nhiều kết quả to
lớn. Cuộc đấu tranh của phong trào công nhân đã có bước phát triển mới so
với trước chiến tranh thế giới thứ nhât. Hình thức đấu tranh đã trở nên phong
phú diễn ra với với quy mô lớn. Từ năm 1919-1925 đã có hơn 25 cuộc cuộc
bãi công của công nhân các thành phố Nam Định, Hà nội…
Tư 1926 trở đi, phong trào phát triển mạnh với sự ra đời của “Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên”. Thắng 7/1929, ‘công hội đỏ” thành lập, thể hiện
bước trưởng thành của giai cấp công nhân, tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp
công nhân đi dần vào đấu tranh có tổ chức
Như vậy, con đường cách mạng vô sản là con đường đấu tranh
duy nhất đúng đắn và sáng suốt cho cách mạng vIệt Nam. Cách mạng vô sản
là cuộc cách mạng triệt để nhất, đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam
và lợi ích của dân tộc. Do đó, có thể nói, sự lựa chọn con đường cách mạng
vô sản đầu thế kỷ XX của Nguyễn Aí Quốc là một tất yếu lịch sử.
Câu 3: Vì sao nói : Sự ra đời của Đảng công sản Việt
Nam (3/2/1930) chấm dứt thời kì khủng hoảng của cách
mạng Việt Nam.
Đảng CSVN là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, là
đại biểu trung thành của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Với cương
lĩnh và đường lối đúng đắn, sáng tạo của mình, Đảng CSVN đã tổ chức, lãnh
đạo mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Hơn 7 thập kỷ qua, dân tộc ta đã
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và đã giành được thắng lợi rất đáng tự hào,
đưa nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn

liên với CNXH, mở ra thời đại mới: Thời đại HCM. Những thành tựu to lớn
này đạt được là nhờ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Bởi vậy, có ý
kiến cho rằng “Sự ra đời của Đảng cộng sản việt nam(3/2/1930) đã chấm dứt
thời kì khủng hoàng của cách mạng VN”.
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và từng bước thiết lập chế độ
thống trị rất tàn bạo, và phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước
ta.Xã hội VN có những biên đổi to lớn: Từ chế độ phong kiến chuyển sang
thuộc địa nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong xã hội ngày
càng gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc Pháp
xâm lược và giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ, phong
kiến tay sai- chỗ dựa của thực dân Pháp.
8
Nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai là
không tách rời nhau. Đó là yêu cầu của cách mạng VN. Với truyền thống
yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống thực dân pháp
xâm lược và bọn phong kiến tay sai ở khắp mọi nơi dưới sự lãnh đạo của các
sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau.
Song các phong trào đấu tranh đó đều bị thất bại. Nguyên nhân chủ yếu là
chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, chưa có một lực lượng xã hội,
một giai cấp tiên tiến và một tổ chức cách mạng chặt chẽ đủ sức lãnh đạo
phong trào. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế twacs và khủng hoảng
về đường lối.
Giua lúc đó, Nguyễn Aí Quốc – người con ưu tú của dân tộc Việt
Nam ra đi tìm đường cứu nước. Sau 10 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể,
Người đã bắt gặp được chủ nghĩa Mác- Leenin và tìm được con đường cứu
nước đúng đắn. Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Đây là bước ngoặt
đánh dấu sự chuyển biến quyết định mở đường cho thắng lợi của cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Aí Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác- leenin về Việt Nam,

sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo
Thanh niên, xuất bản tác phẩm: “ Đường cách mệnh” để tuyên truyền, giáo
dục bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tiếp tục chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng
và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930, tại Quảng Châu, Trung Quốc, Hội
nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản được triệu tập dưới sự chủ trì và lãnh đạo
của Nguyễn Aí Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng lấy tên là Đảng
cộng sản Việt Nam, thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt, Điều lệ tóm tắt do Nguyễn Aí Quốc soạn thảo. Đó chính là cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Hội nghị thành lập Đảng mang ý nghĩa
lịch sử như là Đại hội thành lập đảng.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu
của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp trong thời đại mới; Là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mac- lenin với phong trào công nhân và phong trapf
yêu nước Việt Nam; Là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử; Là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư
tưởng và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng đứng đầu là Nguyễn Aí Quốc.
Sự ra đời cử Đảng cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Giai cấp công nhân
đã trưởng thành, đã đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là cột mốc lớn
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã được giải
quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, một
9
đảng Mác- lenin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo,
là cơ sở lí luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
đáo ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc
phát triển đất nước. Đảng ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp ở VN. Đảng ra đời với hệ thống tổ chức chặt chẽ và
cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt sự khủng hoảng về bộ phận
lãnh đạo cách mạng. Đảng ra đời đã lãnh đạo giai cấp vô sản và đào tạo giai

cấp vô sản trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Đảng giúp cho cách mạng VN trở thành một bộ phận của cách mạng
thế giới. Đảng đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng chính trị và hành độg
của cách mạng ở nước ta.
Qua cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, ta thấy Đảng đã lãnh đaọ
phong trào cách mạng giải quyết tình trạng khủng hoảng về cách mạng ở
VN.
Như vậy có thể nói, Đảng ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng lãnh
đạo cách mạng nước ta kéo dài hàng mấy chục năm trời. Từ đây cách mạng
Việt Nam đã có một chính đảng chân chính duy nhất lãnh đạo, chính đảng
của giai cấp công nhân. Đó là nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta để đề ra đường lối đúng đắn, đưa cách mạng nước ta
tiến lên giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vì vậy, Đảng ra đời đã
mở ra giai đoạn thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, có thể
khẳng định, Đảng ra đời là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam.
Câu 4: Phân tích vai trò quyết định của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mac-
lenin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng là
kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ của nhân dân ta, dân tộc ta,
trong đó phải kể đến công lao to lớn của Nguyến Aí Quốc. Vai trò của
Nguyễn Aí Quốc đối với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam được thể
hiện qua việc truyền bá tư tưởng, chuẩn bị về chính trị, tổ chức cho sự ra đời
của Đảng.
Vai trò quyết định của Nguyễn Aí Quốc đối với sự thành lập Đảng được
thể hiện qua việc:
Một là: Nguyễn ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng cho việc thành lập Đảng:
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối

cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo
10
lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước theo
phương hướng mới. Người đã rích cực hoạt động, viết bài cho các báo: “
Người cùng khổ”, “Nhân đạo” ( cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản
Pháp),báo “ Đời sống công nhân”, báo “ Sự thât”, “tạp chí thư tín quốc
tế”( của Quốc tế cộng sản), báo “ Thanh niên” của Hội Việt Nam cách mang
thanh niên. Viết các tác phẩm “ Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Dường cách
mệnh”. Qua nội dung các tác phẩm đó, Người đều tập trung lên án chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân nói chung và tố cáo tội ác của Thực dân Pháp.
Người vạch trần bản chất bóc lột, tàn bạo của CNTD. Đặc biệt, Người đã
trình bày các quan điểm, lý luận về cách mạng thuộc địa một cách đúng đắn,
sáng tạo và khá hoàn chỉnh, bao gồm:
CNTD là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc
địa.
Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận trong thời đại cách
mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng
nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có quan hệ khăng khít với nhau.
Giuong cao ngọn cờ chông đế quốc, giành độc lập, tự dolaf tư tưởng
chiến lược cách mạng đúng đắn của Nguyễn Aí Quốc về cách mạng thuộc
địa.
Về lực lượng cách mạng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
trong đó, Công -nông là người chủ cách mạng, là gốc cách mạng, là giai cấp
lánh đạo cách mạng. Tiểu tư sản, trí thức là bạn của cách mạng.
Phải thực hiện sự liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng
quốc tế, phải nêu cao tính chủ động cách mạng, ý thức tự lực tự cường.
Đặc biệt, cách mạng phải có Đảng lãnh đạo. Đảng phải có học thuyết

cách mạng, đó là học thuyết của chủ nghĩa Mac- lenin, phải biết vận dụng
đúng đắn học thuyết đó vào hoàn cảnh cụ thể của Việt nam.
Hệ thống quan điểm đó được truyền vào Việt Nam nhằm chuẩn bị về
tư tưởng và chính trị cho việc thành lập Đảng.
Hai là: Nguyễn Aí Quốc chuẩn bị về tổ chức cho việc thành lập
Đảng.
Giữa tháng 12 nǎm 1924, Nguyễn ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng
Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ
cách mạng cho một số nước ở Đông Nam á. Tại đây, Người đã cùng với các
nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan,
Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập ra “Hôi liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á
– Đông” để thống nhất hành động chống chủ nghĩa thực dân.
11
Tháng 6 nǎm 1925, Nguyễn ái Quốc thành lập “Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên”, nòng cốt là “cộng sản đoàn” để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bi điều kiện cho việc thành lập chính
đảng của giai cấp vô sản Việt Nam. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn
luyện, đào tạo được hơn 200 cán bộ cách mạng. Trong số này, nhiều người
được chọn đi học trường Đai học phương Đông ở Liên Xô, một số được cử
Vào học quân sự ở trường Hoàng Phố (Trung Quốc). Còn phần lớn đưa về
nước hoạt động. Người cho ra tờ báo “Thanh niên” làm cơ quan tuyên
truyền của Hội.
Hệ thống quan điểm, lý luận về con đường cách mạng của Nguyễn Aí
Quốc trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ
chức chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của
các tổ chức cộng sản Việt Nam, đó là: Đông Dương cộng sản Đảng
( 6/1929), An Nam cộng sản Đảng( mùa thu năm 1929), Đông Dương cộng
sản liên đoàn ( 1/1930).
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, hội nghị thành lập Đảng đã
được họp tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc, dưới sự chủ trì của

Nguyễn Aí Quốc. Hội nghị đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua cương
lĩnh vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt của Đảng và ra lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện được hội nghị thông qua là cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Như vậy, với sự hoạt động tích cực, miệt mài, bền bỉ của Nguyễn Aí
Quốc đã góp phần dẫn tới sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng
được thành lập là một kết quả to lớn: Kết quả của cuộc đấu tranh giai vấp và
đấu tranh dân tộc ở nước ta ; Sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mac -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ; Kết quả của quá
trình lựa chọn, sàng lọc của lịch sử và là kết hợp của quá trình chuẩn bị đầy
đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức .
Vì thế có thể nói sự ra đời của của Đảng CSVN gắn liền với tên tuổi của
Nguyễn Ái Quốc - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta .
Câu 5: Trình bày và so sánh nội dung cơ bản của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và Luận cương Tháng
Mười năm 1930 ?
Cương lĩnh chính trị và luận cương tháng 10/1930 là những văn kiện
có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đó là những văn kiện lịch sử đầu tiên của Đảng ta,
có tác dụng định hướng cho toàn bộ hoạt động cách mạng sau này. Do
những điều kiện khách quan và chủ quan nên cương lĩnh và luận cương bên
12
cạnh những nét giống nhau vẫn có nhiều điểm khác biệt. Đi tìm hiểu nội
dung cụ thể của từng văn kiện, chúng ta sẽ thấy rõ sự khác nhau đó.
Thứ nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Aí Quốc
soạn thảo. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh xác định những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam như sau:
Về đường lối chiến lược: Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế, xã hội, giai
cấp nước ta, Đảng chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.

Về nhiệm vụ của cách mạng: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa pháp và phong
kiến , làm cho đất nước VN hoàn toàn độc lập , lập chính phủ công _ nông-
binh và tổ chức quân đội công nông. Cụ thể:
Về Kinh tế: thủ tiêu các thứ quốc trái , tich thu toàn bộ sản nghiệp lớn
(công nghiệp, vận tải ) của đế quốc và giao cho chính phủ công- nông- binh
quản lí, tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc giao cho dân nghèo ,bỏ
sưu thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp, nông nghiệp,thi hành luật
ngày làm 8h.
Về văn hoá- xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức các lễ hội, thực
hiệnnam nữ bình quyền, Phổ thông giáo dục theo hướng công- nông hoá .
Về cơ bản, các nhiệm vụ trên bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ,
chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế
quốc và tay sai phản động, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Về lực lượng cách mạng:
Lực lượng để lãnh đạo và đánh đổ bọn đế quốc và phong kiến trước hết là
công- nông.
Ngoài công- nông, Đảng phải lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông.
Phải trung lập phú nông, trung- tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam. Bộ phận
nào rõ mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Về phương pháp cách mạng: Đánh đổ đế quốc, phong kiến giành chính
quyền phải bằng phương pháp bạo lực cách mạng.
Về quan hệ cách mạng VN với thế giới : cách mạng VN là một bộ phận
của cách mạng thế giới . Phải thực hiện liên minh với các dân tộc bị áp bức
và đoàn kết quốc tế .
Về lãnh đạo cách mạng : Sự lãnh đạoc của Đảng là nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai là Luận cương chính trị tháng 10_1930 do Trần Phú soạn thảo:
Về xác định tính chất và mâu thuẫn của xã hội Việt Nam , đó là mâu
thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc, trong đó nhấn mạnh mâu thuẫn giai
cấp.

13
Về phương hướng chiến lược : Cách mạng Việt Nam trải qua 2 giai đoạn:
trước hết làm tư sản dân quyền cách mạng, sau đó bỏ qua thời kỳ phát triển
TBCN, tiến thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Về nhiệm vụ: Đánh đổ phong kiến , tiến hành cách mạng ruộng đất và đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Trong
đó, luận cương nhấn mạnh nhiệm vụ phản phong, coi đó là cái cốt của cách
mạng.
Về động lực của cách mạng: đó là công- nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo.
Phương pháp cách mạng : Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường
bạo lực cách mạng, con đường khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Về đoàn kết quốc tế: cách mạng VN là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới. Đảng phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới và phải mật
thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa.
Vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng : Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định sự thắng lợi cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng
đắn , có kỉ luật tập trung , liên hệ mật thiết với quần chúng . Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản là đại biểu chung cho giai cấp vô sản Đông
Dương .
So sánh: Giống nhau:
Như vậy, qua nội dung của Cương lĩnh chính trị và Luận cương chinh trị, có
thể thấy, cả 2 văn kiện này đều đã nêu lên được những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam: Về đường lối cách mạng, phương pháp cách mạng,sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng, mối
quan hệ của cách mạng VN và cách mạng thế giới. Đây chính là những điểm
giống nhau của cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị.
Ngoài ra, có một số điểm khác biệt như sau:
Tiêu chí Cương lĩnh chính trị Luận cương chính trị

Xác định
mấu thuẫn
cơ bản
Mâu thuẫn dân tộc: Mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc ta với thực
dân Pháp.
Mâu thuẫn gai cấp
Nhiệm vụ
quan trọng
hàng đầu
Chống đế quốc Chống phong kiến( phản phong)
14
Lực lượng
cách mạng
Toàn thể nhân dân: Công-
nông- binh, tiểu tư sản, trí thức,
trung nông… trong đó công-
nông là nòng cốt.
Công-nông, trong đó, giai cấp
công nhân là lực lượng lãnh đạo.
Sở dĩ có những đăc điểm khác nhau trên là do Luận cương chưa nhận
thức đúng đặc điểm xã hội thuộc địa , nửa phong kiến đồng thời do nhận
thức giáo điều và lại chịu ảnh hưởng khuynh hướng “ tả “ của Quốc tế Cộng
sản.
Câu 6: Hãy chứng minh rằng quá trình chỉ đạo chiến
lược cách mạng Việt Nam của Đảng cộng sản Việt Nam
giai đoạn 1930 – 1945 mang tính năng động, sáng tạo,
nhanh chóng và kịp thời.
Ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng là kết
quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ của nhân dân ta. Kể từ khi ra đời

đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
đã thể hiện sự tài tình, sáng suốt của Đảng ta. Điều này có thể chứng minh
qua quá trình chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930-
1945.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng VN từ 1930_1945 đc chia làm ba giai
đoạn
Thời kỳ 1930-1939: Giai đoạn I: 1930- 1935
Những năm 1929_1933 ở các nước tư bản nổ ra một cuộc khủng hoang kinh
tế trên quy mô lớn. Thực dân Pháp tăng cường vơ vét bóc lột nước ta, vì thế
nền kinh tế nước mình sa sút nghiêm trọng. Trước tình hình đó Đảng đã
nhanh chóng , kịp thời phát triển tổ chức các cơ sở cùa mình trong các nhà
máy , xí nghiệp , khu mỏ ... ở nông thôn và thành thị
Dưới sự lãnh đạo thống nhất và sáng tạo của Đảng phong trào đấu
tranh giai cấp đã phát triên rộng rãi ba miền: Bắc - Trung- Nam.Đảng đã
phát động một phong trào đấu tranh cách mạng rộng lớn với đỉnh cao là Xô
Viết _ Nghệ Tĩnh . Phong trào đem lại cho quần chúng lòng tự tin vào sức
mạnh cách mạng của bản thân mình.
Hòng dập tắt phong trào và tiêu diệt Đảng cộng sản Đông Dương,
thực dân Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp khủng bố. Các cơ quan lãnh đạo
của Đảng ở địa phương và TW lần lượt bị phá vỡ , quần chúng bị giết hại.
Sự khủng bố vủa kẻ thù ko làm cho chiến sĩ cách mạng và quần chúng từ bỏ
15
con đường cứu nước. Những yêu cầu chính vè chính trị trước mắt cùng với
những biện pháp tổ chức và đấu tranh do Đảng vạch ra trong chương trình
hành động 1932 phù hợp với điều kiện lịch sủ kịp thời . Nhờ vậy phong trào
cách mạng của quần chúng và hệ thống tổ chức Đảng nhanh chóng khôi
phục
Tháng 3_1935 Đại hội đại biểu lần nhất của Đảng cộng sản Đông
Dương đã đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt là : củng cố và phát triển Đảng; đẩy
mạnh công cuộc vận động và thu phuc quần chúng ; mở rộng tuyên truyền

chống đế quốc,chiến tranh, ủng hộ Liên Xô
Giai đoạn 2: 1936-1939:
Để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, giới cầm
quyền một số nước tư bản đã đưa đất nước vào con đường phát xít hóa. Chủ
nghĩa phát xít là lực lượng phản động nhất, soovanh nhất, đế quốc chủ nghĩa
nhất của chủ nghĩa tư bản.Tập đoàn phát xít Nhật-Đức- Ý đã liên kết với
nhau thành “trục” ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Nguy cơ chiến tranh đang
cận kề, đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
Trước tình hình đó, tháng 7/1936, Ban chấp hành trung ương Đảng đã họp
lần thứ II, xác định đường lối và phương pháp đấu tranh trong giai đoạn mới.
Kẻ thù chủ yếu của nhân dân Đông Dương lúc này là bọn phản động thuộc
địa.
Nhiệm vụ của cách mạng: Đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa,
chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Khẩu hiệu đấu tranh: “ Tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”.
Tổ chức: Thành lập mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương.
Phương pháp đấu tranh: Công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp.
Với sự chuyển hướng đúng đắn trên đây, Đảng đã lãnh đạo phong trào dân
chủ, dân sinh 1936-1939 giành được nhiều kết quả to lớn, có ý nghĩa sâu
sắc. Sự chuyển hướng chỉ đạo này hoàn toàn phù hợp với tình hình mới của
thực tiễn lịch sử nước ta lúc bấy giờ.
Thời kỳ 1939- 1941:
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ 2 đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp
đến Đông Dương.Thực dân Pháp đàn áp khốc kiệt phong trào cách mạng do
Đảng lãnh đạo, đồng thời ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp
của để cung ứng cho cuộc chiến tranh của bọn chúng. Chiến tranh đã đặt
nước ta trước tình hình mới. Sự vơ vét, bóc lột, khủng bố của bọn đế quốc
trong chiến tranh đã đẩy mau tình thế tới một thời điểm mà giai cấp thống trị
không thể thống trị như cũ, giai cấp bị trị cũng không thể sống như cũ được.
Chiến tranh đã đặt nhiệm vụ đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai

thành nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt của cách mạng. Đảng chỉ thị cho các cơ
16
quan và cán bộ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp phải mau lẹ rút vào hoạt
động bí mật, chuyển trọng tâm về công tác ở nông thôn để tiến hành công
tác phát triển mạnh mẽ lực lượng cách mạng ở nông thôn và thành thị.
Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được thông qua tại hội nghị lần
thứ VI, Ban chấp hành trung ương Đảng. Bao gồm:
Xác định kẻ thù nguy hiểm nhất của cách mạng Đông dương không phải
là đế quốc và địa chủ phong kiến mà là Chủ nghĩa đế quốc nói chung và bọn
tay sai phản bội dân tộc.
Nhấn mạnh nhiệm vụ Giai phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng Đông Dương.
Dựa trên chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đó, chủ trương tạm gác khẩu
hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ đề ra chính sách chông địa tô cao, chống cho
vay nặng lãi và tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi
dân tộc chia cho dân cày.
Để tập trung lực lượng đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai, hội nghị chủ
trương thành lập “ Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương”, thu
hút tất cả các giai cấp, các dân tộc,các đảng phái, cá nhân yêu nước ở Đông
Dương nhằm chống đế quốc và tay sai giành độc lập.
Hội nghị trung ương 1939 đã giải quyết đúng những vấn đề chiến lược và
phương pháp cách mạng nhằm đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai. Do
đó đã đáp ứng yêu cầu bức thiết của thời kỳ chiến tranh và của cách mạng,
đồng thời góp phần xây dựng kho tàng kinh nghiệm của cách mạng dân tộc
dân chủ do Đảng ta lãnh đạo.
Thời kỳ 1941-1945:
Tình hình quốc tế và trong nước đang ở giai đơạn khẩn trương khi Pháp đầu
đầu hàng phát xít Đức, Nhật. Chỉ trong vòng 2 tháng, 2 cuộc khởi nghĩa của
Bắc Sơn và Nam Kỳ đã nổ ra. Cách mạng Đông Dương đang tiến đến
những thời cơ mới.

Nguyễn Aí Quốc đã quyết định về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc cách
mạng.Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ VIII. Nội
dung của hội nghị bao gồm:
Hội nghị nhận định: Sau khi Đức đánh vào Liên Xo thì chúng sẽ bị tiêu diệt,
cách mạng nhiều nước sẽ thành công, một loạt nước XHCN ra đời.
Xác định cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng giải phóng dân tộc, các
lực lượng cách mạng tập trung vào phát xít Nhật và thực dân Pháp.
Phát triển và hoàn chỉnh các nghị quyết năm 1939, 1940 của trung ương về
vấn đề giải phóng dân tộc, chủ trương giải phóng dân tộc trong khuôn khổ
mỗi nước Đông Dương, lập Việt Nam độc lập đồng minh.
Chủ trương giúp đỡ Lào và Campuchia xây dựng mặt trận, tiến tới tha hf lập
mặt trận thông nhất toàn thể Đông Dương.
17
Với những nội dung quan trọng của Hội nghị, đã xác định được những vấn
đề cơ bản, trước mắt của cách mạng Đông Dương. Đường lối giương cao
ngọn cờ giải phóng dân tộc ,nhận thức giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Thời cơ chín muồi, Đảng ta đã đề ra chủ trương phát động tổng khởi nghĩa
giành chính quyền
Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước và đẩy mạnh khởi
nghĩa từng phần. Đêm 9_4_1945 Nhật đảo chính Pháp độc quyền Đông
Dương. Quân Pháp đầu hàng Nhật. Ban thường vụ TW Đảng lập tức họp hội
nghị mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn _Bắc Ninh) và ngày 12_3_1945
ra bản chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau hành động của chúng ta”.
Nội dung chỉ thị bao gồm:
Xác định kẻ thù chính, trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là phát
xít Nhật, thay khẩu hiệu: “Đánh đuổi pháp- Nhật” thành khẩu hiệu “ Đánh
đuổi phát xít Nhật” và đưa ra khẩu hiệu thành lập chính quyền cách mạng
của Đông Dương.
Phát động cao trao kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề cho cuộc
tổng khởi nghĩa.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương hơn 20 triệu người
đã cùng nhau vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15
ngày 14_28/8/45 cuộc khởi nghĩa đã thành công trên cả nước
Như vậy dưới sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt, kịp thời của Đảng theo
từng giai đoạn, sự chỉ đạo chiến lược phù hợp với từng thời kỳ lịch sử, từ
năm 1930_1945, cách mạng nước ta đã từng bước giành được thắng lợi to
lớn, đưa đất nước đến với độc lập, tự do. Điều này đã thể hiện sự nhanh
nhạy, linh hoạt, sáng suốt của Đảng ta.
Câu 7: Trình bày nội dung của đường lối kháng chiến
chống Pháp mà Đảng cộng sản Việt Nam đề ra trong 3
văn kiện: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (HCM), Chỉ
thị toàn quốc kháng chiến(BTVTW Đảng), Tác phẩm
Kháng chiến nhất định thắng lợi( Trường Trinh)?
Ngày 20/12/946, chủ tịch Hồ chí minh ra “lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”. Ngày 22/12/1946, trung ương Đảng ra “ chỉ thị toàn dân kháng
chiến”. Hai văn kiện này đã nêu một cách khái quát nội dung cơ bản của
đường lối kháng chiến. Nội dung ấy được đồng chí Trường Chinh bổ sung,
phát triển trong tác phẩm: “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” năm 1947.
Nội dung đường lối kháng chiến thể hiện trong các văn kiện trên là:
18
Xác định Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp cách
mạng tháng Tám là đánh thực dân Pháp xâm lược giành độc lập và thống
nhất dấn tộc.
Xác định Tính chất kháng chiến: cuộc kháng chiến của dân tộc ta là
cuộc chiến tranh của cách mạng nhân dân ,chiến tranh chính nghĩa. Nó có
tính chất toàn dân và lâu dài. Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược là
cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập ,dân chủ và hoà bình. Là cuộc
kháng chiến có tính chất giải phóng dân tộc và dân chủ mới.
Xác định Chính sách kháng chiến : Liên hiệp với dân tộc pháp
chống phản động thực dân Pháp , đoàn kết với Miên, Lào và các dân tôc

yêu chuộng tự do ,hoà bình , đoàn kết chặt chẽ toàn dân thực hiện toàn dân
kháng chiến …phải tự cấp tự túc về mọi mặt.
Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: đoàn kết toàn dân , thực
hiện , quân trí dân nhất trí, động viên nhân lực , vật lực, tài lực thực hiện
toàn dân kháng chiến, trường kì kháng chiến . Giành quyền độc lập bảo toàn
lãnh thổ, thống ngất Trung Nam Bắc. Củng cố chế độ cộng hoà dân
chủ….tăng gia sản xuất thực hiện kinh tế tự túc.
Phương châm tiến hành kháng chiến : Tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân , toàn diện, lâu dài ,dựa vào sức
mình là chính.
Kháng chiến toàn dân: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, đánh giặc bằng bất cứ vú khí gì có trong
tay, đánh giặc ở bất cúa nơi nào chúng tới. Kháng chiến toàn dân xuất phát
từ sự so sánh lực lượng giữa ta và đich, và xuất phát từ chân lý: cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng.
Kháng chiến toàn diện: Kháng chiến trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa…trong đó quân sự là mặt trận hàng đầu, nhằm tạo sức mạnh
tổng hợp để chiến thắng kẻ thù.
Kháng chiến trường kỳ: Đánh lâu dài là vừa đánh vừa giứu gìn lực lượng,
bồi dưỡng và phát triển lực lượng, đồng thời làm tiêu hao và tiêu diệt lực
lượng địch. Qúa trình đó từng bước làm thay đổi so sánh tương quan lực
lượng giữa ta và địch theo hướng ngày càng có lợi cho ta, đánh bại từng âm
mưu và kế hoạch quân sự địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Tự lực cánh sinh: Dựa vào sức mình là chính: Do cuộc kháng chiến nhằm
mang lại độc lập cho dân tộc ta, tự do cho nhân dân ta nên trước tiên phải
dựa vào sức mình là chính nhằm phát huy tối đa nội lực của đất nước, sức
mạnh của dân tộc. Bên cạnh đó, chúng ta phải có những biện pháp tranh thủ
sự ủng hộ của quốc tế để tăng cường sức mạnh về vật chất và tinh thần cho
cuộc kháng chiến.
19

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×