Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Giải pháp thúc đẩy hoạt động bán hàng của công ty TNHH Thương mại Nam Hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.06 KB, 69 trang )

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP CUỐI KHÓA
Đề tài : Giải pháp thúc đẩy hoạt động bán hàng của
công ty TNHH Thương mại Nam Hải.
Giáo viên hướng dẫn : Th.S Đinh Lê Hải Hà
Sinh viên thực tập : Nguyễn Thị Nga
MSSV : CQ 481938
Khoa : Thương mại và kinh tế quốc tế
Lớp : Thương mại 48 D
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Đất nước ta đang trên con đường đổi mới và phát triển, nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
của nhà nước. Đặc biệt, nước ta hiện nay đã là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới WTO, nền kinh tế mở ra nhiều cơ hội hấp dẫn nhưng
cũng tiềm ẩn đầy rủi ro cho các doanh nghiệp trong nước, đồng thời mức
độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt và khốc liệt. Mọi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều phải liên hệ chặt chẽ với thị
trường, thỏa mãn nhu cầu thị trường để thỏa mãn mục tiêu cuối cùng của
doanh nghiệp là lợi nhuận. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi
các doanh nghiệp phải rất năng động và nhạy bén, điều này quyết định sự
thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì thế,
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải sản xuất loại sản phẩm
phù hợp với nhu cầu của thị trường, nhưng nếu chỉ có sản phẩm phù hợp
thì cũng chưa đảm bảo khả năng tồn tại và phát triển thành công của
doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh phải
tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình, tự hạch toán, tự tổ chức
quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đối với mỗi doanh
nghiệp, sản xuất kinh doanh phải tiến hành rất nhiều hoạt động trong đó
bán hàng là khâu mấu chốt, chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới có
thể thu hồi vốn kinh doanh thực hiện được lợi nhuận và tiếp tục mở rộng


sản xuất kinh doanh. Bán hàng trong kinh doanh được coi là hoạt động cơ
bản quan trọng trong hoạt động kinh doanh có vai trò to lớn đối với xã
hội và doanh nghiệp.
Thứ nhất, bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh cơ bản, trực tiếp thực
hiện chức năng lưu thông hàng hóa phục vụ cho sản xuất và đời sống
nhân dân, là khâu quan trọng nối liền sản xuất với tiêu dùng, đảm bảo cân
đối giữa cung và cầu đối với từng mặt hàng cụ thể góp phần ổn định giá
cả thị trường. Bán hàng là nghiệp vụ cơ bản thực hiện mục đích kinh
doanh của doanh nghiệp là lợi nhuận. Mà lợi nhuận là phần chênh lệch
giữa doanh thu và chi phí. Vậy để có lợi nhuận cao thì doanh thu bán
hàng và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn có doanh thu bán
hàng và dịch vụ lớn thì phải chiếm được khách hàng, phải bán được nhiều
hàng hóa và giảm các chi phí không cần thiết.
Thứ hai, trong kinh doanh thương mại các doanh nghiệp còn có
mục tiêu nữa là không ngừng tăng thế lực của mình. Mục tiêu của doanh
nghiệp là tăng quy mô kinh doanh cũng như thị phần trên thị trường,
trước tiên là tăng doanh số bán hàng. Điều này chỉ có thể thực hiện được
khi doanh nghiệp tổ chức hiệu quả hoạt động bán hàng.
Thứ ba, thị trường mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội hấp dẫn
nhưng cũng có rất nhiều rủi ro, doanh nghiệp cần đảm bảo an toàn trong
kinh doanh. Muốn vậy, doanh nghiệp phải giữ được doanh thu ổn định,
tăng dần theo từng năm. Do đó việc thúc đẩy hoạt động bán hàng có tính
chất quyết định tới sự tồn tại của doanh nghiệp.
Thứ tư, hoạt động bán hàng được thực hiện theo chiến lược và kế
hoạch kinh doanh đã vạch ra, hàng hóa của doanh nghiệp được khách
hàng chấp nhận, uy tín của đơn vị được giữ vững và củng cố trên thị
trường. Bán hàng là khâu hoạt động có quan hệ mật thiết với khách hàng,
ảnh hưởng tới niềm tin, uy tín và sự tái tạo nhu cầu của người tiêu dùng.
Do vậy, đó cũng là vũ khí cạnh tranh của mạnh mẽ của doanh nghiệp.
Thứ năm, trong nền kinh tế thị trường hoạt động bán hàng phản

ánh tình hình kinh doanh, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá
thông qua khối lượng hàng hóa bán ra trên thị trường và lợi nhuận doanh
nghiệp thu được qua bán hàng. Nhờ vậy doanh nghiệp mới có thể mở
rộng quy mô kinh doanh và nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Để thực hiện hoạt động bán hàng hiệu quả, doanh nghiệp phải nhận
thức được tầm quan trọng cũng như vai trò then chốt của hoạt động bán
hàng, có bán được hàng thì doanh nghiệp mới thu hồi vốn để tái sản xuất,
bù đắp chi phí đã bỏ ra và có lợi nhuận để tiếp tục sản xuất. Hoạt động
bán hàng quyết định sự tồn vong của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần
quan tâm đến hoạt động bán hàng một cách tương xứng với vai trò của
nó.
Thị trường luôn biến động, thay đổi không ngừng nên bán hàng dự
không còn là vấn đề mới mẻ nhưng nó luôn mang tính thời sự cấp bách
và là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tổ
chức và thực hiện hoạt động bán hàng một cách hiệu quả mới có thể thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng và mục tiêu của doanh nghiệp. Thực tế đã
chứng minh doanh nghiệp nào có hoạt động bán hàng hiệu quả sẽ giảm
mức thấp nhất giá cả hàng hóa vì nó giảm đáng kể chi phí lưu thông. Mặt
khác hệ thống bán hàng tốt sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển
hàng hóa, tăng nhanh vòng quay của vốn. Vậy hoạt động bán hàng là yếu
tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong
những năm qua, công ty TNHH TM Nam Hải đã có những thành tựu nhất
định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tức là cũng có những
thành tựu nhất định trong lĩnh vức bán hàng vì có bán được hàng thì công
ty TNHH TM Nam Hải mới có thể tồn tại và phát triển trong 15 năm qua.
Tuy nhiên, hoạt động bán hàng của công ty vẫn còn nhiều hạn chế ảnh
hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của công ty TNHH thương mại
Nam Hải, dự có phát triển nhưng quy mô hoạt động của công ty vẫn chưa

mở rộng nhiều, thị phần còn ít…Hoạt động bán hàng của công ty còn ít
được chú trọng và đầu tư đúng mức nên chưa phát huy được hết tiềm
năng của công ty TNHH TM Nam Hải. Do vậy, công ty TNHH TM Nam
Hải cần chú trọng hơn vào hoạt động bán hàng, khắc phục những tồn tại
để có thế phát triển hơn nữa. Vì thế, khi thực tập tại công ty TNHH TM
Nam Hải, em chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy hoạt động bán hàng của
công ty TNHH TM Nam Hải” làm đề tài cho chuyên đề thực tập cuối
khóa của mình.
2.Mục tiêu nghiên cứu :
Nghiên cứu và đánh giá thực trạng hoạt động bán hàng của công ty
TNHH Thương mại Nam Hải, tìm ra những ưu điểm và nhược điểm của
hoạt động bán hàng của công ty TNHH Thương mại Nam Hải, từ đó đề
xuất những giải pháp để thúc đẩy hoạt động bán hàng của công ty TNHH
Thương mại Nam Hải.
3.Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bán hàng của doanh
nghiệp sản xuất có quy mô nhỏ, trong đề tài này là công ty TNHH
Thương mại Nam Hải.
4.Phạm vi nghiên cứu :
Hoạt động bán hàng của công ty TNHH Thương mại Nam Hải
trong một số năm trong khoảng thời gian 15 năm từ năm 1995 đến năm
2009.
5. Cơ sở lí thuyết của đề tài nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài này, em đã tham khảo cơ sở lý thuyết của các
tài liệu sau :
• Giáo trình “ Quản trị doanh nghiệp thương mại( dành cho cao
học)”của PGS.TS Nguyễn Xuân Quang
• Giáo trình “ Quản trị doanh nghiệp thương mại của PGS. TS
Hồng Minh Đường và PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc
Trong giáo trình này, tác giả đã nhấn mạnh khi tiếp cận và nghiên

cứu về bán hàng nhằm mô tả và giải quyết nội dung một cách khoa học
thì tùy theo mục tiêu nghiên cứu nghiên cứu, góc độ tiếp cận, đối tượng
nghiên cứu ứng dụng sử dụng thuật ngữ bán hàng có thể hàm chứa những
nội dung khác nhau và rất đa dạng. Việc sử dụng thuật ngữ “bán hàng”
chung để trình bày về một đối tượng nghiên cứu có nhiều nội dung và
phạm vi khác nhau trong thực tế đã dẫn đến những quan niệm không đầy
đủ về bán hàng.
Tác giả đã đưa ra bốn cách tiếp cận với thuật ngữ bán hàng :
- Tiếp cận bán hàng với tư cách là một phạm trù kinh tế:
- Tiếp cận bán hàng với tư cách là một hành vi :
- Tiếp cận bán hàng với tư cách là một chức năng, một khâu quan
trọng, một bộ phận cơ hữu của của quá trình kinh doanh.
- Tiếp cận bán hàng với tư cách là một quá trình
Tác giả đã chỉ rõ để có thể trình bày và thực hiên tốt chức năng,
nhiệm vụ bán hàng của doanh nghiệp nên chọn tiếp cận bán hàng với tư
cách là một khâu, một bộ phận của hệ thống kinh doanh.
Từ góc độ tiếp cận này có khái niệm về bán hàng là “ Bán hàng là
một quá trình thực hiện các hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp ở tất cả các
cấp, các phần tử trong hệ thống doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận
lợi để biến khả năng chuyển hóa hình thái giá trị của hàng hóa từ hàng
sang tiền thành hiện thực một cách có hiệu quả”. Bán hàng được hiểu và
nghiên cứu với tư cách là một phần tử độc lập cấu thành trong một hệ
thống kinh doanh hoặc hệ thống tổ chức có chức năng và nhiệm vụ cụ thể
và độc lập tương đối so với các phần tử khác trong hệ thống kinh doanh,
bản thân nó lại bao gồm những phần tử nhỏ có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Nội dung của bán hàng trong trường hợp này thường được xác định
là:
Xác định các yếu tố và kế hoạch hóa hoạt động bán hàng
Thiết kế và tổ chức lực lượng bán hàng


Tổ chức thực hiện kế hoạch và quản trị lực lượng bán hàng

Phân tích, đánh giá và kiểm soát hoạt động bán hàng
Để bán được nhanh, nhiều hàng thu lợi nhuận cao thì doanh nghiệp
cần thực hiện tốt các nghiệp vụ :
Một là nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tập quán tâm lí của khách
hàng để đề ra chiến lược và kế hoạch bán hàng. Nó giúp doanh nghiệp trả
lời câu hỏi sản xuất cái gì, bán cho ai và bán bằng cách nào, đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát
triển được. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu và khả năng của doanh
nghiệp mà có thể nghiên cứu khái quát hay nghiên cứu chi tiết thị trường
từ đó cung cấp những sản phẩm mà khách hàng cần với những chính sách
thích hợp, về điều kiện cung cấp, chủng loại chất lượng của hàng hóa
nhằm đáp ứng tốt nhất cho khách hàng tại mọi thời gian và không gian
nhất định phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
Hai là xác định kênh bán và hình thức bán hàng. Doanh nghiệp
muốn có hoạt động hiệu quả thì phải lựa chọn kênh bán hàng phù hợp với
điều kiện của doanh nghiệp và nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp có
thể lựa chọn kênh bán hàng trực tiếp hoặc kênh bán hàng gián tiếp thông
qua trung gian. Có thể khái quát về các kênh bán hàng theo mô hình sau:
Người
sản xuất
hoặc nhập
khẩu
hàng hóa
Người tiêu
dùng cuối
cùng
Với các kênh bán hàng trực tiếp hàng hóa lưu chuyển nhanh, giảm
được chi phí lưu thông, quan hệ giao dịch mua bán đơn giản thuận tiện do

đó mà doanh nghiệp có thể kiểm soát các quan hệ giao dịch được nhiều
hơn, mối liên hệ với khách hàng mật thiết hơn, đặc biệt chi phí lưu thông
của sản phẩm ít hơn góp phần quan trọng hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao tính cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp. Tùy theo đặc điểm
tính chất của từng loại sản phẩm, mục đích sử dụng , khối lượng ít hay
nhiều, điều kiện giao nhận vận chuyển mà người mua và người bán thỏa
thuận với nhau trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau phù hợp với luật
pháp, chính sách và thông lệ thị trường.
Với các kênh bán hàng qua trung gian, doanh nghiệp có thể lựa
chọn kênh bán hàng một cấp hay nhiều cấp tức là kênh bán hàng có một
trung gian hay nhiều trung gian. Tuy nhiên, việc lựa chọn kênh bán hàng
có nhiều trung gian sẽ khiến cho doanh nghiệp khó kiểm soát được hàng
hóa của mình, đồng thời gia tăng chi phí lưu thông của hàng hóa, tăng giá
thành sản phẩm, gây khó khăn cho cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy,
doanh nghiệp cần phải lựa chon kênh phân phối thích hợp cho mình. Đề
làm được điều đó, doanh nghiệp cần căn cứ vào:
- Căn cứ vào bản chất của sản phẩm là hàng hóa thông
thường hay hàng hóa có tính chất thương phẩm đặc biệt,
vào tốc độ phổ biến của chu kì sống của sản phẩm hay sản
phẩm đang trải qua.
- Căn cứ vào tình hình thị trường : số lượng khách hàng, quy
mô mua sắm và chu kì mua sắm của sản phẩm.
- Chiến lược phân phối hàng hóa và giai đoạn phát triển của
doanh nghiệp.
Hình thức và phương thức bán hàng của doanh nghiệp phản ánh
mối quan hệ giữa người mua và người bán trong giao dịch mua bán,
thanh toán, vận chuyển. Thực tiễn hoạt động kinh doanh trên thế giới và
trong nước có các hình thức bán sau :
o Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có các hình
thức bán hàng sau: bán tại kho của người cung ứng, tại kho của doanh

nghiệp thương mại, bán qua cửa hàng, quầy hàng và giao tại địa diểm của
khách hàng.
o Theo khâu lưu chuyển hàng hóa có bán buôn hay bán lẻ. Bán
buôn là bán với khối lượng lớn, theo hợp đồng và không dùng tiền mặt để
thanh toán. Bán lẻ là bán cho nhu cầu nhỏ lẻ của người tiêu dùng, đáp
ứng nhu cầu kịp thời của khách hàng, thanh toán ngay. Giá bán buôn thì
rẻ hơn nhưng doanh thu lại cao hơn bán lẻ rất nhiều.
o Theo phương thức bán có bán theo hợp đồng và đơn hàng,
thuận mua vừa bán, bán đấu giá và xuất khẩu hàng hóa. Tùy thuộc vào
tính chất của hàng hóa và yêu cầu của khách hàng mà doanh nghiệp phải
kí hợp đồng và giao hàng cho khách hàng.
o Theo mối quan hệ thanh toán có mua đứt bán đoạn và sử
dụng các hình thức tín dụng trong thanh toán như bán hàng trả chậm, trả
góp…
o Hình thức bán hàng trực tiếp, bán hàng từ xa qua điện thoại,
bán hàng qua người môi giới, qua nhân viên tiếp thị và bán hàng qua
mạng internet.
Ba là phân phối hàng hóa vào các kênh bán, xác định các chính
sách và biện pháp bán hàng. Doanh nghiệp phải phân phối hàng hóa một
cách chính xác lượng hàng theo nhu cầu của thị trường với khả năng cung
cấp của doanh nghiệp với các chính sách và biện pháp bán hàng cụ thể.
Hoạt động phân phối phải tuân thủ theo các nguyên tắc : nguyên tắc hiệu
quả kinh tế tức là kinh doanh có lợi nhuận cao nhất, nguyên tắc đồng bộ,
liên tục đảm bảo được cân đối hàng hóa giữa nhu cầu của thị trường với
khả năng cung cấp của doanh nghệp, nguyên tắc ưu tiên đảm bảo đáp ứng
tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đặc biệt là khách hàng quan trọng.
Bốn là tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng nhằm tác động
vào tâm lí khách hàng tạo sự thu hút chú ý với sản phẩm của doanh
nghiệp.
Năm là thực hiện tốt các nghiệp vụ kĩ thuật bán hàng ở quầy hàng

và cửa hàng nhằm tạo sự giao tiếp chặt chẽ giữa doanh nghiệp với khách
hàng để nắm bắt nhu cầu thị trường.
Sáu là các yêu cầu đối với nhân viên bán hàng. Nhân viên bán hàng
là bộ mặt của doanh nghiệp nên họ cần có những yêu cầu nhất định phù
hợp với công việc của từng doanh nghiệp.
* Giáo trình Marketing thương mại của PGS.TS Nguyễn Xuân Quang
Tác giả đã chỉ ra những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới hoạt động bán
hàng của một doanh nghiệp được chia làm hai nhóm chính là nhóm các
yếu tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh và nhóm các yếu tố thuộc
tiềm lực doanh nghiệp.
Nhóm các yếu tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh là các
yếu tố khách quan mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên
cứu các yếu tố này nhằm tạo khả năng thích ứng tốt nhất với xu hướng
vận động của nó cho doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh tác động liên
tục tới hoạt động của doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa
tạo ra cơ hội vừa hạn chế khả năng thực hiện mục tiêu kinh doanh của
doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các môi
trường thành phần :
Môi trường văn hóa xã hội: thị trường nói chung hay thị trường của
doanh nghiệp bao gồm những con người thực và số tiền mà họ sử dụng
trong việc thỏa mãn các nhu cầu của họ, có thể hiều đơn giản thị trường =
khách hàng + túi tiền của họ. Các thông tin về môi trường này cho doanh
nghiệp có thể hiểu biết ở những mức độ khác nhau ( từ khái quát đến cụ
thể ) về đối tượng phục vụ của mình, qua đó có thể đưa ra một cách chính
xác sản phẩm và cách thức phục vụ khách hàng. Môi trường văn hóa xã
hội được đánh giá thông qua các tiêu thức như dân số ( quy mô của nhu
cầu và tính đa dạng của nhu cầu ), xu hướng vận động của dân số ( dạng
của nhu cầu và sản phẩm đáp ứng ), hộ gia đình và xu hướng vận động
( chất lượng và quy cách sản phẩm thỏa mãn nhu cầu cả gia đình ), sự
dịch chuyển dân cư và xu hướng vận động, thu nhập và phân bố thu nhập

của khách hàng ( yêu cầu về sự thỏa mãn theo khả năng tài chính ), nghề
nghiệp và tầng lớp xã hội ( yêu cầu về sự thỏa mãn nhu cầu theo địa vị xã
hội ), dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nền văn hóa….
Môi trường chính trị - luật pháp: sự ổn định về chính trị, đường lối
ngoại giao, sự cân bằng các chính sách của nhà nước, vai trò về chiến
lược phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, sự điều tiết và khuynh
hướng can thiệp của nhà nước vào đời sống kinh tế xã hội, các quyết định
bảo vệ người tiêu dựng, hệ thống pháp luật, sự hoàn thiện và hiện thực thi
hành chúng…có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bán hàng của doanh
nghiệp.
Môi trường kinh tế công nghệ : ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp rất lớn. Nó quy định cách thức doanh nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình và qua đó tạo
ra cơ hội kinh doanh cho từng doanh nghiệp. Xu hướng vận động và bất
cứ thay đổi nào của các yếu tố thuộc môi trường này đều tạo ra hay thu
hẹp cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp ở các mức độ khác nhau. Các
yếu tố quan trọng của môi trường kinh tế công nghệ là: tiềm năng của nền
kinh tế, các thay đổi về cấu trúc cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân,
tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát và khả năng điều khiển lạm phát,
hoạt động ngoại thương, xu hướng đúng mở nền kinh tế, hệ thống thuế và
mức độ hoàn thiện- thực thi, cơ sở hạ tầng kĩ thuật của nền kinh tế…
Môi trường cạnh tranh: doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
phải duy trì thị phần của mỡnh đồng thời “vượt qua đối thủ”, tạo nên môi
trường cạnh tranh trong nền kinh tế. Doanh nghiệp cần xác định cho mình
một chiến lược cạnh tranh hoàn hảo, cần phản ánh được các yếu tố của
môi trường cạnh tranh bao quanh doanh nghiệp như điều kiện chung về
cạnh tranh trên thị trường, số lượng đối thủ, ưu nhược điểm của đối thủ,
chiến lược cạnh tranh của các đối thủ.
Môi trường địa lí sinh thái: các yếu tố môi trường sinh thái không
chỉ liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của một quốc gia mà còn

liên quan đến đến khả năng phát triển bền vững của từng doanh nghiệp.
Những yếu tố cơ bản cần nghiên cứu gồm vị trí địa lí, khí hậu, thời tiết,
tính chất thời vụ, các vấn đề về cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường…
Nhóm các yếu tố thuộc tiềm lực của doanh nghiệp phản ánh các
yếu tố mang tính chủ quan và dường như có thể kiểm soát được ở một
mức độ nào đó mà doanh nghiệp cú thế sử dụng để khai thác cơ hội kinh
doanh và thu lợi nhuận. Nhóm các yếu tố bao gồm :
Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp là yếu tố tổng hợp phản ánh
sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng ( nguồn vốn ) mà
doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối ( đầu
tư ) có hiệu quả các nguồn vốn. Để đánh giá tiềm lực tài chính của doanh
nghiệp, có thể căn cứ vào các chỉ tiêu: vốn chủ sở hữu ( vốn tự có ),vốn
huy động, tỷ lệ tái đầu tư lợi nhuận, giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên
thị trường, khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn, các tỷ lệ về khả năng
sinh lợi…
Tiềm năng con người: con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để
đảm bảo khả năng thành công cho các doanh nghiệp. Chính con người
với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng cơ hội và sử dụng các sức
mạnh khác một cách hiệu quả để khai thác và tận dụng các cơ hội hấp dẫn
của doanh nghiệp. Đánh giá và phát triển tiềm năng con người trở thành
một nhiệm vụ ưu tiên mang tính chiến lược trong kinh doanh. Các yếu tố
quan trọng nên quan tâm là lực lượng lao động có năng suất, có khả năng
phân tích và sáng tạo, doanh nghiệp cần có một chiến lược con người và
phát triển nguồn nhân lực. Mục tiêu của bất cứ doanh nghiệp nào là một
đội ngũ lao động trung thành, luôn hướng về doanh nghiệp, có khả năng
chuyên môn cao, lao động giỏi, năng suất và sáng tạo, có sức khỏe, có
khả năng hòa nhập và đoàn kết tốt.
Tiềm lực vô hình ( tài sản vô hình ) tạo nên sức mạnh của doanh
nghiệp trong hoạt động thông qua khả năng bán hàng gián tiếp của doanh
nghiệp. Sức mạnh thể hiện ở khả năng ảnh hưởng và tác động đến sự lựa

chọn, chấp nhận và quyết định mua hàng của khách hàng. Tiềm lực vô
hình không tự nhiên mà có mà phải do doanh nghiệp cố gắng xây dựng
trong một thời gian dài tốn nhiều tiền bạc và công sức. Tiềm lực vô hình
của doanh nghiệp bao gồm: hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên
thương trường, mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu trên thị trường, uy tín và
mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp.
Ngoài ra, tiềm lực của doanh nghiệp còn bao gồm khả năng kiểm
soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng dự
trữ hàng hóa hợp lí của doanh nghiệp, trình độ tổ chức và quản lí của
doanh nghiệp, trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ, bí quyết
công nghệ của doanh nghiệp, vị trí địa lí, cơ sở vật chất kĩ thuật của
doanh nghiệp, mục tiêu, khả năng kiên định theo đuổi mục tiêu của ban
lãnh đạo doanh nghiệp và những người tham gia kiểm soát quản lí doanh
nghiệp.
Cũng trong giáo trình này, tác giả đã phân loại khách hàng của một
doanh nghiệp làm hai loại là người tiêu dùng cuối cùng và người tiêu
dùng trung gian. Người tiêu dùng cuối cùng là người mua sản phẩm hàng
hóa phục vụ cho hoạt động tiêu dùng cá nhân, họ là người cuối cùng tiêu
dùng sản phẩm do một quá trình sản xuất ra. Người tiêu dùng trung gian
là người mua sản phẩm dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng cho tổ chức chứ
không phải tiêu dùng cá nhân.
Người tiêu dùng trung gian bao gồm người mua công nghiệp ( liên
quan đến nhu cầu sản xuất, chế tạo ra các sản phẩm mới ) và người mua
trung gian ( thỏa mãn nhu cầu mua để bỏn ). Trong đề tài của em, em chủ
yếu nghiên cứu về người tiêu thụ trung gian là người mua công nghiệp.
Người mua công nghiệp có những đặc điểm khác so với người tiêu thụ
cuối cùng :
+ Người tiêu thụ trung gian mua hàng để thỏa mãn nhu cầu hoạt động
của một tổ chức, xuất phát từ lợi cíh của tổ chức.
+ Nhu cầu của người tiêu thụ trung gian xuất phát và phụ thuộc vào

nhu cầu của người tiêu thụ cuối cùng.
+ Số lượng và tần suất xuất hiện của người tiêu thụ trung gian ít
nhưng khối lượng và giá trị mua thường lớn hoặc rất lớn.
+ Người tiêu thụ trung gian thường xác lập quan hệ mật thiết với
nguồn cung ứng, độ ổn định và uy tín cao.
+ Quyết định mua hàng được tiến hành đa dạng và phức tạp :
- Mua hàng theo nhiều cấp: căn cứ vào giá trị hay tầm quan
trọng của đơn hàng mà việc mua hàng do cấp nào quyết
định.
- Mua theo hội đồng hay mua theo các nhân: tùy thuộc vào
tính đa dạng và mức độ phức tạp về kĩ thuật của hàng hóa,
giá trị của hàng hóa…
+ Cách thức mua đa dạng: mỗi cách mua có một yêu cầu khác
nhau…
+ Người tiêu thụ trung gian luôn có hiểu biết tốt về nhu cầu của họ,
về thị trường, về nguồn cung ứng…
Vấn đề quan trọng nhất mà những nhà cung ứng cần quan tâm là
ai là người tham gia và quyết định mua, họ ảnh hưởng tới quyết định mua
như thế nào, tiêu chí mà họ sử dụng để lựa chọn nhà cung ứng để từ đó có
những biện pháp thích hợp để chào hàng và bán hàng.
6.Phương pháp nghiên cứu đề tài :
Để nghiên cứu đề tài này, em đã sử dụng các phương pháp
- Thu thập số liệu dựng phương pháp hỏi chuyên gia .
- Phân tích thực tiễn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích,
tổng hợp
- Kết luận sử dụng phương pháp quy nạp.
7.Nội dung đề tài:
Đề tài chuyên đề thực tập cuối khóa của em là : “Giải pháp thúc
đẩy hoạt động bán hàng của công ty TNHH Thương mại Nam Hải” bao
gồm 2 chương :

Chương 1 : Phân tích thực trạng hoạt động của công ty TNHH TM
Nam Hải.
Chương 2 : Phương hướng và giải pháp thúc đấy hoạt động bán
hàng của công ty TNHH TM Nam Hải .
CHƯƠNG 1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
BÁN HÀNG CỦA CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI NAM
HẢI.
1.1.Khái quát về công ty TNHH Thương mại Nam Hải :
1.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty TNHH Thương mại
Nam Hải :
Công ty TNHH Thương mại Nam Hải là một công ty tư nhân có
quy mô nhỏ nhưng hoạt động kinh doanh khá hiệu quả. Công ty hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ bao bì.
Công ty TNHH Thương mại Nam Hải được thành lập vào ngày
20/2/1995 do ông Phạm Ngọc Dũng làm giám đốc, chuyên sản xuất các
loại bao bì giấy carton. Nhà máy sản xuất được đặt tại khu Trại Gà, huyện
Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Văn phòng đại diện được đặt trên đường Tạ
Quang Bửu, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Năm 1998, công ty TNHH Thương nại Nam Hải mở rộng lĩnh vực
kinh doanh không chỉ sản xuất bao bì giấy mà còn sản xuất bao bì nhựa
cao cấp đáp ứng được thị hiếu của khách hàng cũng như nhu cầu của thị
trường, nhà máy sản xuất bao bì nhựa được xây dựng bên cạnh nhà máy
sản xuất bao bì giấy trong khuôn viên của công ty TNHH Thương mại
Nam Hải tại khu Trại Gà.
Năm 2004, công ty TNHH Thương mại Nam Hải thành lập một
đội xe chuyên chở của công ty nhằm chủ động trong việc vận chuyển sản
phẩm của công ty cũng như nguyên vật liệu của công ty, đồng thời giảm
chi phí vận chuyển cho công ty.
Năm 2007, công ty TNHH Thương mại Nam Hải chuyển sang cổ
phần hóa, toàn bộ tài sản của công ty được định giá lại cổ phần hóa, cổ

phần được bán ưu tiên cho đội ngũ cán bộ của công ty cùng với bên ngoài
nhằm gia tăng vốn kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất cũng như cải
tiến công nghệ sản xuất, tuy nhiên bộ máy quản lí không có gì thay đổi.
Năm 2008, nhà máy sản xuất của công ty TNHH Thương mại Nam
Hải đã được chuyển vào khu công nghiệp vừa và nhỏ của huyện Từ Liêm
theo quy hoạch của Thành phố Hà Nội. Nhà máy nằm ở vị trí thuận lợi
cho việc giao dịch cũng như sản xuất, phân phối hàng hóa.
Sau đây là vài nét cơ bản về công ty TNHH thương mại Nam Hải:
Tân công ty : công ty TNHH TM Nam Hải
Tên giao dịch : Nam Hai Trading Co.,Ltd
Văn phòng giao dịch : 35 Tạ Quang Bửu – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Nhà máy sản xuất : Khu công nghiệp vừa và nhỏ huyện Từ Liêm.
Tel: 043.8370084 Fax: 84 4 7640842
Mã số thuế : 0100511135
Tài khoản ngân hàng : 431101.03.000247 Ngân hàng NN và PTNT
Nam Hà Nội
Giấy phép đăng kí kinh doanh số : 041497 do UBKH Tp Hà Nội
cấp.
Lĩnh vực kinh doanh : sản xuất bao bì carton 3 lớp, carton 5 lớp,
hộp sóng nhuyễn, hộp duplex, các sản phẩm nhựa cao cấp…
1.1.2.Cơ cấu tổ chức quản lý :
Cơ cấu tổ chức quản lí của công ty tương đối nhỏ gọn nhưng hoạt
động khá hiệu quả góp phần làm cho hoạt động kinh doanh của công ty
diễn ra nhịp nhàng, đều đặn.
Sơ đồ 1. Mô hình tổ chức của công ty TNHH Thương Mại Nam
Hải.

Giám đốc công ty TNHH Thương mại Nam Hải là người chịu
trách nhiệm hoạt động sản xuất của công ty, quản lí về tiến độ hoàn thành
các đơn hàng, về kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trước các cổ

đông của công ty và trước pháp luật.
Các phó giám đốc công ty TNHH Thương mại Nam Hải trực tiếp
quản lí các phân xưởng sản xuất, xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp với
các hợp đồng đã nhận và chịu trách nhiệm trước giám đốc về tiến độ làm
việc ở các xưởng sản xuất. Đồng thời, giám đốc và các phó giám đốc
công ty TNHH Thương mại Nam Hải bằng uy tín và các mối quan hệ xã
hội của mình đã mang về cho công ty TNHH Thương mại Nam Hải rất
nhiều các đơn hàng.
Phòng kĩ thuật tại các xưởng sản xuất của công ty TNHH Thương
mại Nam Hải phụ trách kĩ thuật trong sản xuất, trực tiếp giám sát hoạt
giám đốc công
ty
phó giám đốc1
( phụ trách xưởng bao
bì giấy)
phòng kế toán công
ty
phó giám đốc2
( phụ trách xưởng bao
bì nhựa)
phòng kĩ thuật xưởng
bao bì giấy
phòng kĩ thuật xưởng
bao bì nhựa
xưởng sản xuất bao
bì giấy
xưởng sản xuất bao
bì nhựa
văn phòng đại diện
kiêm cửa hàng giới

thiệu sản phẩm
động sản xuất tại các phân xưởng theo kế hoạch đã đề ra, trưởng phòng kĩ
thuật chịu trách nhiệm trước ban giám đốc về năng suất và chất lượng của
sản phẩm tại phân xưởng.
Phòng kế toán của công ty TNHH Thương mại Nam Hải là nơi
tổng hợp các đơn hàng của công ty, quản lí nguyên nhiên vật liệu trong
kho, theo dõi chấm công cho đội ngũ lao động tại phân xưởng…Đồng
thời phòng kế toán chịu trách nhiệm về việc hoạt động thanh toán các hợp
đồng, về vốn lưu động của công ty, các khoản chi phí sản xuất của công
ty TNHH Thương mại Nam Hải như lương, công cụ dụng cụ…theo sự
điều hành của giám đốc công ty TNHH Thương mại Nam Hải.
Văn phòng đại diện của công ty TNHH Thương mại Nam Hải là
nơi kí kết các hợp đồng cũng như làm thủ tục thanh toán hợp đồng…
Đồng thời đây cũng là cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty TNHH
TM Nam Hải. Văn phòng đại diện hoạt động dưới sự giám sát trực tiếp
của giám đốc công ty TNHH Thương mại Nam Hải.
1.1.3.Đặc điểm về lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
TNHH Thương mại Nam Hải :
a) Lĩnh vực hoạt động:
Bao bì là một loại hàng hóa trung gian có ảnh hưởng rất lớn tới
hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Bao bì không chỉ có tác
dụng bảo vệ sản phẩm mà còn đóng vai trị quan trọng trong việc xúc tiến
sản phẩm xét từ góc độ kinh doanh. Hình ảnh thiết kế trên bao bì được
pháp luật bảo vệ, tránh trường hợp bị các đối thủ cạnh tranh sao chép hay
làm giả sản phẩm. Đó là chức năng bảo vệ. Còn với chức năng xúc tiến,
bao bì có tác dụng thu hút khách hàng và tạo ra nét đặc trưng hay phong
cách riêng cho sản phẩm. Một sản phẩm, nếu đã gặt hái thành công nhất
định tại một thị trường, thì cùng với bao bì đó, sản phẩm sẽ không mấy
khó khăn để chinh phục người tiêu dùng tại những thị trường khác.
Nhận ra tầm quan trọng của bao bì sản phẩm, ngày nay, các công ty

luôn chú ý đến mẫu mã cũng như hình dáng của bao bì cũng như các
thông tin trên bao bì sản phẩm của họ để có thể tận dụng tối đa các tính
năng của bao bì:
_ Tính rõ ràng của bao bì: Bao bì phải làm cho sản phẩm có thể
được phân biệt dễ dàng đối với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Ví dụ
như : Hãng phim Konica đã sử dụng bao bì màu xanh dương ở thị trường
Âu Mỹ nhằm phân biệt với bao bì màu vàng của Kodak và màu xanh lá
cây của Fuji. Ngoài ra, bao bì của bất kỳ sản phẩm nào cũng không được
phép trùng lặp với bao bì của sản phẩm khác đã có mặt trên thị trường vì
vấn đề bản quyền bao bì sản phẩm được pháp luật bảo hộ.
_ Tính cung cấp thông tin: Bao bì phải thể hiện được thông tin tối
đa về bản chất sản phẩm, chẳng hạn như tên sản phẩm, trọng lượng, ngày
sản xuất, thành phần, điều kiện bảo quản, hướng dẫn sử dụng Đây là
những thông tin quan trọng mà khách hàng luôn muốn tìm hiểu để biết kỹ
hơn về sản phẩm họ định mua.
_Tính tạo cảm xúc cho khách hàng : Kiểu dáng bao bì phải tạo ấn
tượng và làm khách hàng ưa chuộng. Khách hàng sẽ chú ý trước tiên đến
những sản phẩm có bao bì đẹp, nhiều màu sắc, tao nhã hay pha chút gì đó
độc đáo, lạ mắt. Sức hút của bao bì thể hiện ở đặc điểm này: nó làm cho
sản phẩm có tính cạnh tranh hơn và hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng.
_ Giá trị sử dụng của bao bì: Chức năng của bao bì là vừa phải bảo
vệ sản phẩm, vừa phải hữu ích sau khi sản phẩm đã được sử dụng xong.
Đôi khi khách hàng cảm thấy tiếc, nếu sử dụng xong sản phẩm cũng là
lúc vứt đi bao bì rất đẹp và chắc chắn của sản phẩm đó. Nguyên nhân là
do bao bì không được thiết kế dành cho những công năng khác. Giá trị sử
dụng của bao bì thể hiện ở chỗ nó có thể được sử dụng vào nhiều mục
đích khác như đựng thức ăn, đồ uống, gói đồ, để lót nền, và thậm chí có
thể cả trưng bày.
Bao bì có vai trò vô cùng quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của một doanh nghiệp. Nhu cầu về sản phẩm này xuất hiện đối với tất cả

các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, tùy theo quy mô
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà nhu cầu này có thể
nhiều hay ít. Như vậy, thị trường về bao bì là rất lớn, đa dạng về nhu cầu,
phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất liệu…
Xuất phát từ nhu cầu của thị trường, công ty TNHH Thương mại
Nam Hải được thành lập vào năm 1995 hoạt động trong lĩnh vực sản xuất
và tiêu thụ bao bì. Khi mới thành lập vào năm 1995, công ty TNHH
Thương mại Nam Hải chỉ cung cấp các sản phẩm bao bì carton, nhưng
vào năm 1998 công ty TNHH Thương mại Nam Hải đã mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh, cung cấp không chỉ bao bì giấy carton mà còn
cung cấp bao bì nhựa cao cấp. Công ty TNHH TM Nam Hải chuyên sản
xuất và cung cấp các loại bao bì như : bao bì carton 3 lớp, carton 5 lớp,
hộp sóng nhuyễn, hộp duplex, các sản phẩm nhựa cao cấp Mẫu mã sản
phẩm phong phú đa dạng, chất lượng đảm bảo theo tiêu chuẩn.
Các sản phẩm của công ty được sản xuất trên dây chuyền hiện đại,
phù hợp với yêu cầu của thị trường: 02 giàn máy Xeo giấy cung cấp
nguyên vật liệu giấy đáp ứng kịp thời cho xưởng sản xuất bao bì carton,
02 giàn máy sóng sản xuất tấm carton hoạt động 24/24; khâu in và tạo
dáng hộp trên dây chuyền máy in flexco công nghệ hiện đại với tốc độ
140 hộp / phút, máy in 03 màu; máy dán hộp : đạt 80 hộp / phút; 09 máy
dập ghim : đạt 700 hộp / máy / giờ; 07 máy bế hộp ( đối với các loại hộp
có kết cấu phức tạp, nắp , tai cài );giàn dây chuyền máy in offset chuyên
sản xuất các loại hộp dupplex các loại, từ khâu in ấn đến cán lỏng, phun
UV và tạo dáng hộp trong chu trình khép kín…Công ty TNHH TM Nam
Hải là một trong số ít đơn vị sản xuất bao bì trên thị trường có thể cung
cấp nguồn nguyên liệu chính nên rất chủ động trong việc cung cấp
hàng .Với diện tích nhà xưởng khoảng 9.000 m2 và 150 lao động, nhà
máy sản xuất của công ty đạt sản lượng 950.000 sản phẩm / tháng, đảm
bảo về chất lượng sản phẩm theo đơn đặt hàng từ các khách hàng của
công ty.

b) Đặc điểm về thị trường của công ty TNHH Thương mại Nam Hải:
* Theo sản phẩm :
Công ty TNHH Thương mại Nam Hải chuyên sản xuất và cung cấp
các loại bao bì như : bao bì carton 3 lớp, carton 5 lớp, hộp sóng nhuyễn,
hộp duplex, các sản phẩm nhựa cao cấp Các sản phẩm này được sản
xuất theo mẫu mã bao bì mà khách hàng của công ty cung cấp, có kiểu
dáng, mẫu mã, thông tin riêng …theo yêu cầu cầu khách hàng.
Bao bì carton là loại bao bì tiện dụng, được yêu thích nhất và sử
dụng rộng rãi nhất trên thị trường hiện nay.
Sự biến đổi từ hộp giấy đơn giản sang các mẫu thiết kế mới lạ giúp
phân biệt sản phẩm với các đối thủ khác trên thị trường. Trong những
cách làm nổi bật thương hiệu, kết cấu bề mặt mang lại cho bao bì carton
lợi thế độc nhất so với các loại hình bao bì khác. Các chuyên gia thương
hiệu xem hình ảnh sản phẩm và ấn tượng bên ngòai là hai yếu tố quan
trọng nhất giúp bao bì có thể thu hút được sự chú ý của khách hàng, bề
mặt của bao bì carton cho phép in nhiều hình ảnh, biểu tượng giúp khách
hàng có thể dễ dàng nhận thấy sản phẩm ngay từ xa. Người tiêu dùng
thường chọn những thương hiệu dễ nhận biết, họ thường dựa trên ấn
tượng bên ngoài và thiết kế bao bì để có thể giúp họ chọn một nhãn hiệu
trong số vô vàn những sản phẩm khác. Chỉ vài giây ngắn ngủi tiếp xúc
cũng đủ để thu hút hoặc dẹp tan sự chú ý của khách hàng. Theo Wal-
Mart, người tiêu dùng phải nắm được thông điệp chính về sản phẩm qua
bao bì trong vòng 3 giây và ở cự ly khoảng 5 met. Thị trường ngày này
đòi hỏi sự khác biệt giữa các sản phẩm, do đó, mẫu mã và hình ảnh trên
bao bì đóng vai trị quan trọng trong tiếp thị tên tuổi của sản phẩm và tận
dụng tối đa không gian trưng bày vốn khá hạn hẹp ở các cửa hàng. Có thể
nói rằng bao bì giữ vị trí quyết định trong sự thành bại của một sản phẩm.
Do đó, một trong những lợi thế nổi bật của bao bì carton là hoạt động in
ấn trên bao bì rất đa dạng, phong phú đủ để đáp ứng mọi yêu cầu của
khách hàng. Bên cạnh đó những tặng phẩm kèm theo như CD hay DVD

cũng có thể được đính kèm dễ dàng càng góp phần tạo thêm ảnh hưởng
đến quyết định tiêu dùng.
Với bao bì carton các nhà thiết kế có thể tự do sáng tạo những hình
vẽ đặc sắc và mẫu mã mới lạ, độc đáo. Các nhà sản xuất bao bì hoàn toàn
đủ khả năng tạo ra bất kỳ những kiểu dáng bao bì theo đúng ý muốn
khách hàng và thích hợp với mọi thiết bị in ấn.
Đồng thời, nó còn là khả năng mang đến những giải pháp về bao bì
hữu hiệu khi đưa vào các kênh phân phối và đến với người tiêu dùng.
Carton và những chủng loại đời sau của nó dễ vận chuyển, xếp thành
chồng với số lượng lớn, lưu kho và trưng bày. Ngoài ra độ cứng của lọai
carton còn bảo vệ cho sản phẩm tránh khỏi tổn thất. Hình ảnh và chữ viết
trên giấy carton thường in đậm và sống động. Cấu trúc chắc chắn của nó
làm tăng những hiệu quả thị giác như làm nổi tem nền và ảnh ba chiều.
Mặt carton phẳng giúp scan vạch mã số và những panô rời cung cấp thêm
diện tích phổ biến thông tin. Trong khi đó các giải pháp thay thế như hộp
bằng nhựa dẻo hay plastic lại quá tốn kém, không tiện dụng và gây nhiều
khó khăn trong in ấn. Các nhà sản xuất thường lợi dụng bề mặt phẳng của
hộp carton để tạo nên những đặc điểm khác biệt cho sản phẩm của mình
và thu hút sự chú ý của khách hàng mục tiêu
Theo General Mills, hộp carton là phương tiện lý tưởng nhất để
quảng bá thông tin về sản phẩm, trên đó các nhà sản xuất có thể tự do
thêm vào vô số những đặc điểm mới như hình ảnh và trò chơi. Đây là một
đặc điểm lý tưởng đối với các sản phẩm khuyến mãi vì nó đảm bảo được
mức độ ưa chuộng của khách hàng dành cho sản phẩm trong một thời
gian dài.
Trên thực tế, khách hàng luôn bị thu hút và thuyết phục bởi những
lại bao bì hấp dẫn, bắt mắt. Nếu 75% các quyết định tiêu dùng được đưa
ra tại thời điểm bán hàng thì bao bì là một phương tiện quảng cáo hiệu
quả nhất. Bao bì carton mang lại bề mặt hoàn hảo cho ấn tượng bên ngoài
,hình ảnh sản phẩm và bảo vệ sản phẩm. Từ ý tưởng cho đến khi xuất

hiện tại không gian trưng bày, bao bì carton là yếu tố quan trọng làm tăng
tính thuyết phục của sản phẩm. Những giá trị tăng thêm từ bao bì làm cho
khách hàng dừng chân, chú ý và nhận ra được giá trị thật sự của sản phẩm
bên trong lớp bao bì.
Người ta chọn giấy làm bao bì còn do một đặc tính khác là dễ tái
chế. Khỏang 70% sợi gỗ được sử dụng để sản xuất lại thành các thăng
carton, … từ nguyên liệu tái chế.
Ngoài mặt hàng chủ lực là bao bì carton, công ty TNHH Thương
mại Nam Hải còn sản xuất sản phẩm bao bì nhựa. Bao bì nhựa của công
ty được sản xuất toàn bộ bằng nhựa nguyên sinh, đảm bảo an toàn cho
người sử dụng.
Bao bì nhựa của công ty chủ yếu là đầu vào cho sản xuất, không
phục vụ cho các hoạt động tiêu dùng cá nhân nhỏ lẻ. Các sản phẩm này
chủ yếu bao gồm các loại chai, lọ, thăng nhựa…sản xuất theo các đơn đặt
hàng. Nếu so với bao bì carton thì bao bì nhựa có giá thành đắt hơn
nhưng đối với một số mặt hàng nhất định thì bao bì nhựa là nhân tố
không thể thiếu như dầu nhờn, bia chai, nước giải khát, nước tấy rửa, chai
y tế…
Việc in ấn trên các bao bì nhựa khó khăn hơn so với bao bì carton
vì nó yêu cầu kĩ thuật cao hơn, tính phức tạp cao hơn do nó không thể có
được mặt bằng như bao bì carton, yêu cầu về mực in cũng cao hơn so với
bao bì carton. Tuy nhiên, việc in ấn trên các bao bì nhựa giảm thiểu hao
phí hơn là bao bì carton vì nó có khả năng tẩy mà bao bì carton không có.
Mặt khác, tính tái chế của sản phẩm bao bì nhựa kém hơn so với
bao bì carton. Các sản phẩm nhựa tái chế đòi hỏi công nghệ kĩ thuật
tương đối cao mà chỉ có một số nhà máy của Việt Nam mới có thế thực
hiện được. Nguồn nguyên liệu nhựa tái chế của nước ta rất nhiều nhưng
không được thu gom một cách có hệ thống nên nguồn nguyên liệu này
chưa đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất, bắt buộc nước ta phải nhập
khẩu nhựa tái chế. Không chỉ thế, các sản phẩm bao bì nhựa nếu không

được thu gom tái chế thì còn có khả năng gây ô nhiễm môi trường do nó
khó phân hủy, và có ảnh hưởng tới sức khỏe của con người nên các sản
phẩm bao bì từ nhựa tái chế này chỉ được sử dụng trong một số ngành
nhất định.
* Theo địa lý:
Thị trường của công ty TNHH Thương mại Nam Hải chủ yếu là
khu vực Hà Nội, các tỉnh lân cận và một số ít trong khu vực miền Trung.
Công ty TNHH Thương mại Nam Hải có được một danh sách các
khách hàng thân thiết như: Nhà máy bia Đông Nam Á, công ty TNHH
Dầu Nhờn Caltex Việt Nam, công ty thực phẩm Châu Á, công ty sứ
Vinax, công ty sứ Hải Dương, Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông,
Nhà máy gạch Hồng Hà, Công ty gạch ốp lát Thái Bình, nhà máy gạch

×