Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đánh giá bước đầu hiện trạng và đề xuất một số giải pháp kinh tế thị trường phát triển sản xuất chuối tiêu xuất khẩu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.53 KB, 6 trang )

ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI
PHÁP KINH TẾ THỊ TRƯỜNG PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT CHUỐI TIÊU XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM
Hoàng Bằng An
1
, Nguyễn Văn Nghiêm
1
, Hoàng Việt Anh
2
,
Lê Như Thịnh
2
, Nguyễn Hoàng Yến
2

TÓM TẮT
Để góp phần phát triển chuối tiêu phục vụ xuất khẩu, đã tiến hành điều tra ở miền Nam và miền Bắc, bao gồm các
tỉnh, thành: Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Nai, Hưng Yên, Phú Thọ, Hải Phòng với 1.000 mẫu cho các đối tượng sản
xuất, chế biến và tiêu thụ chuối nhằm đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp kinh tế thị trường phát triển chuối
tiêu xuất khẩu ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy: Hiện tại, chuối là một trong những cây ăn quả có
diện tích lớn nhất (>100.000 ha) trong các cây ăn quả ở Việt Nam, trong đó chuối tiêu chiếm khoảng 20% ở các tỉnh
miền Nam và khoảng 50% các loại chuối ở các tỉnh miền Bắc. Ngoài tiêu dùng nội địa, hàng năm Việt Nam đã xuất
khẩu chuối với giá trị kim ngạch hàng triệu đô la Mỹ. Mặc dù vậy, cây chuối vẫn không được coi là cây ăn quả chủ
lực của các địa phương và không có trong kế hoạch phát triển trên hầu hết các tỉnh, thành của Việt Nam do một số
nguyên nhân: Đầu ra không ổn định, giá bán thấp, chưa thực sự đầu tư thâm canh cây chuối, người sản xuất tự lo giải
quyết sản phẩm; các nhà xuất khẩu chuối không thực sự phối hợp với người sản xuất chuối. Bước đầu đã đề xuất một
số giải pháp về kinh tế và thị trường nhằm góp phần phát triển chuối tiêu xuất khẩu ở Việt Nam.
Từ khóa: Hiện trạng, giải pháp, phát triển chuối tiêu xuất khẩu.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1



Chuối là một trong những loại cây ăn quả phổ biến
ở Việt Nam, có giá trị kinh tế cao và tiềm năng xuất
khẩu lớn, đặc biệt là giống chuối tiêu. Tuy nhiên, cho
đến nay, việc nghiên cứu phát triển sản xuất chuối mới
chỉ tập trung vào một số giải pháp khoa học công nghệ
như bảo tồn và đánh giá nguồn gien, tuyển chọn giống
mới, nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào và xây dựng
quy trình kỹ thuật thâm canh thích hợp cho những vùng
sinh thái nông nghiệp khác nhau mà chưa chú trọng tới
các giải pháp về kinh tế và thị trường tiêu thụ. Bởi vậy
hiệu quả kinh tế của việc trồng chuối hiện còn rất thấp so
với tiềm năng.
Để đạt được mục tiêu đến cuối năm 2010 đạt 100
ngàn tấn chuối xuất khẩu với kim ngạch đạt 35 triệu
USD mà “Đề án phát triển rau quả và hoa cây cảnh đến
năm 2010, tầm nhìn 2020” của Bộ Nông nghiệp và
PTNT đặt ra, ngoài tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các
giải pháp khoa học công nghệ, cần thiết phải nghiên cứu
và đề xuất các giải pháp về kinh tế thị trường để phát
triển chuối ở Việt Nam đạt hiệu quả cao và bền vững.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Thu thập thông tin: tình hình sản xuất, chế biến,
xuất nhập khẩu chuối trong nước và trên thế giới từ các
báo cáo tổng kết kết quả nghiên cứu, từ các cơ quan
thống kê, cơ quan quản lý và sản xuất kinh doanh các
cấp. Điều tra phỏng vấn trực tiếp bằng các câu hỏi chuẩn
bị trước tại một số địa phương, doanh nghiệp, các mô
hình sản xuất kinh doanh điển hình có tính đại diện cao
về sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu chuối tiêu ở 2

miền Nam, Bắc: Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Nai, Hưng

1
TS. Viện Nghiên cứu Rau quả
2
Viện Nghiên cứu Rau quả

Yên, Phú Thọ, Hải Phòng. Ngoài ra còn sử dụng phương
pháp chuyên khảo để tìm hiểu những mô hình sản xuất
kinh doanh điển hình nhằm phát hiện ra các nhân tố mới,
tích cực có thể nhân rộng.
- Phương pháp phân tích
+ Phương pháp phân tích tài chính.
+ Phương pháp thống kê miêu tả.
+ Phương pháp thống kê so sánh.
Công cụ: sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp và
phân tích số liệu.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu chuối trên
thế giới
Theo số liệu của FAO, có khoảng 130 nước trên thế
giới sản xuất chuối, với sản lượng khoảng trên 88 triệu
tấn, trong đó 98% được sản xuất tại các nước đang phát
triển. Chỉ riêng Ấn Độ, Trung Quốc, Philippin, Braxin,
Ecuado sản xuất khoảng trên 60% tổng sản lượng chuối
thế giới. Những năm 1970-1980, các nước Mỹ La Ting
và khu vực Caribê là khu vực sản xuất chuối chính của
thế giới, thì hiện nay khu vực châu Á đã vượt lên dẫn
đầu, tiếp theo là các nước Nam Mỹ và cuối cùng là châu
Phi.

Về xuất khẩu, cũng theo thống kê của FAO năm
2006 khối lượng chuối xuất khẩu của thế giới khoảng
16,8 triệu tấn, bằng 1/5 tổng sản lượng với giá trị xuất
khẩu khoảng 5,8 tỷ USD, trong đó các nước Mỹ La Tinh
và vùng Caribê cung cấp khoảng 70% khối lượng xuất
khẩu chuối của thế giới. Có 4 quốc gia dẫn đầu xuất khẩu
chuối năm 2006 là Ecuado, Costa Rica, Philippin và
Colombia, trong đó riêng Ecuado chiếm tới 64% khối
lượng chuối xuất khẩu của 4 nước này và cung cấp tới
30% lượng xuất khẩu chuối toàn cầu.
Hầu hết chuối xuất khẩu trên thị trường thế giới là
chuối nhóm Cavendish. Hiện tại, Pêru được đánh giá là
nước có tiềm năng lớn về xuất khẩu chuối với các vùng
chuối an toàn như Tumbes, Piura và Lambayeque; 100%
chuối xuất khẩu của Pêru là chuối an toàn.
Về nhập khẩu:
- Giai đoạn 2000-2004 các nước nhập khẩu chuối
nhiều nhất là Liên minh châu Âu, Mỹ và Nhật Bản, chiếm
67% khối lượng chuối nhập khẩu của thế giới.
- Giai đoạn 2005- 2008 các nước nhập khẩu chuối
lớn là Vương quốc Bỉ, Mỹ, Đức có khoảng 17 nước
nhập khẩu chuối trên 100 triệu USD/năm.
Nguồn nhập khẩu chuối của Bắc Mỹ chủ yếu từ
Trung và Nam Mỹ, còn của Liên minh châu Âu (EU) từ
ba nguồn: thứ nhất là từ một số nước châu Âu như Tây
Ban Nha (Canary Islands), Pháp (Guadeloupe và
Martinique), Hy Lạp và Bồ Đào Nha; thứ hai từ các
nước châu Phi, vùng Caribê và Thái Bình Dương và thứ
ba là từ Trung và Nam Mỹ.
Nhật Bản cũng là thị trường nhập khẩu chuối lớn

thứ 3 thế giới. Nguồn chuối nhập khẩu chủ yếu từ
Philippin và Ecuado, chiếm tới 95% lượng chuối nhập
khẩu vào Nhật Bản trong giai đoạn 1990-2007.
2. Tình hình sản xuất, chế biến, xuất nhập khẩu
chuối của Việt Nam
a. Tình hình sản xuất
Theo số liệu thống kê chuối là cây ăn quả có diện
tích và sản lượng lớn nhất trong các cây ăn quả ở Việt
Nam. Năm 2008 diện tích chuối của cả nước là 111.728
ha, sản lượng xấp xỉ 1,603 triệu tấn.
Bảng 1: Tốc độ phát triển bình quân chuối hàng năm
phân theo địa phương
Nguồn: Tổng cục Thống kê - 2005-2009
Vùng trồng chuối lớn nhất là đồng bằng sông Cửu
Long chiếm 32,54% về diện tích và 22,92 % về sản
lượng, tiếp đến là đồng bằng sông Hồng 14,76% và
25,35%; Bắc Trung bộ 14,55% và 19,26%. Tuy nhiên,
về năng suất thì chuối trồng ở đồng bằng sông Hồng cho
năng suất cao nhất so với các vùng khác.
Các tỉnh trồng nhiều chuối nhất là: Thanh Hoá,
Nghệ An, Khánh Hoà, Đồng Nai, Sóc Trăng, Cà Mau,
với diện tích từ 3.000 - 8.000 ha; sau đó là một số tỉnh,
thành ở miền Bắc như Hải Phòng, Nam Định, Phú Thọ,
v.v khoảng dưới 3.000 ha mỗi tỉnh.
Về tốc độ phát triển bình quân về diện tích cao nhất
là Tây Bắc 8,18%/năm, nhưng về sản lượng thì vùng Bắc
Trung bộ có tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhất đạt
10,68% /năm do diện tích chuối cho thu hoạch cao hơn.
Về giống: hiện tại các địa phương vẫn sử dụng các
giống chuối tiêu truyền thống của địa phương mình. Mấy

năm gần đây giống chuối tiêu hồng đang được một số
địa phương ở các tỉnh miền Bắc như Nam Định, Hưng
Yên, Phú Thọ sử dụng thay cho các giống chuối tiêu
truyền thống. Giống Tiêu hồng có ưu điểm là cho năng
suất cao, chất lượng vượt trội các giống chuối tiêu khác
vào vụ hè; số nải trung bình 11 nải/buồng và số nải hữu
hiệu là 9, chiếm trên 80% số buồng. Trọng lượng trung
bình mỗi buồng khoảng 30 kg. Nếu so với giống chuối
tiêu đang được trồng phổ biến thì giống chuối tiêu hồng
cho năng suất cao hơn từ 1,5 đến 1,7 lần, đặc biệt, thời
gian từ khi trồng đến khi thu hoạch chỉ từ 9 đến 10
tháng, thời gian thu hoạch tập trung trong 3 đến 4 tuần.
b. Tiêu thụ chuối
Về tiêu thụ chuối ở Việt Nam chủ yếu ở dạng ăn tươi
do người sản xuất tự lo liệu. Không có những hợp đồng
giữa người sản xuất với người tiêu thụ hay sản xuất theo
kiểu liên doanh, liên kết. Tiêu thụ dưới dạng quả tươi là
chủ yếu, các sản phẩm chế biến rất ít, bao gồm chuối sấy,
kẹo chuối, bánh chuối, v.v và các sản phẩm chế biến cũng
chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, một phần rất nhỏ được
xuất khẩu sang Hàn Quốc, Ucraina, Belarut thông qua các
thương lái tư nhân. Đây là một cản trở lớn khi hình thành các
vùng sản xuất tập trung, chuyên canh quy mô lớn do không
có một tổ chức nhà nước hay cá nhân nào đứng ra lo liệu đầu
ra cho sản phẩm.
Kênh tiêu thụ chủ yếu: Người sản xuất- Người thu
gom địa phương - Người bán buôn - Chuyển đi thị
trường khác; Người sản xuất- Người bán buôn- Người
xuất khẩu; Người sản xuất kiêm bán lẻ - Người bán lẻ -
Người tiêu dùng.

Tốc độ phát triển hàng
năm giai đoạn 2004-
2008 (%)
STT Tỉnh, thành phố
Di
ện tích

S
ản l
ư
ợng

Cả nước 2,28 4,31

Miền Bắc
0,87 5,82
I Đồng bằng sông Hồng -1,34 3,63
II Đông Bắc 3,48 2,36
III Tây Bắc 8,18 5,87
IV Bắc Trung bộ 0,35 10,68
V NamTrung bộ 3,30 6,65
VI Tây Nguyên 2,28 7,92
VII Đông Nam bộ 0,01 1,57
VIII
Đồng bằng sông Cửu
Long
4,80 1,09
Bảng 2. Tiêu thụ chuối của các hộ nông dân
ĐVT: %
Miền Bắc Miền Nam Khách hàng


Địa điểm
Người
thu gom
Người
bán buôn
Người
tiêu dùng
Người
thu gom
Người
bán buôn
Người
tiêu dùng
1. Tại vườn 16,00 45,00 - 41,85 28,59 0,67
2. Điểm thu gom - 13,00 - 18,38 1,49 0,00
3. Chợ bán buôn - 19,00 - 0,00 4,97 0,00
4. Chợ bán lẻ - - 7,00 0,00 0,00 4,05
Tổng số 16,00 77,00 7,00 60,23 35,05 4,72
Nguồn : Số liệu điều tra 2008-2009
Bảng 3. Giá bán chuối bình quân
ĐVT: đồng/kg
Miền Bắc Miền Nam STT Loại chuối
Hưng Yên Hải Phòng Phú Thọ Trà Vinh Đồng Nai Tiền Giang
1 Chuối tiêu 3.752 2.420 2.770 1.640 2.040 1.620
2 Chuối tây 4.750 3.850 2.830 1.380 2.410 1.760
Nguồn : Số liệu điều tra 2008-2009
Nhìn chung giá chuối tiêu ở miền Bắc cao hơn miền
Nam do chất lượng chuối miền Bắc cao hơn, miền Nam
lại có nhiều loại quả có khả năng thay thế chuối; chuối tây

ở vụ hè do có chất lượng tốt hơn nên giá bán cao hơn
chuối tiêu.
c. Hiệu quả sản xuất chuối
Bảng 4. Hiệu quả kinh tế cây chuối tiêu (Tính cho 1ha gieo trồng)
Miền Bắc Miền Nam

STT
Chỉ tiêu

ĐVT
Hưng Yên

Hải
Phòng
Phú
Thọ
Trà Vinh Tiền
Giang
Đồng Nai
1 Thu nhập hỗn hợp (MI) 1.000đ 115.611

69.500

138.575

25.904 19.627 31.470
2 Gía trị sản xuất/ ngày LĐGĐ 1.000đ 462,58

164,87


301,0

326,23 278,23 489,12
3 Giá trị gia tăng/ ngày LĐGĐ 1.000đ 359,67

123,46

265,94

300,14 230,41 314,15
4 Thu nhập HH/ ngày LĐGĐ 1.000đ 294,98

118,00

262,95

300,07 222,22 288,34
Nguồn: Số liệu điều tra 2008- 2009
Hiệu quả kinh tế sản xuất chuối ở miền Nam cao hơn
miền Bắc, do ở miền Nam chuối trồng theo kiểu quảng
canh, đầu tư công lao động cũng như vật tư rất ít.
d. Quy hoạch và tổ chức sản xuất
Mặc dù diện tích, sản lượng chuối đứng hàng đầu
trong các loại cây ăn quả ở Việt Nam, nhưng việc quy
hoạch vùng trồng cũng như tổ chức sản xuất chuối theo
hướng sản xuất hàng hóa, tập trung lại không được quan
tâm. Hầu hết các tỉnh không có quy hoạch tổng thể cho
phát triển cây chuối. Chuối được trồng một cách tự phát
do kinh nghiệm và thói quen của người nông dân. Hiện
nay, cũng đã xuất hiện một số vùng sản xuất tương đối tập

trung theo mô hình hợp tác như kiểu hợp tác xã dịch vụ
nông nghiệp Tứ Dân, Tân Châu - Khoái Châu, Ngọc
Thanh - Kim Động - Hưng Yên. Tuy nhiên diện tích tập
trung cũng chưa đủ lớn để kéo theo sự phát triển của các
ngành dịch vụ khác.
đ. Chế biến chuối
Chế biến chuối còn rất hạn chế, sản phẩm chuối chế
biến chủ yếu là chuối sấy khô, một phần được làm thành
bánh, kẹo chuối với công nghệ chế biến chủ yếu là thủ
công. Điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đảm bảo.
Bao bì nhãn mác chưa có sức cạnh trạnh trên thị trường.
e. Xuất, nhập khẩu chuối
Chuối Việt Nam cũng đã được xuất khẩu sang khắp
các châu lục. Các nước nhập khẩu chuối của Việt Nam
nhiều là Trung Quốc, Liên bang Nga, Hà Lan, Ucraina,
Đức, Mông Cổ, Niu-Di-Lân, Mỹ, Ôxtrâylia, trong đó
Trung Quốc và Liên bang Nga là hai nước nhập khẩu
chuối từ Việt Nam nhiều nhất.
Khối lượng chuối xuất khẩu của Việt Nam còn rất
thấp so với sản lượng chuối sản xuất ra và không ổn định.
Năm xuất khẩu nhiều nhất là năm 2004 mới đạt
2.520.527 USD, năm 2005 là 1.521.594 USD, năm 2006
là 1.524.074 USD, năm 2007 giảm chỉ còn 711.271 USD;
đến năm 2008 lại tăng và đạt 1.218.393 USD. Mặc dù số
nước nhập khẩu chuối của Việt Nam giảm không nhiều,
nhưng kim ngạch xuất khẩu lại giảm mạnh, điển hình như
Liên bang Nga: năm 2006 là 689.929 USD, năm 2007 còn
97.049 USD, năm 2008 là 246.925 USD; Đài Loan năm
2006 là 66.263 USD, năm 2007 là 1.540 USD, năm 2008
là 19.340 USD; Pháp năm 2006 là 62.332 USD, năm

2007 là 1.122 USD, năm 208 là 71.650 USD; Hoa Kỳ
năm 2006 là 161.666 USD, năm 2007 là 4.666 USD, năm
2008 là 8.539 USD… Một số nước không nhập chuối của
Việt Nam từ năm 2008 mà chuyển sang nhập khẩu chuối
từ các nước khác là: Israen, Ảrập Xêút, Syri, Tiểu vương
quốc Ảrập. Điều này có thể do sức cạnh tranh của các sản
phẩm chuối của Việt Nam trên thị trường thế giới chưa
cao và đây cũng là một vấn đề lớn cần được giải quyết khi
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) từ tháng 1 năm 2007.
Đồ thị 8: Xuất, nhập khẩu chuối của Việt Nam giai
đoạn 2004-2008
225968
2520527
31130
1521594
26061
1524074
1140329
711271
2115
1218393
0
500000
1000000
1500000
2000000
2500000
3000000
USD

2004 2005 2006 2007 2008
Năm
Nhập khẩu
Xuất khẩu

Nguồn: Tổng cục Hải Quan 2004-2009
Một thực tế đang diễn ra, Việt Nam cũng nhập khẩu
chuối từ các nước trên thế giới, bao gồm chuối tươi và
chuối chế biến. Kim ngạch nhập khẩu chuối cao nhất là
năm 2007 với 1.140.329 USD từ các nước Bờ biển Ngà
621.990 USD, Ghinê Bitxao 375.084 USD, Campuchia
62.000 USD, Trung Quốc 30.082 USD đến năm 2008
kim ngạch nhập khẩu chuối chỉ còn 2.515 USD.
3. Bước đầu đề xuất một số nhóm giải pháp kinh
té và thị trường
a. Nhóm giải pháp kinh tế
+ Quy hoạch và tổ chức các vùng sản xuất chuối
tiêu tập trung
- Quy hoạch các vùng sản xuất chuối tiêu tập trung
trên cơ sở phục vụ cho từng thị trường nhập khẩu cụ thể
nhằm đáp ứng các yêu cầu đặc thù cho từng quốc gia.
Vùng quy hoạch phải ổn định ít nhất trong vòng 10 năm
để ổn định sản xuất, khai thác triệt để các đầu tư cho cơ
sở hạ tầng như điện, đường, nước đủ điều kiện áp dụng
các quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn GAP.
- Quy mô vùng sản xuất tập trung khoảng 400-500
ha, có đủ điều kiện về đất đai, nguồn nước, môi trường
sinh thái và là những vùng có truyền thống sản xuất
chuối tiêu. Các vùng được quy hoạch được đầu tư cơ sở
hạ tầng cho sản xuất theo tiêu chuẩn GAP bao gồm:

đường xá, điện, nước và các cơ sở chế biến với quy mô
nhỏ và vừa.
- Các vùng được quy hoạch phải liên kết chặt chẽ
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế về
chế biến, xuất khẩu nhằm tạo ra một chu trình khép kín
từ sản xuất, chế biến, xuất khẩu các sản phẩm chuối tiêu
thông qua các hợp đồng kinh tế.
- Các vùng được quy hoạch phải đưa người sản xuất
vào các hình thức hợp tác sản xuất theo các tổ chức HTX
tự nguyện, Hiệp hội sản xuất chuối với những quy định
hoạt động thuận tiện cho việc quản lý, hỗ trợ áp dụng các
tiến bộ kỹ thuật và xây dựng, quản lý, khai thác và phát
triển nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý và giải quyết tốt
đầu ra của sản phẩm.
+ Giải pháp tài chính
- Sản xuất chuối theo tiêu chuẩn GAP đòi hỏi chi
phí đầu tư lớn, bên cạnh việc huy động các nguồn vốn từ
các cơ sở sản xuất do người sản xuất đóng góp cũng cần
có sự hỗ trợ kinh phí tích cực của nhà nước cho các tổ
chức, cá nhân sản xuất chuối tiêu phục vụ xuất khẩu với
các hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi để xây dựng cơ
sở vật chất như đường, điện, nước với thời gian vay
trung hạn và dài hạn.
- Liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước
sản xuất, xuất khẩu chuối để huy động các nguồn vốn
đầu tư cho các vùng chuối tiêu xuất khẩu.
b. Nhóm giải pháp thị trường
+ Xây dựng mối liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ
- Tổ chức các hội nghị khách hàng, bao gồm: người
sản xuất, người kinh doanh, người chế biến, xuất khẩu

tại các cơ sở sản xuất, nhằm tạo ra mối liên kết trong quá
trình tiêu thụ sản phẩm.
- Xây dựng mối quan hệ bạn hàng lâu dài thông qua
các hợp đồng kinh tế.
+ Tham gia các triển lãm, hội chợ, hội thảo trong
nước và quốc tế nhằm tăng khả năng quảng bá sản phẩm
và tăng khả năng tiếp xúc, đàm phán với khách hàng.
+ Xây dựng, quản lý và phát triển nhãn hiệu hàng
hoá cho vùng sản xuất chuối xuất khẩu
- Tạo lập nhãn hiệu và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá;
- Xây dựng quy chế quản lý, khai thác, phát triển
nhãn hiệu hàng hoá;
- Tạo thanh danh cho sản phẩm chuối trên thị
trường.
+ Cho phép các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu
tư sản xuất, trực tiếp xuất khẩu chuối.
- Tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài trong xuất khẩu chuối;
- Tăng khả năng giải quyết đầu ra sản phẩm, nâng cao
thu nhập của người sản xuất;
- Làm cho thương hiệu chuối của Việt Nam nhanh
được nâng lên trên thị trường quốc tế.
- Góp phần giải quyết vấn đề vốn, nguyên liệu đầu
vào, chuyển giao kỹ thuật mới vào sản xuất chuối.
IV. KẾT LUẬN
Công tác quy hoạch, tổ chức sản xuất chuối theo
tiêu chuẩn GAP là những nhiệm vụ hàng đầu cho phát
triển sản xuất chuối tiêu xuất khẩu; bên cạnh đó không
thể không chú ý đến các yếu tố đảm bảo cho sản xuất
chuối tiêu xuất khẩu bền vững đó là các hỗ trợ từ phía

nhà nước và mối liên kết các doanh nghiệp trong và
ngoài nước để huy động vốn đầu tư cho sản xuất, vật tư,
kỹ thuật vào sản xuất, giải quyết đầu ra cho các sản
phẩm chuối.
Thị trường xuất khẩu chuối tiềm năng: Trung Quốc,
Nga và các nước SNG, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước
thuộc Liên minh châu Âu.
Tiêu thụ chuối vẫn do nông dân tự lo, hầu như
không có hợp đồng tiêu thụ, do vậy đầu ra không ổn
định, nếu trồng với quy mô lớn bán buôn thường bị ép
giá. Cần tổ chức tốt các hiệp hội những người sản xuất
chuối tiêu nhằm bảo vệ quyền lợi của người sản xuất khi
sản xuất với quy mô lớn tập trung.
Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để thực sự phát
triển chuối tiêu xuất khẩu

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tổng cục Thống kê. Tổng cục Hải quan
2001-2009.
2. UNCTAD Secretariat from FAO statistics 2001-
1007





INITIAL ASSESS OF ACTUALITY AND PROPOSE SOME OF MARKET AND ECONOMIC
SOLUTION IN ORDER TO PRODUCTION AND EXPORT DEVELOPMENT AROMATIC
BANANA IN VIETNAM



Hoang Bang An, Nguyen Van Nghiem, Hoang Viet Anh,
Le Nhu Thinh, Nguyen Hoang Yen
Summary

To contribute to the development objectives of bananas for export, two surveys were implemented
in the Southern and Northern Vietnam, including Tien Giang, Tra Vinh, Dong Nai, Hung Yen, Phu
Tho, Hai Phong with the 1000 samples of production, processing and consumption of bananas in
order to assess the situation and propose solutions to the market economy development of export
aromatic banana in Vietnam. Research result initially shows: At present, the banana is one first
with the largest area (>100,000 ha) of the fruit in Vietnam, in there aromatic banana make up more
than 20% in the Southern Vietnam and about 50% in the North. Beside domestic consume, annual
Vietnam has export turnover of bananas worth millions of dollars. However, banana trees is not
considered the main fruit of the localities and not in the plan to develop the most provinces of
Vietnam. Because some of reasons are: the output is not stable, low price, not really investment-
intensive cultivation, banana producers self solving products; banana exporters do not really
coordinate with producers banana. Initially, some solutions to economic and market were proposed
in order to contribute to the development of export aromatic banana in Viet Nam.
Keywords: Initial, solution, development of aromatic banana export

×