Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Khái quát quá trình phát triển ngành đóng tàu Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.63 KB, 14 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu:
Việt Nam có đường bờ biển dài,rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển,trong đó có ngành
đóng tàu.Nhận thức được vấn đề này,những năm gần đây Việt Nam đã tập trung đầu tư
mạnh phát triển ngành đóng tàu với mục tiêu đưa nước ta trở thành cường quốc về đóng tàu
đứng thứ tư thế giới vào năm 2010.Bên cạnh những thành tích phát triển rất đáng tự hào có
một thực tế tồn tại là tỷ lệ nội địa hoá trong ngành đóng tàu hiện nay đạt rất thấp chỉ khoảng
15-30%,hầu hết các công đoạn đòi hỏi trình độ cao như:thiết kế,giám sát và KCS do nước
ngoài đảm nhận,các thiết bị tàu biển hiện đại đều do nước ngoài sản xuất và phải nhập
ngoại,làm cho giá trị gia tăng trên mỗi con tàu đóng ra không cao.
Nâng cao tỷ lệ nội địa hoá đang là vấn đề đạt ra bức xúc nhất của ngành đóng tàu
Việt Nam hiện nay. Để nâng cao được tỷ lệ nội địa hoá đạt 60% vào năm 2010 đòi hỏi
ngành đóng tàu phải có những bước đi và hệ thống giải pháp phù hợp nhằm phát huy các
nguồn lực trong nước thay thế cho nhập ngoại.
Với trình độ hiểu biết về kinh tế công nghiệp và chuyên ngành đóng tàu hạn chế, đề
án còn nhiều hạn chế thiếu xót.Đề án khái quát quá trình phát triển ngành đóng tàu Việt
Nam,nhìn nhận thực tế nội địa hoá Việt Nam,từ những điều kiện và yêu cầu nội địa hoá đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hoá.
1.Tổng quan về ngành đóng tàu Việt Nam
1.1.Khái quát quá trình phát triển ngành đóng tàu Việt Nam
Điểm xuất phát ban đầu của Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu,phân tán,
sản xuất nhỏ mang nặng tính tự cung tự cấp.Có thể nói rằng công nghiệp Việt Nam nói
chung và ngành đóng tàu nói riêng có xuất phát điển từ chỗ không có gì, đến nay ngành
đóng tàu phát triển rất mạnh.Quá trình phát triển ngành đóng tàu Việt Nam có thể chia thành
các thời kỳ sau:
• Thời kỳ Pháp thuộc
Ngành đóng tàu ra đời phục vụ cho nhu cầu sửa chữa tàu biển của thực dân
Pháp.Thời kỳ này thực dân Pháp cho xây dựng một số nhà máy sửa chữa như Ba Son ở Sài
Gòn và Bạch Đằng ở Hải Phòng.Các nhà máy này nằm dưới sự quản lý của Pháp,quy mô
nhỏ bé,toàn bộ máy móc thiết bị nguyên vật liệu đều nhập từ nước ngoài,chỉ dừng lại ở việc
sửa chữa nhỏ các tàu biển của Pháp gặp sự cố khi đang hoạt động tại Việt Nam.Tuy nhiên


chính những nhà máy này là những hạt nhân đầu tiên cho sự phát triển của ngành đóng tàu
Việt Nam sau này.
•Thời kỳ kháng chiến chống thựcdân Pháp(1945-1954)
Thời kỳ này do ảnh hưởng của chiến tranh việc phát triển ngành đóng tàu không
được chú ý tất cả nguồn lực công nghiệp đều phục vụ cho kháng chiến.Các nhà máy sửa
chữa tàu phía Bắc nằm dưới sự quản lý của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chuyển
sang sản xuất sửa chữa một số loại vũ khí phục vụ chiến tranh.Các công nhân và thiết bị
phục vụ đóng tàu trước đây được huy động vào phục vụ chiến tranh.Các nhà máy sửa chữa
tàu phía Nam nằm dưới sự quản lý của thực dân Pháp về cơ bản không có gì thay đổi so với
trước.
•Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước(1954-1975)
Thời kỳ này, đất nước tạm thời chia cắt thành hai miền,theo đó ngành đóng tàu cũng
phát triển thành hai bộ phân độc lập nhau.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở miền Bắc,tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,ngành đóng tàu rất được chú trọng
đầu tư phát triển để phục vụ cho nhu cầu vận chuyển hàng hóa nội địa và vận chuyển hàng
hoá quốc tế giữa Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.Với sự giúp đỡ kỹ thuật
của các nước xã hội chủ nghĩa anh em,ngành đóng tàu phía Bắc đã đạt được một số phát
triển đáng gi nhận so với trước.Năm 1967,con tàu biển đầu tiên do Việt Nam đóng đã ra đời
tại nhà máy đóng tàu Bạch Đằng mang tên 20-7 do Trung Quốc thiết kế,giám sát.Tàu có
trọng tải 2000 tấn, được trang bị máy chính là động cơ hơi nước.Mặc dù con tàu này có
nhiều han chế về kỹ thuật nhưng sự ra đời của nó đã đánh dấu sự ra đời thực sự của ngành
đóng tàu Việt Nam.Tuy nhiên với nguồn lực trong nước rất hạn chế,ngành đóng tàu miền
Bắc trong giai đoạn này không thể phát triển hơn được.
Ở miền nam do Mỹ ngụy kiểm soát,các ngành công nghiệp phát triển theo định
hướng phục vụ chiên tranh,phục vụ hậu cần cho quân đội Mỹ và hàng tiêu dùng thông
thường cho dân cư.Ngành đóng tàu cũng được đầu tư phát triển phục vụ cho nhu cầu vân tải
hàng hoá và phục vụ chiến tranh.Ngành đóng tàu phía Nam cũng có sự phát triển trong giai
đoạn này nhưng chỉ dừng lại ở đóng tàu trọng tải nhỏ và sửa chữa tàu.Chưa thực sự phát

triển thành ngành đóng tàu mạnh vì máy móc thiết bị vẫn phải nhập từ nước ngoài.
• Thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế sau khi thống nhất đất nước(1975-1985)
Thời kỳ này đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh hậu quả để lại rất nặng nề,các
nguồn lực trong nước đầu tư cho phát triển đóng tàu hạn chế. Đặc biệt Liên Xô và các nước
Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng ngày càng sâu sắc cả về kinh tế và chính trị.Sự
giúp đỡ từ bên ngoài giảm sút nghiêm trọng làm cho các cơ sở sản xuất thiếu nguyên vật liệu
và phụ tùng thay thế.Ngành đóng tàu không thể phát triển được,chỉ dừng lại đóng tàu trọng
tải dưới 2000 tấn vừa phục vụ vận tải đường sông vừa vận tải đường biển.Tuy nhiên trong
giai đoạn này Việt Nam cử rất nhiều sinh viên sang Liên Xô và các nước Đông Âu để đào
tạo về chuyên ngành đóng tàu ,chính những người này trở thành chuyên gia đầu ngành về
đóng tàu của Việt Nam sau này.
Có thể nói cùng với tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất nước,ngành đóng tàu cũng bị
đình đốn,hoạt động cầm chừng,không phát triển hơn so với giai đoạn trước.
•Thời kỳ đổi mới(1986 đến nay)
Thời kỳ đổi mới nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ kéo theo sự gia tăng
mạnh xuất nhập khẩu,trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và các nước, đặc biệt là bằng đường
biển đã thổi luồng sinh khí mới vào ngành đóng tàu,tạo ra môi trường thuận lợi cho ngành
đóng tàu Việt Nam phát triển.Nhu cầu vận chuyển đường biển tăng mạnh kéo theo đó là sự
ra đời của các công ty vận tải đường biển như: Vinalines,Vosco,Vinaship... Đội tàu vận tải
biển phát triển mạnh làm tăng nhu cầu sửa chữa và đóng mới tàu biển tạo ra môi trường rất
thuận lợi cho ngành đóng tàu phát triển.
Giai đoan 1986-1996 là giai đoạn đóng tàu Việt Nam tích lũy về vốn và công
nghệ,giai đoạn này ngành đóng tàu tập chung vào sửa chữa tàu biển phục vụ cho vận tải
đường biển, đóng các tàu có trọng tải nhỏ phục vụ cho vận tải các chuyến nội địa. Để tích
luỹ về công nghệ đóng tàu rất nhiều công nhân kỹ sư và sinh viên tiếp tục được cử sang Nga
và các nước có ngành đóng tàu phát triển hàng đầu thế giới như Nhật Bản để học hỏi về kỹ
thuật,công nghệ đóng tàu.Trong giai đoạn này rất nhiều nhà máy đóng tàu ra đời : Sông Cấm
,Bến Kiền ,Nam Triệu…Ở phía Nam cũng có rất nhiều xưởng đóng tàu ra đời như: Nhà máy
đóng tàu phía Nam...Hầu hết các xưởng đóng tàu này có quy mô nhỏ,không có khả năng
đóng tàu trọng tải lớn.

Giai đoạn 1996 tới nay với sự đầu tư mạnh mẽ của chính phủ có thể nói ngành đóng
tàu phát triển vượt bậc,trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Để tổ chức lại
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngành công nghiệp tàu thủy Việt Nam,Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam được
thành lập theo Quyết định số No 69/TTg do Thủ tướng Chính phủ và ban hành ngày 31-01-
1996.Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) hiện có 40 đơn vị thành viên
gồm 29 đơn vị hạch toán độc lập,7 đơn vị hạch toán phụ thuộc,4 đơn vị liên doanh,trong đó
có liên doanh HYUNDAI-VINASHIN là lớn nhất với vốn đầu tư 160 triệu USD;có năng lực
vào ụ sửa chữa cho các loại tàu đến 400.000 DWT.Ngành đóng tàu Việt Nam có khả năng
cạnh tranh giành các hợp đồng đóng tàu của các nước châu Á.Hiện nay,Vinashin có trong
tay 6 tỷ USD hợp đồng đóng mới tàu biển đứng hàng thứ tám thế giới, đủ việc làm tới
2012.Trong nước,Vinashin cũng ký hợp đồng đóng kho nổi chứa đầu và 2 tàu chở đầu thô
105.000 tấn cho Tập đoàn đầu khí .Mới đây,Vinashin cũng ký hợp đồng đóng mới 15 chiếc
tàu trở hàng rời trọng tải 53.000 DWT với Graig Invesment của Vương quốc Anh, đã bàn
giao được 2 chiếc.Việt Nam đã chế tạo và đóng các loại tàu có chất lượng đạt tiêu chuẩn
Quốc tế như tàu chở hàng 6.500 tấn,12.500 tấn,53.000 tấn,100.000 tấn,tàu chở dầu 13.500
tấn,tàu chở Container 1.016 TEU đến 1.700 TEU và các loại tàu cao tốc 30 hl/h,tàu dịch vụ
nghề cá…Mục tiêu doanh thu đóng tàu đạt 2,6 tỷ USD vào năm 2010.
Những kết quả trên cho thấy sự trưởng thành nhanh chóng của ngành đóng tàu .Tuy nhiên có
một thực trạng đặt ra là các nhà máy đóng tàu của Việt Nam có quy mô còn nhỏ so với thế
giới ,trình độ công nghệ lạc hậu ,không có khả năng đảm nhận những đơn hàng lớn có thời
hạn giao hàng nhanh .Tỷ lệ nội địa hóa của ngành đạt thấp,chưa thực sự làm chủ được công
nghệ đóng tàu,còn phụ thuộc nhiều vào chuyên gia nước ngoài,máy móc thiết bị vật tư tàu
thuỷ còn phải nhập ngoại làm cho giá trị gia tăng trên mỗi con tàu đóng ra không cao.Những
tồn tại trên cho thấy ngành đóng tàu Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm trong thời gian
tới.
1.2.Khó khăn và thuận lợi đối với ngành đóng tàu Việt Nam trong những năm
tới.
Ngành đóng tàu được cho là có rất nhiều khó khăn và thuận lợi nhất là trong bối cảnh

Việt Nam vừa hội nhập vào sân chơi WTO.
1.2.1.Khó khăn
Ngành đóng tàu Việt Nam tuy đã có truyền thống lâu đời nhưng hiện nay đang ở trình
độ thấp hơn so với các nước có ngành đóng tàu phát triển mạnh trong khu vực như Nhật Bản
,HànQuốc và TrungQuốc.Ngành đóng tàu sẽ gặp khó khăn khi phải cạnh tranh với các nước
trên trong việc giành các hợp đồng đóng mới tàu biển.Ngành đóng tàu đang gặp một số khó
khăn chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: hệ thống cảng biển phát triển không đồng bộ với sự phát triển của ngành
đóng tàu.Xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại là điều kiện đầu tiên để phát triển các ngành
kinh tế biển trong đó có ngành đóng tàu.Những cảng trọng điểm quốc gia Việt Nam hiện nay
có cảng Cái Lân,Hải Phòng-ĐìnhVũ,Cửa Lò,Tiên sa-Đà Nẵng,Quy Nhơn,Nha Trang,Dung
Quất,Sài Gòn,Thị Vải và cảng Cần Thơ.Hệ thống cảng biển Việt Nam hiện nay phát triển
khá tủn mủn vì vậy không có tác dụng hỗ trợ phát triển đóng tàu.Việt Nam muốn quy hoạch
các trung tâm đóng tàu lại phải đầu tư xây dựng hệ thống cảng biển.
Thứ hai: các ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành đóng tàu không phát triển. Đóng
tàu là ngành công nghiệp khá tổng hợp ,sử dụng sản phẩm của rất nhiều ngành như :cơ khí
chế tạo máy, điện tử,sơn,vật liệu hàn…làm đầu vào.Chính vì vậy thiếu các ngành công
nghiệp phụ trợ là khó khăn rất lớn của ngành.
Thứ ba: Những năm gần đây ngành đóng tàu Việt Nam phát triển rất nhanh với tốc
độ khoảng 40%/năm, để đáp ứng tốc độ tăng trưởng này đòi hỏi một lượng nhân lực bổ
xung hàng năm rất lớn.Thực tế hiện nay nhân lực đóng tàu đang thiếu cả về số lượng và chất
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lượng .Ngành đang thiếu nhân lực chất lượng cao đặc biệt trong các khâu đòi hỏi kỹ thuật
cao như thiết kế.Với sự thiếu hụt này ngành không thể tiến hành đổi mới nâng cấp công
nghệ đóng tàu,gây cản trở lớn tới sự phát triển .
Thứ tư:Ngành đóng tàu là ngành công nghiệp nặng đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn.Với
thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay việc thiếu vốn đầu tư phát triển ngành đóng tàu là
không tránh khỏi.Thiếu vốn đầu tư phát triển trong những năm tới đang là khó khăn rất lớn
đặt ra.

1.2.2.Thuận lợi
Bên cạnh những khó khăn trên ngành đóng tàu Việt Nam cũng có rất nhiều thuận lợi
phát triển.
Ngành đóng tàu được chọn làm ngành công nghiệp trọng điểm ưu tiên phát triển của
Việt Nam. Đồng nghĩa với nó là vị trí ưu tiên trong chính sách phát triển các ngành công
nghiệp trong giai đoạn tới của Chính Phủ.Hàng năm đóng tàu nhân được rất nhiều vốn dành
cho đầu tư phát triển từ nhà nước. Đây là một thuận lợi rất lớn nhưng cũng là áp lực thúc
đẩy ngành phát triển.
Xu hướng hợp tác phân công lao động quốc tế trong ngành đóng tàu hiện nay cũng
tạo ra cơ hội cho ngành phát triển.
Việt Nam có giá nhân công rẻ đây là thuận lợi rất lớn cho ngành đóng tàu trong cạnh
tranh với các nước như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Nhu cầu nội địa của Việt Nam dự tính tăng mạnh trong những năm tới.Nhu cầu nội
địa dự tính:
Bảng 1:Dự báo số tàu thuyền tăng thêm trong giai đoạn 2001-2010 và 2020
Tàu thuyền 2001-2010 2001-2010 2010-2020 2010-2020
chiếc triệu tấn chiếc triệu tấn
Tàu chở
hàng
229 1.65 284 2.1
Tàu công
ten-ner
28 0.47 58 1
Tàu chở dầu 37 1.11 43 2
Bảng 2:Dự báo số tàu chở khách tới giai đoạn 2005-2010.
Tàu thuyền 2005 2010
Đường biển 59 79
Đường sông 522 650
Tổng số 581 729
4

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với nhu cầu nội địa tăng mạnh sẽ tạo ra thị trường ổn định cho ngành đóng tàu phát
triển trong những năm tới.
1.3.Chiến lược phát triển ngành đóng tàu Việt Nam những năm tới
Chương trình Phát triển ngành Đóng tàu Việt Nam đã đề ra các mục tiêu chính của chương
trình phát triển gồm ba giai đoạn thực hiện như sau:
Giai đoạn 2002 -2005:
- Nâng cấp và đổi mới công nghệ tại các nhà máy đóng tàu hiện tại: Hạ Long, Nam Triệu,
Bến Kiền, Bạch Đằng, Phà Rừng, Nhà máy đóng tàu Sài gòn để nâng cao năng lực sửa chữa
và đóng mới.
Các nhà máy đóng tàu trong tương lai sẽ có khả năng đóng mới những tàu thuyền lớn, tàu
công-ten-nơ và tàu chở dầu trọng tải 12.000 DWT và sửa chữa tàu thuyền trọng tải 20.000
DWT và đặc biệt là 400.000 DWT tại liên doanh Huyndai-Vinashin.
- Hình thành một khu công nghiệp hỗ trợ trong liên doanh với đối tác nước ngoài nhằm sản
xuất thép tấm và lắp ráp động cơ diezel 6000 CV và các thiết bị hàng hải trên tàu khác.
Giai đoạn 2006 -2010:
- Tiếp tục nâng cấp Nhà máy Đóng tàu Nam Triệu để tăng cường năng lực sửa chữa và đóng
mới tàu công-ten-nơ lên 50.000 DWT mỗi tàu.
- Hình thành các nhóm các nhà máy đóng tàu ở Dung Quất, Đồng Nai và Cà Mau, trong đó
các xưởng đóng tàu ở Dung Quất sẽ sửa chữa và đóng mới tàu chở dầu trọng tải tới 100.000
DWT, ở Đồng Nai đóng mới tàu thuyền và tàu chở dầu trọng tải 30.000 DWT.
Giai đoạn 2010 -2020:
- Dần dần di dời các nhà máy đóng tàu nằm ở trong thành phố Hải Phòng, thành phố Hồ Chí
Minh và Đà Nẵng ra các khu công nghiệp ngoại ô thành phố.
Ngoài kế hoạch cải tạo và xây mới các nhà máy đóng tàu trên toàn quốc, ngành đóng tàu
cũng đang xây dựng một chiến lược nhằm dần dần cải thiện chất lượng đào tạo và các dịch
vụ liên quan. Chiến lược này ưu tiên:
Xây dựng một trung tâm mô hình tàu thủy quốc gia để phục vụ mục đích nghiên cứu.
Hiện đại hóa công tác thiết kế và hệ thống kiểm soát quản lý cũng như xây dựng một website
chính thức của ngành đóng tàu Việt Nam.

Cộng tác với các trường đại học trong và ngoài nước để hình thành một trung tâm đào tạo
đội ngũ cán bộ và nhà nghiên cứu hàng hải nhằm đảm bảo nguồn nhân lực bền vững và lâu
dài cho ngành.
Hợp tác với các đối tác nước ngoài trong đào tạo công nhân hàng hải để phục vụ công cuộc
hiện đại hóa ngành đóng tàu.
Đặc biệt kế hoạch năm năm 2006-2010 sẽ đẩy mạnh đầu tư với số vốn lên đến 3 tỷ
USD, nhằm đầy nhanh tốc độ phát triển của ngành trong giai đoạn này .Một số mục tiêu chủ
yếu của kế hoạch này bao gồm: (1) Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia đóng tàu mạnh trong
khu vực và thế giới, bên cạnh các cường quốc đóng tàu hiện nay là EU, Nhật Bản, Hàn
Quốc, và Trung Quốc; (2) Nâng tỷ lệ nội địa hóa từ khoảng 15% hiện nay lên 60%; (3) Nâng
mức sản lượng từ 300.000 tấn tàu lên 3 triệu tấn vào năm 2010(chưa bao gồm liên doanh
HYUDAI-VINASHIN) và chiếm khoảng 6-7% thị phần đóng tàu thế giới (mục tiêu năm
2015 là 5 triệu tấn, chiếm khoảng 10% thị phần). Khi đó, quy mô của Vinashin bằng ba phần
tư quy mô của Hyundai, hãng đóng tàu lớn nhất thế giới hiện nay.
5

×