Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận môn triết học KHÁI QUÁT VỀ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.74 KB, 11 trang )


TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
KHÁI QUÁT VỀ TRÀO LƯU “TRIẾT
HỌC KHOA HỌC”
Giảng viên phụ trách: TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên thực hiện: Hồ Văn Linh
Mã số học viên: CH1301020
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 08/2014

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG ĐÀO TẠO SĐH-KHCN&QHĐN
  
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
Giới thiệu đề tài
Khoa học hiện đại có những đóng góp to lớn vào đời sống xã hội con người.
Nhưng khoa học là gì và có phải chỉ có một hay là có nhiều nền khoa học khác
nhau tùy thuộc vào vũ trụ quan của một nền văn hóa hay một nền tảng triết học
mà các nhà hậu hiện đại đã đặt ra.
Triết học khoa học nghiên cứu về quy luật và tính hợp lý của sự phát triển của
khoa học. Trong bối cảnh cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ,
giới triết học hiện đại rất quan tâm khai thác lĩnh vực này. Khuynh hướng lý luận
cơ bản của nó là phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc, dưới ảnh hưởng trực tiếp
của triết học hậu phân tích, chú trọng vận dụng quan điểm chỉnh thể luận, liên hệ
chặt chẽ với các nhân tố lịch sử và văn hóa xã hội, nghiên cứu trong trạng thái
động quá trình lịch sử của sự phát triển khoa học và kết cấu nội tại của nó. Triết
học khoa học cũng là bộ môn triết học nghiên cứu các giả định, các cơ sở, và các
ý nghĩa về mặt triết học của khoa học. Triết học khoa học có thể được chia thành
hai lĩnh vực chính: Nhận thức luận và siêu hình học trong khoa học.
Bài này có mục đích tóm tắt quá trình lịch sử triết học khoa học và những vấn đề


khúc mắc tồn tại từ thời Khai sáng đến nay và sẽ tập trung vào các nội dung
chính sau:
- Phác họa tổng quan về triết học khoa học
- Từ thực nghiệm quy nạp (induction) đến chủ nghĩa thực chứng lôgic
- Triết học phản nghiệm của Karl Popper
- Triết học Thomas Kuhn
- Từ Lakatos đến Feyarabend
- Hậu hiện đại (postmodernism) và chủ thuyết tương đối (relativism) trong
“chiến tranh khoa học”
2
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
1. Tổng quan
Khoa học ở Tây phương phát xuất và bùng nổ mạnh từ cuộc tranh đấu giữa tôn
giáo và các “triết gia thiên nhiên” (natural philosophers) trong thời Khai sáng.
Chỉ từ thế kỷ 19 mới có các từ “khoa học” và “khoa học gia”(scientist) (do
William Whewell đặt ra) như ta hiểu hiện nay.
Francis Bacon là người hệ thống hoá và kêu gọi vận dụng triết lý thực nghiệm
làm nền tảng cho kiến thức. Con người chỉ có thể tìm và biết được sự thật về sự
vận hành của thế giới thiên nhiên qua cảm nghiệm (senses) về thế giới bên ngoài
chứ không từ tâm linh, niềm tin hay thượng đế.
Khác với triết lý thực nghiệm (empirical) của Bacon và Whewhell phát triển
mạnh ở Anh, triết lý thực chứng (positivism) của Ernst Mach và sau đó chủ nghĩa
thực chứng lôgích (logical positivism) của Nhóm Vienna phát triển mạnh ở
những nước Âu châu nói tiếng Đức.
Karl Popper đã đưa ra quan điểm mới tốt hơn triết lý thực chứng lôgích. Theo
ông, để phân biệt “khoa học thật” sự với “ngụy khoa học” và siêu hình học, ta
cần tiêu chuẩn: một lý thuyết chỉ mang tính khoa học khi nó có thể chứng
nghiệm là sai. Đây là tính phản nghiệm (falsification) nổi tiếng của Popper, có
nhiều ảnh hưởng vào thập niên 1970.
Đối thủ nổi tiếng nhất của Karl Popper là Thomas Kuhn. Theo Kuhn, các lý

thuyết khoa học đều tiến hoá theo “bước nhảy cách mạng” (revolutionary jump).
Khi một lý thuyết hoạt động và gặp những giới hạn hay khủng hoảng thì một
cuộc cách mạng về cách nhìn là cần thiết. Thuyết của Kuhn được hồ hởi chấp
nhận, nhất là bởi những người theo chủ thuyết tương đối (relativism) trong các
thập niên 1960, 1970 chống lại phái bảo thủ tuyệt đối.
Song thuyết của Kuhn cũng có nhiều khúc mắc. Imre Lakatos cũng là một phản
ứng khác. Triết gia này kết hợp quan điểm của Kuhn với phương pháp phản
3
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
nghiệm (có cải tiến) của Popper, cho rằng khoa học là một chuỗi những “chương
trình nghiên cứu” (research programs), từng bước tiến lên từ một vấn đề này đến
vấn đề khác. Quan điểm của Lakatos có vẻ hợp lý nhất đối với đa số các ngành
khoa học hiện đại (kể cả các ngành khoa học xã hội).
2. Từ thực nghiệm quy nạp (induction) đến chủ nghĩa
thực chứng lôgích (logical positivism)
2.1. Quy nạp thực nghiệm
Tiêu biểu trong giai đoạn này là các khoa học gia và triết gia như John Locke và
Francis Bacon. Theo họ, từ sự quan sát lâu dài các hiện tượng thiên nhiên, ta có
thể dùng quy nạp (induction) để thiết lập định luật chung cho các hiện tượng ấy.
Đây là nền tảng của sự phát triển và bùng nổ kiến thức khoa học trong nhiều
ngành từ thế kỷ 18 cho đến đầu thế kỷ 20. Nước Anh là nơi mà truyền thống
khoa học thực nghiệm phát sinh và phát triển rộng rãi.
Trong giai đoạn phát triển của khoa học thực nghiệm quy nạp, một nguyên nhân
đưa đến cuộc cách mạng kỹ nghệ lịch sử, còn có ảnh hưởng của hai nhà triết học
Descartes và Kant. Tuy có những giới hạn, triết lý Descartes đã có nhiều đóng
góp đáng kể vào khoa học và vẫn còn được áp dụng, ngay cả trong thời kỳ hưng
thịnh của vật lý Newton.
Qua triết lý của Kant, có thể giải thích hoàn toàn liên hệ giữa các vật thể bằng lý
trí thuần tuý (pure reason), và phương pháp khoa học có thể giải thích được tất cả
thế giới hiện tượng.

Tư tưởng duy lý với quy nạp thực nghiệm trong thời Khai sáng bắt nguồn từ mục
đích nhân bản: kiến thức mà lý trí Khai sáng tạo ra là để giải phóng con người
bằng cách nâng con người vượt qua khỏi thế giới hoang dã.
4
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
2.2. Chủ nghĩa thực chứng lôgích (logical positivism)
Chủ nghĩa thực chứng vẫn xem quy nạp thực nghiệm là nền tảng của phương
pháp khoa học. Tuy nhiên chỉ sau thế chiến thứ nhất, khi một nhóm các nhà vật
lý, toán học và triết học thành lập Nhóm Vienna (Vienna Circle) do Moritz
Schlick dẫn đầu. thì chủ nghĩa thực chứng lôgích mới phát triển và có ảnh hưởng
rộng rãi.
Cốt lõi của thực chứng lôgích là chỉ chấp nhận những gì gọi là khoa học khi có
thể quan sát hay đo được, và do đó có thể kiểm chứng. Dùng nguyên lý cơ bản
trên, các nhà triết học theo thực chứng lôgích như Neurath nghiên cứu về triết lý
khoa học, đã phát triển một cách có hệ thống những nguyên lý để tìm hiểu thế
giới thiên nhiên.
Triết lý thực chứng lôgích có ảnh hưởng đến một số các nhà khoa học vật lý ở
thế kỷ 20 như Ludwig von Mises, Werner Heisenberg và đóng góp vào việc phát
triển nguyên lý vô định, không chắc chắn (uncertainty principle), sinh ra từ phân
tích thực chứng lôgích về sự giới hạn khi vừa quan sát vị trí vừa đo động lực
(momentum) của vật thể cùng một lúc.
Đến đầu thế kỷ 20, người ta bắt đầu thấy rõ triết lý khoa học thực nghiệm và chủ
nghĩa thực chứng là có nhiều giới hạn trong hầu hết mọi ngành. Ngay cả khi có
những vật thể quan sát được, điểm then chốt của thực chứng cũng đã bị chỉ trích
và phủ định khi nó cho là có những quan sát hoàn toàn độc lập, và trung tính
(neutral) với các lý thuyết, ý niệm, và ngôn ngữ. Ngay trong vật lý học, triết lý
thực chứng cũng bị xem là lạc hậu và được thay thế bởi triết lý phản nghiệm của
Popper.
5
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA

3. Triết lý phản nghiệm của Karl Popper
Tuy xuất thân từ phái thực chứng, Popper đã vượt qua những khuyết điểm của
phái này và có nhiều đóng góp vào triết lý khoa học hiện đại. Trái với thực
chứng, ông cho rằng tất cả những quan sát (observations) đều không trung tính,
mà đầy lý thuyết (theory laden). Đối với Popper, câu hỏi then chốt là: làm sao
chúng ta có thể xác định một lý thuyết là khoa học hay không khoa học (mà ông
gọi là ngụy khoa học). Theo ông, một lý thuyết được gọi là khoa học khi nó có
những điều kiện sau:
(i) Có thể đưa tới (liable) chứng nghiệm theo dữ liệu. Nói khác đi, thuyết ấy phải
cho cơ hội kiểm nghiệm để chứng tỏ là nó sai;
(ii) Đưa ra những tiên đoán: thuyết phải “gan dạ”, “táo bạo” tiên đoán những
hiện tượng chưa được quan sát và kiểm nghiệm.
Theo Popper, một lý thuyết khoa học mới chỉ xứng đáng thay thế một lý thuyết
đang có khi lý thuyết mới ấy tổng quát hơn, giải thích được hết những gì lý
thuyết cũ có khả năng giải thích, và hơn nữa, giải thích được nhiều trường hợp
mà lý thuyết cũ đã bị phản nghiệm. Rồi, bản thân lý thuyết mới ấy tự nó phải cho
nhiều cơ hội phản nghiệm. Và sau cùng, khoa học “thực sự” phải có những tiên
đoán về các hiện tượng chưa quan sát nhưng sẽ xảy ra, và có thể kiểm chứng.
Nói chung nền tảng cơ bản của triết lý khoa học Popper vẫn là máy móc
(mechanistic), thể vật (physical) và khách quan (objective), không khác nhiều với
triết lý thực chứng lôgích, sinh ra để đối lập lại chủ thuyết tâm lý của Freud và
chủ nghĩa Marx. Mô hình này không còn được áp dụng trong khoa học, ngoài sự
hữu dụng của nó hiện nay để chống ngụy khoa học như chiêm tinh, hay các
“khoa học” huyền bí khác, chủ yếu là vì tâm lý học theo Freud dựa vào sinh lý
(sex) đã được cho thấy là không còn thích hợp hay lỗi thời, không còn được áp
dụng, hoặc được thay thế bởi những mô hình khác.

6
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
4. Triết lý Thomas Kuhn

Đối với Kuhn, lịch sử khoa học được thể hiện bởi những cuộc cách mạng về cách
nhìn và phương pháp. Thoạt tiên các nhà khoa học chấp nhận và hoạt động trong
khuôn khổ của một mô thức chính (môi trường khoa học bình thường) với một số
niềm tin sẵn có, được coi như đúng và truyền đạt trong thế hệ đương thời. Đến
khi có những dị thường (anomalies) xảy ra mà không giải thích được, bế tắc hay
trái ngược với gì được mong đợi, là khởi đầu của khủng hoảng.
Thuyết của Kuhn đã làm sáng tỏ phương thức hoạt động khoa học, làm mất đi sự
bí ẩn, hào quang và nể sợ trong quần chúng trước đây về sự tìm hiểu, nghiên cứu
khoa học, và từ đó nó mở rộng cho nhiều giới tham gia đề cập cũng như tranh
luận về khoa học.
Thuyết của Kuhn ra đời vào đầu thập niên 1960 khi mà xã hội phương Tây bắt
đầu cởi mở về văn hoá, chính trị với nhiều phong trào phản kháng các nền tảng
và trật tự xã hội hiện hữu. Các nhóm trí thức xã hội học, triết học, đa số từ phe tả
chống lại những gì đại diện cho chính thống trong xã hội, đã dùng thuyết của
Kuhn để nghiên cứu vấn đề xã hội trong sự phát triển khoa học và tri thức. Từ đó
một ngành mới được thành hình song song với ngành triết lý khoa học và lần lần
lấn át ngành triết lý khoa học cổ điển. Ngành mới này sau được gọi là xã hội học
về tri thức khoa học (sociology of scientific knowledge).

5. Từ Lakatos đến Feyarabend
Lakatos chấp nhận một số ý niệm của Kuhn nhưng cải thiện thuyết phản nghiệm
của Popper. Cũng như Popper và Kuhn, Lakatos không cho rằng lý thuyết khoa
học bắt nguồn từ quy nạp các dữ kiện. Tuy vậy, ông (cũng như Kuhn) không cho
rằng động cơ của tiến bộ khoa học là sự phủ nhận qua phản nghiệm các lý thuyết
7
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
khoa học hiện tại, song là sự phát triển của cái mà ông gọi là những “chương
trình nghiên cứu khoa học”.
Ông cho rằng khoa học là sự phát triển có kế tục của cái mà ông gọi là các
“chương trình nghiên cứu” (research programs). Cụ thể, một chương trình nghiên

cứu được cho là có “tiến bộ lý thuyết” nếu mỗi lý thuyết của chương trình đó
hàm chứa nhiều nội dung (content) thực nghiệm hơn chương trình trước, và “tiến
bộ thực nghiệm” nếu một số nội dung thực nghiệm này được phối hợp kiểm
chứng. Nói tóm lại, phản nghiệm kiểu Lakatos là dựa vào sự liên hệ giữa các
thuyết khoa học, trong khi phản nghiệm kiểu Popper chỉ xem xét một lý thuyết
nào đó có khoa học hay không.
Paul Feyarabend, cũng là triết gia người Áo như Popper, Feyerabend cho rằng
không có một phương pháp khoa học nào là thích hợp cho mọi trường hợp, và hô
hào “dân chủ” trong nghiên cứu khoa học. Ông định nghĩa “khoa học là cái gì mà
các nhà khoa học làm”!
Ông cho rằng không một phương pháp hay phương thức nào có thể gọi là chuẩn
để tuân theo trong nghiên cứu khoa học. Nói cách khác, không nên loại bỏ
phương pháp nào. Kết quả của các nhà khoa học dựa vào các phương pháp không
phải lúc nào cũng thành công. Ta chỉ có thể đánh giá thành tựu sau kết quả của
nghiên cứu, và không thể tiên đoán chắc chắn về sự thành công của các phương
pháp. Công chúng có thể tham gia vào các cuộc tranh luận khoa học, và nếu nó
có ảnh hưởng đến mọi người trong xã hội thì công chúng nên tham gia. Khoa học
phải được dân chủ hoá và những khoa học gia thiểu số có ý kiến, phương thức
khác với đa số phải được bảo vệ.

8
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
6. Hậu hiện đại (postmodernism) và chủ thuyết tương
đối (relativism) trong “chiến tranh khoa học”
Theo nhà vật lý Weinberg thì trong vài năm gần đây khoa học đã bị tấn công từ
nhiều phía đứng chung dưới bảng hiệu "chủ nghĩa tương đối" (relativism) hay
chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo ông, họ phản bác tuyên bố của khoa học là khám
phá tìm ra sự thật khách quan. Các nhà triết học hậu hiện đại cho rằng khoa học
chỉ là một hiện tượng xã hội, không khác chi những hiện tượng xã hội khác như
tôn giáo, mê tín, nghệ thuật. Theo họ, quá trình tiến tới các tư tưởng khoa học có

nhiều yếu tố chủ quan. Như đã trình bày ở trên, các nhà xã hội học và triết gia
hậu hiện đại đã bị ảnh hưởng lúc đầu bởi ý niệm "mô thức" (paradigm) của
Kuhn, nhưng ta cũng thấy ngay là triết lý của Feyerabend cũng là một phần chủ
yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Khác với chủ nghĩa lãng mạn (là một phản ứng với một thế giới quan dựa vào lý
trí trong thời Khai sáng, quan niệm rằng con người nên trở về với thế giới thiên
nhiên, dựa vào cảm tính, tình cảm mãnh liệt và sự nhất thời), chủ nghĩa hậu hiện
đại ít nhất vẫn tin vào duy lý trong sự tương đối. Như Wilson đã nói, chủ nghĩa
hậu hiện đại mới chính là phản đề (antithesis) tối hậu của tư tưởng duy lý thời
Khai sáng. Sự khác biệt giữa hai tư tưởng này có thể được tóm tắt như sau:
những nhà tư tưởng khoa học thời Khai sáng cho rằng chúng ta có thể hiểu biết
tất cả, còn những nhà hậu hiện đại tin rằng chúng ta có thể không hiểu biết gì hết.
Quan điểm trên của chủ nghĩa hậu hiện đại có thể bắt nguồn từ sự giảm tin tưởng
vào khả năng của khoa học trong việc giúp con người hiểu rõ và giải quyết các
vấn đề khó khăn trong đời sống. Trước kia, con người, nhất là từ đầu thế kỷ 20
đến thập niên 1960, rất tin là khoa học sẽ cho phép hiểu biết cặn kẽ, rõ ràng mọi
vấn đề trong đời sống. Các khám phá khoa học đã ảnh hưởng rất nhiều lên cuộc
sống, nhưng thực tế cho ta thấy có những hệ thống rất phức tạp, không tiên đoán
chính xác được (như kinh tế, thời tiết, môi trường, v.v ).
9
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
Các nhà xã hội và nhân chủng học của chủ nghĩa hậu hiện đại đã đưa ra luận cứ
cho rằng ngay cả tiến trình thay đổi trong các lý thuyết khoa học là một tiến trình
xã hội: hệ thống thẩm định bài vở giữa các nhà nghiên cứu cùng ngành (peer
review) cho thấy "các sự thật khoa học, thực ra là những thoả thuận xã hội phổ
cập và cái gì là "thật" (real) khoa học, đạt được rõ ràng qua một "tiến trình khoa
học" thương lượng". "Thương lượng để đi đến kết luận" là điều đã được chứng
minh, hay là một thí nghiệm tốt, thì cũng rối rắm như bất cứ tranh luận nào giữa
các luật sư hoặc các chính trị gia.
Chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành phổ biến và phát triển rộng rãi trong văn học,

nghệ thuật và khoa học xã hội vì với cái nhìn tương đối trong việc đánh giá và
thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, nó tỏ ra phóng khoáng và bao gồm. Nó
cũng dựa vào triết lý “hậu cấu trúc luận” (post-structuralism), mà hai triết gia
Pháp Roland Barthes và Jacques Derrida là tiêu biểu.
Từ vài thập niên gần đây, có nhiều câu hỏi và tranh luận, cũng như đụng độ giữa
các khuynh hướng khác nhau về thế nào là khoa học, và phương pháp khoa học
“đích thực” là gì. Quan niệm về các mô thức của Kuhn, và hậu cấu trúc luận của
Derrida như đã trình bày ở trên, rất ăn khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại.
Ngày nay có sự phân chia rất sâu đậm giữa khoa học theo Popper (chủ yếu là vật
lý) và các khoa học nhân văn xã hội dựa vào Kuhn, Feyarabend và Derrida. Hố
sâu “văn hoá” đó là rất lớn. Nhà vật lý Weinberg đã công kích các nhóm khoa
học nhân văn (humanity sciences), xã hội văn hoá học (cultural sociology) theo
chủ thuyết hậu hiện đại (post-modernism) khi họ cho rằng khoa học như ta biết
được từ xưa đến nay đều mang ảnh hưởng và cái nhìn văn hoá của nền văn minh
phương Tây và vì thế phủ nhận tính khách quan của mọi khoa học. Weinberg,
mặc dù rất phục Kuhn, nghĩ rằng ý niệm “mô thức” của Kuhn quá mơ hồ và đã bị
các nhà hậu hiện đại lạm dụng để đả phá các ngành khoa học khách quan nhằm
lập ra các ngành mới.

10
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC GVPT: TS. BÙI VĂN MƯA
7. Kết luận
Về triết lý, sự khác nhau cơ bản của hai trường phái trong “chiến tranh khoa học”
là tri thức của con người được “khám phá” (theo phái khoa học khách quan) hay
là được “tạo ra” (theo phái chủ nghĩa tương đối hậu hiện đại). Theo đó không có
đụng chạm giữa khoa học vật lý và khoa học nhân văn về phương pháp khoa học
và đặc tính chân lý, về sự thật của tính tương đối hay tuyệt đối trong khoa học
ngày nay. Ngay trong ngành sử học của khoa học nhân văn cũng có khác nhau
giữa trường phái khách quan khoa học và chủ quan hậu hiện đại, và trong ngành
sinh học trình bày ở phần trên cũng có sự khác biệt phản ánh qua cuộc tranh luận

về khoa học tiến hoá giữa Gould và những người theo thuyết Darwin cổ điển.
Để giải quyết sự bế tắc trong cuộc “chiến tranh khoa học” giữa các quan điểm
trên, cần một khái niệm tổng hợp có ích cho khoa học tự nhiên lẩn khoa học nhân
văn.
Tóm lại, phương pháp đồng hợp đã bắt đầu có những áp dụng thực tiễn trong
nhiều ngành khác nhau, và đã cho thấy những khám phá bất ngờ. Điểm đặc biệt
của phương pháp này là nó không bó buộc các nhà nghiên cứu phải theo một
phương pháp tiêu chuẩn chung nào. Quan điểm này phù hợp và không trái lại với
triết lý hậu hiện đại. Từ nhiều phương pháp khác nhau, đứng từ quan điểm lịch
sử phát triển riêng của các ngành, “đồng hợp” giúp ta tổng hợp kiến thức và tăng
thêm tin tưởng vào các khám phá khoa học.
Tài Liệu Tham khảo
[1] Slide bài giảng Triết học , TS. Bùi Văn Mưa
[2] Nguyễn Đức Hiệp, Triết lý khoa học hiện đại, Tạp chí Thời đại mới, Số 2,
tháng 7/2004
[3] Phan Huy Đường, Triết học - Khoa học, Tạp chí Tia Sáng số 5/12/2010
[4] Nguyễn Minh Quân, Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản, Tạp
chí Việt, Số 7, 2001
11

×