Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Một số giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần TM và DV NAM SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.22 KB, 58 trang )

Viện ĐH Mở- Hà Nội
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta bước
sang nền kinh tế hàng hóa có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thì hiệu quả
kinh tế dược đặt lên hàng đầu với bất kỳ một doanh nghiệp nào và công tác
quản trị kinh doanh ( QTKD ) là một trong những vấn đề được coi là quan
trọng và cấp thiết. Đây là một công việc cần được theo dõi chi tiết, thường
xuyên, qua đó những người sử dụng thông tin có thể đánh giá về tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với một sinh viên
chuẩn bị làm công việc QTKD thì cần phải có những hiểu biết cụ thể và khả
năng thực hành công việc là tất yếu. Do vậy thực tập tốt nghiệp có ý nghĩa rất
quan trọng. Đây không chỉ là cơ hội cho tôi có thể tiếp cận một cách cơ bản
nhất về công việc QTKD mà còn là cơ hội cho tôi ứng dụng những kiến thức
trong trường làm bàn đạp tốt cho công việc sau này.
Trong quá trình thực tập tôi đã tìm hiểu về công ty tôi nhận thấy rằng chi
phí kinh doanh chiếm một bộ phận khá lớn trong toàn bộ chi phí của doanh
nghiệp. Mặt khác theo xu thế hiện nay chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Việt Nam được đánh giá là cao so với nhiều nước trong khu vực, do đó để
giảm chi phí có lẽ các doanh nghiệp Việt Nam hãy tìm ra biện pháp trước
nhất để giảm chi phí kinh doanh.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên,tôi đã chọn đề :“Một số giải pháp tăng
lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần TM và DV
NAM SƠN”.
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
1
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Bài viết này gồm ba phần chính:
Chương 1: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Chương2: Thực trạng về lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty Cổ phần TM và DV NAM SƠN.
Chương 3: Giải pháp làm tăng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của


Công ty Cổ phần TM và DV NAM SƠN.
Bài viết được hoàn thành dưới sự giúp đỡ của thầy cô giáo khoa Kinh tế
và quản trị kinh doanh, cũng như giám đốc và nhân viên trong Công ty cổ
phần và dịch vụ thương mại Nam Sơn.
Tôi xinh chân thành cảm ơn!
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
2
Viện ĐH Mở- Hà Nội
CHƯƠNG 1
LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.
Từ những năm 90 trở lại đây, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác
nhau ra đời do cơ chế luật pháp thông thoáng, tư duy con người thay đổi và
phát triển. Vậy doanh nghiệp là gì?
1. 1.1. Lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu để đánh giá sự làm ăn có hiệu quả
hay không của doanh nghiệp.
Đứng về phía góc độ doanh nghiệp, lợi nhuận là khoản còn lại của
doanh nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ chi phí ( chi phí nguyên vật liệu, tiền
lương, thuế thu nhập doanh nghiệp
Vai trò của lợi nhuận.
Lợi nhuận không chỉ là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp
mà còn là nguồn dinh dưỡng chính nuôi dưỡng nền kinh tế của một quốc gia.
Lấy gì để thu thuế khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ? Việc xtôi xét vai trò của
lợi nhuận đối với từng đối tượng cụ thể sẽ làm chúng ta hiểu tầm quan trọng
của nó.
*Đối với doanh nghiệp
Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu tổng hộp

nói lên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động cơ, mục
đích của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra để kinh doanh. Điều này được thể hiện:
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ sung vốn vào
mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lợi
nhuận, lập các quỹ trong doanh nghiệp như: Quỹ khuyến khích phát triển sản
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
3
Viện ĐH Mở- Hà Nội
xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi…Từ các quỹ này, doanh nghiệp có thể
bổ xung vốn lưu động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất – kinh doanh đòi
hỏi. Và cũng chính từ các quỹ này, doanh nghiệp mới có điều kiện nâng cao
đời sống của cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần khuyến khích
người lao động gắn bó với công việc, thúc đẩy hoạt động sản xuất – kinh
doanh phát triển.
Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng
thanh toán, có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể thực hiện được các nghĩa vụ
với Nhà nước thông qua thuế và các khoản phải nộp. Lợi nhuận là nguồn tài
chính để doanh nghiệp trang trải các khoản thua lỗ trước kia hay các khoản bị
phạt do chậm nộp thuế, do vi phạm hợp đồng.
Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không đủ khả năng tái sản xuất giản
đơn( bù đắp hao phí trong quá trình sản xuất – kinh doanh) thì tình hình tài
chính của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế dần khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không
những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn có điều kiện không ngừng đổi
mới máy móc thiết bị, ứng dung khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất –
kinh doanh giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường và có uy tín.
* Đối với người lao động
Lợi nhuận là nguồn chính để doanh nghiệp trích lập quỹ: quỹ trợ cấp mất
việc làm, quỹ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưởng, giải quyết nhu cầu xã hội cho

cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn để trích lập các quỹ này
càng lớn thì doanh nghiệp càng có điều kiện nâng cao tinh thần, vật chất cho
cán bộ công nhân viên, từ đó khích lệ họ hăng say trong công tác, nâng cao
tính chủ động, sáng tạo trong quá trình làm việc. Chính vì thế, việc sản xuất
có lãi ngày càng cao chẳng những là yêu cầu, là cơ sở của tái sản xuất mở
rộng mà còn là quyền lợi thiết thựccủa CBCNV trong doanh nghiệp.
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
4
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Thực tế đã chứng minh: áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến
khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ việc , có trách nhiệm
đến cùng với sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy năng suất lao động, cải tiến kỹ
thuật, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu để hạ giá thành sản phẩm.
* Đối với nền sản xuất xã hội.
Trước hết ta thấy, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước,
nhằm thoả mãn nhu cầu nền kinh tế quốc dân, là nguồn duy trì bộ máy hành
chính, là nguồn củng cố và tăng cường nguồn lực quốc phòng, cải tiến đời
sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân. Muốn thu được thuế thì doanh
nghiệp phải làm ăn có lãi. Sự phát triển của các doanh nghiệp tạo ra sự tích
luỹ trong xã hội, tạo sự ổn định về mặt kinh tế cho một quốc gia, từ đó có sự
ổn định về chính trị.
Lợi nhuận là yếu tố thúc đẩy sự phát triển xã hội, thông qua việc doanh
nghiệp liên tục cải tiến khoa học kỹ thuật và mở rộng không ngừng để có
được mức thu nhập như mong muốn. Lấy ví dụ như trong thời kỳ bao cấp, sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp quốc doanh phụ thuộc hoàn toàn vào sự
bao cấp của Nhà nước, vốn do Nhà nước cấp phát hoàn toàn, sử dụng hiệu
quả như thế nào doanh nghiệp hoàn toàn không chịu trách nhiệm, lỗ đã có
Nhà nước bù. Vì thế trong thời kỳ này, doanh nghiệp làm ăn không năng động
do động lực kích thích bị thui chột, tình trạng thua lỗ kéo dài, từ đó nhìn toàn
cảnh xã hội là nghèo nàn, lạc hậu.

Từ khi xoá bỏ chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp
chuyển sang chế độ hoạch toán kinh doanh, bộ mặt nền kinh tế có sự thay đổi
hết sức tích cực. Doanh nghiệp hoạt động có mục đích của nó, khiến cho nó
trở nên năng động, sáng tạo và luôn đổi mới mình.
Như vậy, có thể đi đến kết luận: lợi nhuận có vai trò vô cùng to lớn đối với
nền kinh tế, nó chính là động lực, mục tiêu để doanh nghiệp hoạt động và phát
triển, là nguồn tích luỹ của xã hội, là sự thể hiện sức mạnh của nền kinh tế .
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
5
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Trên đây, chúng ta thấy sự cần thiết khi doanh nghiệp làm ăn có lãi,
nhưng việc tính toán một cách chính xác doanh nghiệp đó có thực sự có
lợi nhuận hay không là việc không phải dễ dàng. Ngày nay, người ta đưa
ra phương pháp để tính toán lợi nhuận của doanh nghiệp, ta sẽ xtôi xét
phần tiếp theo:
1.2.Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.1. Các yếu tố cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường năng động, để
tăng cường khả năng cạnh tranh, thu đựơc nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp có
xu hướng đa dạng hoá hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình trên nhiều
lĩnh vực khác nhau. Do đó, lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần
thu được từ quá trình sản xuất – kinh doanh mà có thể còn thu đựơc từ kết quả
quá trình hoạt động tài chính hay là từ một hoạt động bất thường nào đó. Lợi
nhuận của doanh nghiệp là tổng hợp của các lợi nhuận đó.
Hoạt động kinh doanh là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ của các ngành sản xuất - kinh doanh chính và sản xuất – kinh
doanh phụ. Lợi nhuận thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận từ hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Hoạt động tài chính là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn

nhằm mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh
doanh bất động sản, buôn bán ngoại tệ. Lãi thu được từ hoạt động trên gọi là
lợi nhuận thu đựơc từ hoạt động tài chính.
Những hoạt động trên đều đã được doanh nghiệp hoạch định từ trước, có
kế hoạch, có sự chuẩn bị các hoạt động theo ý muốn. Tuy nhiên, trong quá
trình hoạt động của doanh nghiệp, có rất nhiều hoạt động không được hoạch
định từ trước mà xảy ra bất ngờ như thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giải
quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa thiếu chưa rõ
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
6
Viện ĐH Mở- Hà Nội
nguyên nhân. Những hoạt động này cũng đtôi lại cho doanh nghiệp những
khoản thu nhập, khoản thu này sau khi đã trừ đi các chi phí cho những hoạt
động bất thường này gọi là lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
Như vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động
sản xuất – kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt
động bất thường.
Việc cần thiết bây giờ là làm thế nào có thể tính toán các khoản lợi
nhuận này? Chúng ta sẽ tính toán theo phương pháp sau:
1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp.
Như đã định nghĩa ở trên, lợi nhuận được hiểu là phần chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí, nhưng thực tế thì cũng không hoàn toàn như vậy, bởi vì
phần thu nhập này lại phải chịu một phần thuế thu nhập do Nhà nước đánh. Vì
thế, ta sẽ đưa ra hai khái niệm sau:
* Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp: bao gồm lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động
bất thường.
Lợi nhuận sau thuế( thu nhập sau thuế) của doanh nghiệp là chênh lệch
giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế TNDN = Thu nhập trước thuế x Thuế suất T.TNDN

Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế _ Thuế TNDN
Trong phần nghiên cứu dưới đây, lợi nhuận đề cấp là lợi nhuận trước
thuế, gọi chung là lợi nhuận của doanh nghiệp. Như đã nói ở phần trên:
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
Lợi nhuận
của DN
=
Lợi nhuận thuần
từ hđkd
+
Lợi nhuận thuần
từ HĐTC
+
Lợi nhuận
từ HĐ khac
7
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Lợi nhuận từ
HĐ khác
= Thu nhập từ HĐ khác - Chi phi từ HĐ khác
Trong đó:
Doanh thu từ hoạt động bất thường là khoản thu về việc thanh lý,
nhượng bán tài sản cố định, tiền thu từ vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ
khó đòi mà đã nghi là đã mất.
Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi như : chi phạt thuế, bị
phạt vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định…
Thực ra đây là hợp đồng không thường xuyên và ít xảy ra trong doanh
nghiệp nên tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động này thường rất nhỏ và có thể dễ
dàng hoạch toán trong một chu kỳ kinh doanh.
Đối với những doanh nghiệp cho thuê tài chính, hay đối với các ngân

hàng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất. Doanh
thu từ hoạt động tài chính bao gồm: khoản thu từ việc mua bán trái phiếu, cổ
phiếu, thu nhập từ hoạt động liên doanh liên kết, thu nhập từ hoạt động cho
thuê tài sản, thu nhập từ hoạt động gửi tiền vào ngân hàng.
Chi phí cho hoạt động tài chính là các chi phí cho việc mua bán chứng
khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần, chi phí
cho hoạt động thuê tài chính…
Trong bài viết này, đang đứng nghiên cứu dưới góc độ doanh nghiệp
thông thường, nên tỷ trọng từ hoạt động bất thường, hoạt động tài chính
chiếm tỷ trọng nhỏ, không phản ánh được kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Phần lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong doanh nghiệp thông thường
là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, và cũng là mục đích nghiên
cứu chính của bài viết này.
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
8
Lợi nhuận
từ HĐTC
Doanh thu
từ HĐTC
Chi phí cho
HĐTC
= -
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Lợi nhuận
HĐKD
=
DT tieu thụ sản phẩm
DV
-
Chi phi

HĐKD
Tuy nhiên việc tính toán được doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí
cho hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp rất khó thực hiện, việc tính
toán này chỉ mang tính tương đối.
Một sản phẩm được sản xuất ra, doanh nghiệp chưa thể coi là đã hoàn
thành công việc của mình, việc có bán được sản phẩm đó trên thị trường hay
không sẽ quyết định thắng lợi của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp coi là hoạt động xuất bán sản phẩm. Cho đơn vị mua để nhận
được số tiền về sản phẩm đó. Quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
được coi là hoàn thành khi doanh nghiệp được chấp nhận trả tiền của bên mua
hàng. Việc hoàn thành quá trình tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là doanh
nghiệp có doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền
mà khách hàng chấp nhận trả. Tuy nhiên khi khách hàng chấp nhận trả tiền ,
thì khoản tiền đó cúng chưa chắc chắn được coi hoàn toàn là doanh thu của
doanh nghiệp, đôi khi hàng hoá có thể bị trả lại do kém chất lượng, hay do
một vài lý do nào đó, khách hàng trả lại hàng , vì vậy doanh nghiệp phải giám
giá hàng bán, hoặc khấu cho khách.
Do vậy trong nghị định 59 CP có quy định : “ Doanh thu từ hoạt động
kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm , hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị
trường sau khi đã trừ đi khác khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán,
hàng bán bị trả lại ( nếu có chứng từ hợp lệ), thu từ phần trợ giá của Nhà nước
khi thực hiện việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cuầ của Nhà nước”.
Các sản phẩm , hàng hoá, dịch vụ đtôi tặng, biếu, cho hoặc tiêu
dùng ngay trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được hạch toán để xác
định doanh thu.
Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua hàng đã chấp nhận
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
9
Viện ĐH Mở- Hà Nội
thanh toán, không phụ thuộc đã thu hay chưa. ở đây chiết khấu bán hàng là số

tiền thưởng tính trên tổng doanh thu mà doanh nghiệp trả cho khách hàng đã
thanh toán tiền trước thời hạn quy định,
Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn
hay cung cấp dịch vụ cho các nguyên nhân đặc biệt khác như hàng kém phẩm
chất, không đúng quy cách. Ngoài ra còn có khoản thưởng cho khách hàng đã
mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt hay trong một khoảng thời
gian nhất định.
Hàng hoá bị trả lại là số hàng đã được coi là tiêu thụ ( đã chuyển giao
quyền sở hữu đã thu tiền hay chưa được chấp nhận thanh toán) nhưng bị
người mua từ chối, trả cho người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký
kết do những nguyên nhân khác…
Như vậy:
- Thuế gián thu là khoản thuế thu hộ cho Nhà nước như Thuế TTĐB,
VAT…
Việc tính toán doanh thu cho hoạt động sản xuất kinh doanh tuy đã rất
phức tạp nhưng việc tính toán chí phí còn khó khăn hơn. Chi phí hiểu theo
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
10
Lợi nhuận
từ HĐKD
Doanh thu
thuần
Chi phí hoạt
động kinh
doanh
= -
Doanh thu
thuần
Tổng
doanh thu

Các khoản
giảm trừ
doanh thu
-=
=
Tổng
doanh thu
-
Chiết khấu
bán hàng
-
Giảm giá
hàng bán
-
Hàng bán
bị trả lại
-
Giảm giá
hàng bán
-
Thuế gián
thu
Viện ĐH Mở- Hà Nội
nghĩa chung nhất là tất cả những gì làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Người ta có rất nhiều cách tiếp cận chi phí khác nhau,và từ đó cách phân loại
khoản chi của doanh nghiệp cũng khác nhau. Có thể phân loại chi phí thành
chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm. Chi phí cho hoạt động sản xuất
thì chỉ có ở những doanh nghiệp sản, và nó thường chiếm một tỷ trọng lớn
nhất trong tổng các khoản chi phí của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư,

nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả công cho người lao động Do
vậy chi phí sản xuất của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả
các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất
sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính
thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Do đặc điểm của
chi phí sản xuất là chi phí hàng ngày gắn liền với từng vị trí sản xuất, từng
loại sản phẩm và từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tổng hợp, tính
toán chi phí sản xuất cần được tiến hành trong từng khoảng thời gian nhất
định không phân biệt sản phẩm đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Để quản
lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết
quả tiết kiệm chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra
và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm
người ta cần phân loại chi phí sản xuất. Thông thường người ta sử dụng các
phân loại chi phí như sau:
Thứ nhất: phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, tức là sắp xếp các chi
phí có cùng tính chất kinh tế vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí, theo
cách phân loại này thì chi phí sản xuất bao gồm ba nhóm yếu tố sau:
+ Chi phí vật tư
+ Lương nhân công trực tiếp
+ Chi phí sản xuất chung
Thứ hai: phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành. Cách
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
11
Viện ĐH Mở- Hà Nội
phân loại này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để
sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó, phân tích tác động
của từng khoản mục của chi phí đến giá thành.
Thứ ba: phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến
đổi. Phân loại chi phí theo cách này để có phương thức quản lý phù hợp với
từng loại chi phí.

Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí, các doanh nghiệp cần
phải xtôi xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại
chi phí sản xuất.
Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số
chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành
khác nhau có chi phí sản xuất khác nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác
động của nhiều yếu tố như: loại hình và quy mô sản xuất của từng doanh
nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị, điều kiện tự nhiên, công tác tổ chức,
năng lức quản lý, trình độ tay nghề của công nhân
Việc nhiên cứu cơ cấu chi phí có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó giúp cho
doanh nghiệp:
-Xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất
-Kiểm tra gía thành sản phẩm và có biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất thì ngoài chi phí cho hoạt động sản
xuất ra các sản phẩm còn có:
Chi phí tiêu thụ sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng. Khối
lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới quy mô sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp
cũng phải bỏ các chi phí nhất định
Chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm: Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản
phẩm; chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
12
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: chi phí chọn lọc, đóng
gói; chi phí vận chuyển, bao bì, vận chuyển, bảo quản; chi phí thuê kho
bến bãi vv
Chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển bao gồm: chi phí điều tra nghiên
cứu thị trường; chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; chi phí bảo hành sản

phẩm vv tỷ trọng của chi phí này có xu hướng tăng trong điều kiện nền kinh
tế thị trường phát triển.
Nghiên cứu chi phí trong quá trình hoạt động kinh doanh cho biết lượng
chi phí cần thiết bỏ ra trong toàn bộ quá tình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tuy
nhiên nó lại không thể cho ta biết, một sản phẩm sản xuất ra thì cần bao nhiêu
chi phí. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, khi quyết định lựa chọn
phương án kinh doanh một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính
đến lượng đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc
một khối lượng sản phẩm đó. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định giá
thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm được hiểu theo nghĩa chung nhất là biểu hiện bằng
tiền toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc
để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định
Giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống nhau và khác
nhau: chi phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm, nhưng không phải toàn
bộ chi phí sản xuất phát sinh sản xuất trong kỳ đều được tính vào giá thành
sản phẩm trong kỳ. Giá thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành
sản xuất hoặc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị hay một khối lượng sản phẩm
nhất định, còn chi phí sản xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện số chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất
định, thời kỳ này thường là một năm
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành
sản xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản xuất tiều thụ
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
13
Viện ĐH Mở- Hà Nội
sản phẩm( đối với sản phẩm xây dựng là giá thành thi công ) bao gồm toàn bộ
chi phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản
phẩm còn được gọi là giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để
hoàn thành cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

Trên góc độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp được
phân biệt thành giá thành kế hoạch và giá thành thực tế
Các doanh nghiệp hoạt động luôn phải quan tâm tới việc giảm chi phí, hạ
giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện cơ bản để doanh
nghiệp thực hiện tốt tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có thể hạ giá bán để tiêu
thụ sản phẩm và thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, hạ giá thành là yếu tố để tăng
lợi nhuận.
Hạ giá thành sản phẩm trong kỳ được xác định cho những sản phẩm so
sánh được qua hai chỉ tiêu: mức giảm giá thành và tỷ lệ hạ giá thành sản
phẩm.
Riêng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản, người ta chỉ so sánh giá thành
thực tế với giá thành kế hoạch hoặc giá thành dự toán của khối lượng sản
phẩm trong cùng một kỳ.
Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm doanh
nghiệp:
- Sự tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ
- Tổ chức lao động khoa học và chiến lược sử dụng lao động
- Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính.
Ngoài cách phân loại trên, thường được các doanh nghiệp sản xuất ưa
thích, người ta còn có cách phân loại sau:
Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm các chi phí có liên quan
đến quá trình hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là
một cách tiếp cận phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
14
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Dựa vào tính chất các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh được
chia thành : Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực( gọi tắt là chi phí vật
tư). Chi phí vật tư phụ thuộc vào 2 yếu tố là mức tiêu hao vật tư và giá vật tư.

Chi phí khấu hao tài sản cố định (KHTSCĐ), lưu ý là chi phí KHTSCĐ được
xác định dựa vào nguyên giá TSCĐ cần tính khấu hao và tỷ lệ KHTSCĐ. Chi
phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Chi phí bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn. Chi phí dịch vụ mua ngoài. Thuế và
các chi phí khác.
Dựa vào nội dung các yếu tố chi phí: chi phí hoạt động kinh doanh được
chi phí gián tiếp.
Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm: Chi phí vật tư trực tiếp. Chi phí nhân
công trực tiếp . Chi phí sản xuất chung ,… Việc tính toán các khoản mục này
cho ta biết tổng chi phí cần bỏ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, tuy nhiên việc tính toán giá thành sản xuất cúng hết sức cần thiết để
quyết định giá bán của sản phẩm
Ngoài việc tính giá thành sản xuất ra, trong doanh nghiệp sản xuất
thường tính toán chỉ tiêu là giá vốn hàng bán
Ngoài các khoản chi phí trên, còn có các khoản chi phí khác như:
* Chi phí bán hàng: gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như: tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả
cho nhân viên bán hàng, tiếp thị, đóng gói, bảo quan, khấu khao TSCĐ, chi
phí vật liêu, bao bì, dụng cụ, đồ dụng, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bảo
hành, quảng cáo.
* Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm các chi phí quản lý kinh doanh,
quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp: tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho
Ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu để dùng
cho văn phòng, KHTSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
15
Viện ĐH Mở- Hà Nội
phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và
các chi phí khác chung cho toàn bộ doanh nghiệp như: lãi vay, dự phòng, phí

kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí
Phân loại các khoản mục chi phí trên được áp dụng cho các doanh
nghiệp sản xuất, việc tính toán đưa ra công thức trên có vẻ khá đơn giản tuy
nhiên thực tế thì khó khăn hơn. Cồn đối với các doanh nghiệp thương mại
tính toán chi phí được thực hiện đơn giản hơn. Giá vốn hàng bán trong các
doanh nghiệp thương mại được tính theo công thức sau:
Giá vốn hàng hoá = Giá mua vào + Chi phí vận chuyện
Còn các khoản mục chi phí khác thì hoàn toàn tương tự.
Các công thức trên để tính toán doanh nghiệp có thể thu được bao nhiêu
lợi nhuận trong kỳ hoạch toán, tuy nhiên nó không thể thực sự đánh giá được
doanh nghiệp có làm ăn hiệu quả hay không. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu tài
chính cuối cùng, nên nó chịu tác động rất nhiều của các nhân tố chủ quan,
khách quan khác. Để đánh giá chất lượng sản xuất – kinh doanh của doanh
nghiệp chỉ tiêu lợi nhuận và nhóm chỉ số khác nữa.
1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất- kinh
doanh và hiệu quả quản lý của doanh nghiệp. Nó báo gồm một nhóm chỉ
tiêu như:
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm là tỷ số giữa thu nhập sau thuế trên doanh
thu, phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trên một đồng doanh thu. Tỷ suất này
càng lớn thì doanh nghiệp được đánh giá là làm ăn có lãi, có thể sử dụng chỉ
tiêu này để so sánh giữa các thời kỳ khác nhau, cũng thấy phần nào hiệu quả
làm ăn của doanh nghiệp.
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
16
Doanh lợi tiêu
thụ sản phẩm
=
Viện ĐH Mở- Hà Nội
* Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu ( Doanh lợi vốn chủ

sở hữu) : ROE =
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn tự bỏ vào kinh doanh thì thu
được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn
chủ sở hữu, đây là chỉ tiêu đặc biệt được các nhà đầu tư quan tâm khi họ
quyết định bỏ vốn vào đầu tư.
Chỉ tiêu này được so sánh qua các thời kỳ khác nhau của doanh nghiệp
và so với chỉ tiêu trung bình ngành. Nếu chỉ tiêu này cao hơn qua các thời
kỳvà cao hơn so với trung bình ngành thể hiện sự làm ăn có hiệu quả của
doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là mục tiêu quan trọng
nhất trong hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Vấn đề khó khăn là tỷ lệ trung bình ngành của các chỉ tiêu không phải
dễ dàng có thể xác định được và độ chính xác không phải là tuyệt đối. Như
thực tế ở Việt Nam ta hiện nay, các tỷ số trung bình ngành của các tỷ số trên
hầu như chưa được tính toán đến.
*Doanh lợi tài sản:
ROA =
Doanh lợi tài sản là tỷ số giữa thu nhập sau thuế trên tổng tài sản , phản
ánh khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên một đồng giá thị tài sản đầu
tư vào sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá tình hình sử
dụng tài sản, vật tư, tiền tệ … của doanh nghiệp.Từ đó có bịên pháp thích ứng
khai thác khả năng sinh lời của tài sản, quản lý và sử dụng tài sản tiết kiệm.
chỉ tiêu này cần được so sánh với chỉ tiêu trung bình ngành và so sánh giữa
các thời kỳ với nhau mới thấy được hiệu quả của quá trình sử dụng tài sản.
*Tỷ suất lợi nhuận giá thành
Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận so với giá
thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
17
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Công thức ;

t
Z
P
g
T
=
Trong đó:
T
g
; tỷ suất lợi nhuận giá thành
P; lợi nhuận tiêu thụ trong kỳ
Z
t
: giá trị toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiẹu thụ trong kỳ
Thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giá thành có thể thấy rõ hiệu quả
của chi phí bỏ vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Nó cho biết cứ 100
đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Việc sử dụng nhóm chỉ tiêu trên giúp chúng ta thấy được hiệu qủa hoạt
động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ và so với các
doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực. Tuy nhiên, nó không giúp ta thấy được
những nhân tố nào ảnh hưởng tới lợi nhuận. Để làm được việc này cấn phải
sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont. Với phương pháp này, nhà
phân tích tài chính sẽ biết được nguyên nhân dẫn tới hiện tượng tốt xấu trong
hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số
tổng hợp phản ánh mức sinh lợi của doanh nghiệp như doanh lợi vốn chủ sở
hữu (ROE) hay doanh lợi tài sản (ROA) thành tích các tỷ số có quan hệ nhân
quả với nhau.
ROE = = x = ROA x TÔI
TÔI gọi là số nhân vốn, phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của
doanh nghiệp. TÔI càng cao chứng tỏ khả năng huy động vốn của doanh

nghiệp càng lớn.
ROE phản ánh mức sinh lợi của một đồng VCSH – mức tăng tài sản cho
vốn chủ sở hữu. Còn ROA ( Thu nhập sau thuế trên tài sản) phản ánh mức
sinh lợi của toàn bộ danh mục tài sản của doanh nghiệp
Ta có thể phân tích phương pháp Dupon:
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
18
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Nhìn vào sơ đồ trên, thấy được yếu tố nào trực tiếp, gián tiếp ảnh hưởng
tới doanh lợi vốn chủ, để từ đó có những biện pháp hạn chế tác động xấu tới
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
19
(:)(:)
(-)
+
DL tài sản Số nhân vốn
TNST Doanh thu Tài sản VCSH
Doanh thu Tổng chi
phí
TSCĐ
TSLĐ
Giá vốn
Thuế
TNDN
Chi phí
bán hàng
Chi phí
QLDN
Chi phí
HĐTC

Chi phí bất
thường
Giá trị
CLTSCĐ
Đầu tư TC
dài hạn
Tiền
Đầu tư TC
ngắn hạn
Phải thu
Tồn kho
TSLĐ
khác
DL vốn chủ
Viện ĐH Mở- Hà Nội
tỷ số này và kích thích những nhân tố có tác động tốt.
Nhìn vào vế trái của sơ đồ trên ta cũng có thể thấy được nhân tố nào làm
tăng, nhân tố nào làm giảm thu nhập sau thuế của doanh nghiệp. Ngoài những
phương pháp để tính toán khi nào doanh nghiệp làm ăn có lãi, người ta còn sử
dụng phương pháp phân tích điểm hoà vốn.
Phân tích điểm hoà vốn:
Điểm hoà vốn là tại đó, doanh thu bán hàng bằng chi phí bỏ ra, hoặc là
một điểm mà tại đó lợi nhuận bằng không. Như vậy, trên điểm hoà vốn sẽ có
lãi và dưới điểm hoà vốn sẽ bị lỗ. Phân tích điểm hoà vốn sẽ giúp cho các nhà
quản trị tài chính xtôi xét kinh doanh trong mối liên hệ giữa nhiều yếu tố tác
động tới lợi nhuận, cho phép xác định rõ ràng vào thời điểm nào trong kỳ
kinh doanh, hay mức sản xuất tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm công ty không bị
lỗ, từ đó có các quyết định chủ động và tích cực để hoạt động kinh doanh đạt
hiệu quả cao. Về mặt toán học thì điểm hoà vốn là điểm giao nhau của đường
biểu diễn doanh thu với đường biểu diển tổng chi phí:

Nếu gọi:
F : là∑chi phí
v: là chi phí khả biến cho một sản phẩm
Q: là sản lượng hoà vốn
g: là giá bán một đơn vị sp
Vậy∑chi phí khả biến là: VQ, ∑chi phí sản xuất là : y
1
= F + vQ
∑ doanh thu tại thời điểm hoà vốn : y
2
= gQ
Tại điểm hoà vốn ta có:
∑Dthu =∑ Chi phí
Q x g = F + vQ
Qg - vQ = F
Q(g – v ) = F
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
20
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Q =
Đồ thị của điểm hoà vốn được vẽ như sau:
Trục tung phản ánh doanh thu ( hay tổng chi phí ), trục hoành phản ánh
sản lượng hoạtđộng. Doanh thu được tượng trưng bởi đường thẳng xuất phát
từ góc độ 0, đường tổng chi phí luôn xuất phát tại F và độ dốc của nó nhỏ hơn
độ dốc của đường doanh thu. Hai đồ thị này cắt nhau tại điểm M, diểm M
( với ∑doanh thu y
2
= ∑chi phí y
1
tương ứng với sản lượng q

0
) được gọi là
điểm hoà vốn và Q
0
được gọi là sản lượng hoà vốn. Những gía trị nào của Q <
Q
0
phản ánh phạm vi sản lượng bị lỗ ngược lại giá trị nào của Q > Q
0
phản
ánh phạm vi sản lượng có lãi.

Hình 1: Đồ thị điểm hoà vốn
Cũng như các công cụ quản lý tài chính khác, mô hình phân tích điểm
hòa vốn cũng có những hạn chế của nó. Nghiên cứu mô hình này phải đặt
tronh những điệu kiện giả thiết nhất định:
- Toàn bộ chi phí được phân biệt hợp lý thành hai bộ phận là chi phí
biến đổi và chi phí cố định.
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
21
Vùng lỗ
Y
1
=y
2
DT,CP
y
F
M
Y

2
=gQ
∑CP biến đổi vQ
Đường chi phí
Chi phí cố định (F)
Y
1
=F+vQ
Viện ĐH Mở- Hà Nội
- Định phí luôn cố định trong mọi mức độ sản lượng
- Biến phí đơn vị không thay đổi với bất kể số lượng sản xuất là bao
nhiêu.
- Giá bán như nhau ở mọi mức độ của sản lượng tiêu thụ
- Doanh nghiệp chỉ tiêu thụ một loại sản phẩm.
Tuy có những hạn chế nhát định nhưng lý thuyết về điểm hoà vốn vẫn có
giá trị nghiên cứu trong lý luận và thực tiễn.
Từ những phân tích trên, ta thấy được những nhân tố nào ảnh hưởng đên
doanh thu và chi phí thì cũng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
* Nhóm nhân tố thuộc về doanh thu
- Khối lượng sản phẩm
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu vì;
Theo quan hệ toán, thì rõ ràng khối lượng sản phẩm tiêu thụ tỷ lệ
thuận với doanh thu, do đó khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng thì doanh
thu tăng, khối lượng sản phẩm tiêu thụ sản phẩm giảm thì doanh thu
giảm. Trên thực tế, doanh nghiệp phải bán được nhiều hàng thì mới hi
vọng thu được nhiều tiền.
Không phải doanh nghiệp cứ nhập về bao nhiêu hàng là có thể tiêu thụ
được hết số sản phẩm đó. Khối lượng hàng hoá tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều
yếu như quy mô của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản

phẩm, việc ký hợp đồng với khách hàng, việc giao hàng, vận chuyển và
thanh toán tiền hàng
+ Giá cả sản phẩm
Nhìn vào công thức tính doanh thu tiêu thụ sản phẩm ta thấy giá cả cũng
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
22
Doanh thu
bán hàng
=
Khối lượng sản
phẩm tiêu thụ
+
Giá bán đơn vị sản
phẩm
Viện ĐH Mở- Hà Nội
tỷ lệ thuận với doanh thu và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản
phẩm. Nếu giá cả tăng thì doanh thu tiêu thụ tăng và ngược lại( đối với từng
mặt hàng). Cùng một loại sản phẩm nhưng nếu doanh nghiệp bán ở các mức
giá khác nhau thì doanh thu khác nhau. Để đạt được doanh thu mong muốn
doanh nghiệp phải linh hoạt trong việc xác định mức giá hợp lý, vừa khuyến
khích được mọi người tiêu dùng, vừa trang trải được chi phí bỏ ra.
Hầu hết những sản phẩm có vai trò quan trọng, có tính chất chiến lược
đối với nền kinh tế quốc dân thì nhà nước sẽ còn định giá, còn các sản phẩm
khác căn cứ vào cung cầu thị trường và quyết định giá bán.
Nhìn chung, nếu đảm bảo được chất lượng sản phẩm thì giá cả sẽ trở
thành một vũ khí cạnh tranh khá sắc bén của mỗi doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp làm tốt công tác quản lý, tiết kiệm, giảm được chi phí, hạ giá thành thì
có thể hạ giá bán so với nhiều khách hàng, mở rộng thì trường, không ngừng
nâng cao được doanh thu để từ đó nhằm tăng lợi nhuận.
+Kết cấu mặt hàng tiêu thụ

Một doanh nghiệp có thể nhập về nhiều loại hàng hoá với tỷ trọng khác
nhau. Hầu hết hiện nay các doanh nghiệp đều sử dụng chính sách “đa dạng
hoá sản phẩm”, tức là nhiều loại sản phẩm. Mỗi loại có nhiều chủng loại, kích
cỡ, mầu sắc giá cả khác nhau để đáp ứng nhu cầu khác nhau. Nếu mặt hàng có
giá bán cao và chiếm tỷ trọng lớn mà sản lượng tiêu thụ tăng nhanh thì doanh
thu tiêu thụ sản phẩm tăng nhanh, ngược lại mặt hàng có giá bán thấp và
chiếm tỷ trọng nhỏ mà sản lượng tăng nhanh thì doanh thu tiêu thụ sản phẩm
có tăng nhưng tăng chậm.
Việc thay đổi kết cấu sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp không chỉ phụ
thuộc vào giá cả mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện sản xuất cụ thể
của doanh nghiệp, nhu cầu thị trường mặt hàng này tăng, mặt hàng kia giảm
Việc thay đổi kết cấu tiêu thụ trước hết là do tác động của nhu cầu thị
trường, tức là do tác động của các nhân tố khách quan. Mặt khác, để đáp ứng
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
23
Viện ĐH Mở- Hà Nội
được nhu cầu thường xuyên biến động, bản thân doanh nghiệp phải vận động
từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, bán hàng và khi đó tác động này lại là tác
động mang yếu tố chủ quan trong công tác quản lý của công ty. Từ sự tác
động của nhân tố này doanh nghiệp sẽ phải nắm bắt nhu cầu thị trường để đưa
ra những quyết định điều chỉnh hợp lý.
Như vậy, để có được kết cấu mặt hàng tiêu thụ hợp lý, đảm bảo doanh
thu tiêu thụ sản phẩm không ngừng nâng cao lợi nhuận, các doanh nghiệp cần
phải bám sát thị trường.
+ Chất lượng hàng hoá bán ra thị trường
Chất lượng sản phẩm là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản
phẩm nên nó ảnh hưởng gián tiếp đến doanh thu tiêu thụ.
Hiện nay, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, đời sống con người ngày
càng được nâng cao, kéo theo nhu cầu tiêu dùng cũng ngày càng đa dạng và
phong phú, đòi hỏi sản phẩm tiêu dùng phải tốt về mọi mặt, chất lượng cao,

giá cả vừa phải, hợp thị hiếu, điều kiện sử dụng, tiện lợi, đa dạng Cho dù sử
dụng trong thời gian ngắn hay dài hình thức sản phẩm ra sao thì người tiêu
dùng vẫn luôn mong muốn được sử dụng những sản phẩm tốt về chất lượng.
Do vậy trong nền kinh tế thị trường yếu tố chất lượng sản phẩm bị đòi hỏi gắt
gao và yếu tố cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp.
Muốn tiêu thụ được hàng, muốn thu hút được khách hàng thì doanh
nghiệp phải dành được uy tín về chất lượng sản phẩm để tạo ra ưu thế cạnh
tranh chiếm lĩnh thị trường. Một doanh nghiệp có thể có nhiều loại sản phẩm
với nhiều phẩm cấp khác nhau và các thứ hạng phẩm cấp đó đều được phép
tiêu thụ trên thị trường với giá cả phù hợp từng phẩm cấp. Giả sử các yếu tố
khác không đổi, khi nâng cao chất lượng sản phẩm thì chắc chắn sẽ tăng tỷ lệ
sản phẩm loại I, mà giá bán sản phẩm loại I bao giờ cũng cao hơn giá bán thứ
phẩm. Nên cùng một khối lượng sản phẩm tiêu thụ nhưng doanh thu tiêu thụ
đã được nâng cao hơn.
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
24
Viện ĐH Mở- Hà Nội
Như vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố giúp doanh nghiệp có thể thu
hút được đông đảo khách hàng, làm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm một cách hợp lý. Chất
lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh lợi hại, góp phần khẳng định thế đứng
của doanh nghiệp trên thị trường.
Công tác thanh toán tiền bán hàng.
Trong công tác thanh toán tiền bán hàng doanh nghiệp có thể sử
dụng nhiều hình thức thanh toán khác như thanh toán bằng tiền mặt,
chuyển khoản
Trong quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp thường bán hàng cho rất
nhiều khách hàng khác nhau, có điều kiện kinh tế và ở vị trí địa lý khác
nhau. Việc đa dạng hoá các hình thức thanh toán tiền hàng sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng khi thanh toán cho doanh nghiệp nhận

doanh thu kịp thời, đầy đủ trong công tác thanh toán, doanh nghiệp cần có
những hình thức động viên khuyến khích khách hàng để khách hàng thanh
toán ngay, nhanh gọn, để tránh hiện tượng doanh nghiệp bị chiếm dụng
vốn mà lại thu hút được nhiều khách hàng.
Mặt khác, trong tình hình thanh toán tiền hàng doanh nghiệp phải
làm tốt công tác kiểm tra tình hình chấp hành về điều khoản thanh toán ,
thời hạn thanh toán, thể thức thanh toán, đảm bảo thu đúng thu đủ, thu kịp
thời doanh thu.
*Nhóm các nhân tố thuộc chi phí
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, chi phí có quan hệ tỷ lệ
ngịch với lợi nhuận: chi phí tăng lợi nhuận giảm và ngược lại. Do vậy, lợi
nhuận chịu sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí như sau:
+ Giá vốn hàng bán hay giá thành sản phẩm tiêu thụ
Thực chất ảnh hưởng của nhân tố này là ảnh hưởng của giá thành sản
phẩm tiêu thụ. Như chúng ta đã biết, giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng
Vũ Hải Nam- K10A Quản Trị- Kinh Doanh
25

×