Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

luận văn quản trị chất lượng Nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.97 KB, 68 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
TSĐB : Tài sản đảm bảo
CIC : Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước
TTTD : Thông tin tín dụng
CVTD : Chuyên viên tín dụng
VINASME : Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
CBTD : Cán bộ tín dụng
CNH – HDH : Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
GDP : Tổng sản phẩm nội đía
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
CN : Chi nhánh
NH : Ngân hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG
Hình 1.1a: Cho vay theo hạn mức duyệt trong kỳ Error: Reference source not
found
Hình 1.1b: Cho vay theo hạn mức duyệt cuối kỳ Error: Reference source not
found
Hình 1.2: Cho vay thấu chi Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta hiện nay, sự tồn tại
và phát triển của nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều loại hình doanh nghiệp
với nhiều trinh độ khác nhau là điều tất yếu. Tuy nhiên loại hình doanh nghiệp phổ
biến nhất hiện nay, đóng vai trị cực kỳ quan trọng và là một trong những động lực
mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng của nền kinh tế chính là doanh nghiệp vừa và nhỏ.


Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là “xương sống” của nền kinh tế Việt Nam,
chiếm đến 98% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Hàng năm các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đóng góp khoảng 47% GDP của cả nước, tạo ra 40% số lượng hàng hóa
tiêu dùng và xuất khẩu, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 40% tổng ngân sách, tạo
việc làm cho khoảng 50% lực lượng lao động của doanh nghiệp… Có thể nói việc
đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là bước đi hợp với quy luật phát triển
của nước ta trong giai đoạn CNH-HDH đất nước hiện nay. Nhận thức được điều
này, ngay từ đầu Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: muốn có nền công nghiệp
tiên tiến và nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định, nhanh chóng thì phải bắt
đầu từ doanh nghiệp vừa và nhỏ để phù hợp với việc tích lũy vốn còn ít ỏi ban đầu,
tận dụng triệt để các nguồn lực để tạo ra sản phẩm có giá trị cao với chi phí thấp
trong một thời gian nhanh nhất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, tích
lũy thêm vốn để tăng tốc độ phát triển.
Nhận thức được sự phát triển và tiềm năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
Ngân hàng TMCP Bắc Á đã có chủ trương mở rộng cho vay đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ với mục đích mở rộng thị phần, tăng trưởng tín dụng và cung cấp
dịch vụ để thu phí. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng cho vay các doanh nghiệp vừa
và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn do cả những nguyên nhân khách quan cũng như các
nguyên nhân chủ quan.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên
với mong muốn tìm hiểu về nguyên nhân các khó khăn và đưa ra giải pháp giúp cho
Chi nhánh ngày càng hoàn thiện về chất lượng cho vay đối với loại hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ, em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên” làm
chuyên đề thực tập.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa những lý luận chung nhất về chất lượng tín dụng nói chung và
chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng tại các Ngân hàng
thương mại; đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế làm
cơ sở lý luận và thực tiễn đối với việc nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh

1
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng.
- Phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên, rút ra những hạn chế và
tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng
cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung vào nghiên cứu chất lượng cho vay đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào nghiên cứu chất lượng cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, đề tài sử dụng một số phương pháp
như: phương pháp thống kê và so sánh giữa các năm, phương pháp phân tích số
liệu, so sánh với các chỉ tiêu, đưa ra những kết quả đạt được trong hoạt động cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, và tìm ra những hạn chế, thiếu sót trong hoạt
động này. Ngoải ra còn kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp để đánh giá
thực trạng phát triển, đưa ra những nhận xét và biện pháp giải quyết tối ưu để nâng
cao chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng.
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết có kết cấu gồm 3 chương chính:
Chương 1: Chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Ngân hàng TMCP Bắc Á Chi nhánh Kim Liên
Qua bài viết, em xin chân thành gửi lời cám ơn tới cô giáo - , cùng với sự
giúp đỡ tận tình của anh chị trong Chi nhánh Ngân hàng Bắc Á – Kim Liên đã giúp

đỡ em hoàn thành bài viết này.
Trong quá trình thực hiện bài viết này, do thời gian và sự nhận biết còn có
nhiều hạn chế nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong tiếp tục
nhận được sự chỉ bảo hướng dẫn, bổ sung của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện
hơn nữa.
CHƯƠNG 1 : CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2
1.1.Khái quát hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.1.Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mỗi quốc gia có một điều kiện kinh tế khác nhau và có các đặc điểm riêng
biệt. Chính vì vậy sự phân loại các loại hình doanh nghiệp vì thế cũng không thống
nhất ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh
tế của nước đó thì được xem là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong môi trường
kinh tế của quốc gia khác thì lại được xem là doanh nghiệp lớn, hoặc là doanh
nghiệp cực nhỏ. Tương tự, tại một thời điểm trong quá khứ một doanh nghiệp được
xem là lớn nhưng đến hiện tại lại chỉ được xét là có quy mô vừa. Cho nên khi nói
đến doanh nghiệp vừa và nhỏ ta phải xét các doanh nghiệp đó đang nằm trong quốc
gia nào, trong một môi trường kinh tế như thế nào và tại thời điểm nào. Nói cách
khác, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một nước,
một khu vực và tại một thời điểm nhất định. Tuy vậy, việc đưa ra định nghĩa về
doanh nghiệp nhỏ và vừa cho riêng mình lại đóng vai trị quan trọng trong chiến
lược phát triển của mỗi quốc gia. Thực tiễn đã chứng minh một quốc gia có một
định nghĩa càng rõ ràng thì càng có những chính sách hỗ trợ đưa ra càng hiệu quả.
Thông thường, định nghĩa về các loại hình doanh nghiệp dựa trên những nhóm chỉ
tiêu đinh tính và định lượng, trong đó, nhóm chỉ tiêu định lượng đóng vai trị quyết
định trong việc phân biệt các nhóm doanh nghiệp. Có 3 chỉ tiêu thường đươc áp
dụng là: số lao động, số vốn đầu tư vào máy móc dây truyền sản xuất và mức doanh
thu hàng năm. Về mặt định tính, các chỉ tiêu thường được xem xét là cơ cấu của
công ty, số lượng người quản lý, người ra quyết định chính, ngành nghề kinh doanh

và các rủi ro có thể xảy ra. Đối với hầu hết các nước trên thế giới sự phân loại
doanh nghiệp vừa và nhỏ không liên quan đến các hình thức sở hữu cũng như tư
cách pháp nhân của doanh nghiệp, tức là khái niệm sẽ được áp dụng chung cho các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, cơng ty hợp danh, công ty tư nhân.
Thực vậy, ở Việt Nam hiện nay, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và thay thế cho Nghị định số 90/2001/NĐ-CP
ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chinh phủ đã đưa ra tiêu chí phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh
doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa theo
quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định
trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm
(tổng nguồn vốn là chỉ tiêu ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Phân loại doanh nghiệp
3
Quy mô Doanh nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng
nguồn vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao
động
I. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng

trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương mại và
dịch vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng

trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50
người đến
100 người
Bảng: Tiêu chí phân loại DNVVN ở Việt Nam (theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP)
Việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ như trên rất phù hợp với thực tế
khách quan của nước ta, vì nền kinh tế nước ta còn đang phát triển, các doanh
nghiệp với nguồn vốn có hạn, tuy nhiên với nguồn lao động dồi dào đã phần nào
đáp ứng được yêu cầu bức bách của xã hội là đảm bảo công ăn việc làm, giảm bớt
số người thất nghiệp, nâng cao đời sống của người dân lao động, từng bước đưa đất
nước tiến kịp với khu vực và thế giới.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chúng ta thấy rằng không chỉ riêng ở Việt Nam, tại hầu hết các quốc gia trên
thế giới, loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
số các doanh nghiệp đang tồn tại, phát triển ở từng nước và đặc biệt chiếm một vị trí
rất quan trọng trong nền kinh tế của quốc gia đó bởi vì có rất nhiều lĩnh vực kinh tế
cần đến sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh,
đảm bảo và ổn định kinh tế, phòng ngừa khủng hoảng kinh tế. Đặc biệt là trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, nơi sự cạnh tranh ngày một gay gắt, hầu hết các nước
trên thế giới đều chú ý đến việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm huy
động tối đa nguồn lực có sẵn của đất nước mình. Bên cạnh đó, xét về phương diện
lịch sử, ở bất kì ở đất nước nào dự có nền công nghiệp phát triển đến đâu thì những
tập đoàn, công ty kinh tế hùng mạnh như ngày nay thì sự khởi đầu của các công ty,

tập đoàn này cũng xuất phát từ những doanh nghiệp thủ công sản xuất nhỏ. Và để
có những tập đoàn hùng mạnh thì trong quá trình phát triển của mình, các doanh
nghiệp phải có sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh, thôn tính,
sát nhập giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước để hình thành nên các tập đoàn
kinh tế lớn như ngày nay. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những đặc
4
điểm như sau :
1.1.1.1. Những điểm mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chúng ta thấy rằng loại hình doanh nghiệp này tồn tại và phát triển ở hầu hết
các lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động ở các
lĩnh vực thương mại, dịch vụ cũng như ở lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và nông –
lâm – ngư nghiệp; hoạt động dưới nhiều hình thức như doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài… Vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có 3 điểm mạnh sau:
a. Tổ chức quản lý gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí:
Với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất cũng như bộ máy
quản lý trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ tương đối nhỏ gọn, không có quá nhiều
các khâu trung gian. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, các
quyết định, chế độ, chỉ tiêu… đến với người lao động một cách nhanh chóng.
Không phải qua nhiều khâu trung gian, tiết kiệm được chi phí cho quản lý doanh
nghiệp.
b. Có thể nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với các cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại:
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ là những tác động mạnh mẽ
của nó đối với nền kinh tế, trong từng phương pháp hoạt động sản xuất kinh doanh,
trong việc thay dổi trang thiết bị máy móc, tăng năng suất lao động, rút ngắn thời
gian tồn tại của một mặt hàng. Công nghệ cao hơn giúp cho sản xuất ra được những
mặt hàng có nhiều ưu điểm hơn vì vậy doanh nghiệp luôn cố gắng để đáp ứng máy
móc có công nghệ mới nhất. Bên cạnh đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đầu tư
ban đầu tương đối nhỏ, nhưng có thể thu hồi vốn nhanh và hiệu quả. Với số vồn

đăng ký ban đầu không quá 100 tỷ đồng, chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn, nên các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thu hồi vốn nhanh, vốn quay vòng đầu tư vào
công nghệ, thiết bị mới, tiên tiến, hiện đại vì thế cũng nhanh và tạo điều kiện cho
doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn. Như vậy với đặc điểm nguồn vốn đầu tư
ban đầu không lớn các doanh nghiệp vừa vả nhỏ có lợi thế hơn nhiều so với các
doanh nghiệp lớn.
c. Năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh
Nhờ quy mô vừa và nhỏ, mô hình tổ chức quản lý đơn giản nên những doanh
nghiệp vừa và nhỏ rất năng động, linh hoạt, dễ chuyển hướng sản xuất kinh doanh,
đi vào những ngành nghề khác khi thấy lĩnh vực ấy có lợi hơn. Cùng với đó doanh
nghiệp vừa và nhỏ khi chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh không gặp nhiều khó
khăn như doanh nghiệp lớn. Trong khi đó doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có thể nắm
bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực và địa phương. Điều này càng
5
làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác hết năng lực của mình, đạt hiệu quả
kinh tế cao nhất.
Với quy mô vừa và nhỏ, gọn nhẹ vốn đầu tư ít, lại tham gia ở mọi ngành
nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mọi thành phần kinh tế, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có tính linh hoạt, năng động, nhạy bén trong kinh doanh, có khả năng thích
ứng nhanh với các biến động, thay đổi của nền kinh tế trong nước và thế giới. Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có sự chủ động trong kinh doanh, có khả năng chuyển đổi
mặt hàng nhanh, có thể thay đổi nhanh chóng, thích nghi kịp với những biến động
của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội, của giá cả, thị trường, cũng như
những đòi hỏi về sản phẩm, dịch vụ theo nhu cầu, thị hiếu, khả năng… của người
tiêu dùng mà các doanh nghiệp lớn khó bắt kịp; qua đó tạo ra nhiều loại hàng hóa
và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Như vậy, có thể nói các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế hơn các doanh nghiệp
lớn trong việc định hướng và làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới từ phía người tiêu
dùng theo một khía cạnh nào đó.
d. Nguồn lao động dồi dào

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có nguồn vốn ít, do đó, vốn đầu tư vào
tài sản cố định cũng không nhiều, vì thế họ thường tận dụng nguồn lực sẵn có, đặc
biệt là lao động để thay thế cho vốn, nhất là trong điều kiện như nước ta – một nước
đông dân, nguồn lao động vô cùng dồi dào, giá nhân công rẻ, để tiến hành sản xuất
kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội. Quan hệ lao động trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các doanh
nghiệp lớn. Chính vì vậy mà người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động
viên, khuyến khích hơn trong công việc, điều đó góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp. Chính điều trên giúp cho một bộ phận lớn
người dân có công ăn việc làm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những tỏ động tích
cực trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư tại địa phương,
góp phần duy trì và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống.
Bên cạnh đó, việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn góp phần tích
cực trong việc giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa người giàu và
người nghèo, giữa trung du và đồng bằng; qua đó, giúp Chính phủ giải quyết một
phần các vấn đề kinh tế xã hội, góp phần làm giảm tệ nạn xã hội.
1.1.1.2. Những hạn chế khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bên cạnh những điểm mạnh, ưu điểm thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
gặp rất nhiều khó khăn như :
a. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm lực về vốn và tài chính rất hạn chế
Vốn là vấn đề lớn nhất của doanh nghiệp, có vốn thì doanh nghiệp mới có
6
thể sản xuất kinh doanh, mua thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất, thuê nhân công
có chất lượng cao và đào tạo nhân công. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, vốn là
yếu tố đặc biệt quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đề gặp rất nhiều khó khăn về vốn khi bước vào hoạt
động. Với lượng vốn đầu tư nhỏ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tìm mọi cách
tận dụng tối đa mọi điều kiện sản xuất của mình. Vì vậy các doanh nghiệp vừa và
nhỏ khó có một môi trường sản xuất lý tưởng để tạo ra những sản phẩm dịch vụ có
chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ những mong đợi của người tiêu dùng.

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn tài chính rất hạn chế, nhất là nguồn
để mở rộng quy mô doanh nghiệp và khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng còn
thấp. Việc tạo ra nguồn vốn kinh doanh thường là một khó khăn đối với các doanh
nghiệp, không chỉ doanh nghiệp vừa và nhỏ mà kể cả doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên,
với những lợi thế của mình chẳng hạn như tốc độ quay vòng nhanh, nên các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như vay mượn
bạn bè, người thân, sử dụng tín chấp thương mại… để tồn tại và phát triển.
b. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ
sản xuất lạc hậu
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu được hoạt động dựa vào những thiết
bị và công nghệ thủ công, lạc hậu. Trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện
nay, để thành công ngoài yếu tố vốn và lao động ra thì công nghệ, máy móc, trang
thiết bị, các phương pháp sản xuất là yếu tố mà bất kể doanh nghiệp nào cũng cần
phải quan tâm. Việc ứng dụng và đổi mới công nghệ giúp doanh nghiệp tăng năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và nâng cao năng lực
cạnh tranh. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng hạn chế này thường bắt nguồn từ việc
thiếu vốn để đầu tư mua sắm máy móc hiện đại, nâng cao công nghệ. Thiết bị công
nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam còn lạc hậu nhiều so với nhiều
nước khác, ở các nước phát triển, công nghệ và trang thiết bị của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thường rất hiện đại không thua kém các doanh nghiệp lớn nhiều mặc dù
chúng có quy mô vốn đầu tư và số lao động nhỏ hơn nhiều.
Một nguyên nhân khác là do các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian
trước đây chưa tiếp cận với thị trường công nghê, máy móc kĩ thuật tiên tiến của các
nước phát triển trên thế giới. Với một ngành phát triển mạnh như điện tử và tin học
(mặc dù có tốc độ phát triển nhanh đạt trên 20%/năm), có điều kiện tiếp cận công
nghệ mới nhưng trình độ công nghệ còn rất thấp. Mặc dù nhiều doanh nghiệp đã cố
gắng đầu tư đổi mới trang thiết bị cũng như chuyển giao được công nghệ mới
nhưng chỉ là ở từng phần, từng công đoạn chứ chưa phải là đồng bộ nên khó bắt kịp
7
thế giới.

c. Trình độ tay nghề của công nhân thấp
Đây là một trong những hạn chế rất lớn đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Có thể là do vẫn còn ảnh hưởng từ cơ chế cũ hoặc do sự cạnh tranh về mức
lương nên nhiều người có trình độ cao đều có xu hướng đi làm cho khu vực quốc
doanh hoặc liên doanh với nước ngoài. Trong khi đó ở những doanh nghiệp vừa và
nhỏ, do sự hạn chế về vốn dẫn đến là khó có thể đưa ra một mức lưỡng ưu đãi với
người lành nghề.
Mặt khác, những doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không đủ khả năng tài chính
để tổ chức các lớp đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân một cách đầy đủ được.
Phần lớn tại các doanh nghiệp này thì hình thức vừa đào tạo vừa thông qua sự
truyền thụ kinh nghiệm từ những người có kinh nghiệm lâu năm cho những người
mới vào làm. Sự đào tạo không có bài bạn dẫn đến sự hận chế rất lớn cho sự tiếp
cận với những công nghệ hiện đại, khiến doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều
khó khăn khi phải đổi mới công nghệ vì không có nguồn nhân lực để vận hàng các
công nghệ này.
d. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong việc tiếp cận và xử lý
các thông tin thị trường
Hiện nay tuy là chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh nghiệp nhưng các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm một phần thị trường nhỏ trong khi các doanh
nghiệp lớn luôn chiếm thị phần lớn và tìm mọi cơ hội để mở rộng thị trường của
mình. Chính vì vậy, các doah nghiệp vừa và nhỏ luôn gặp rất nhiều áp lực để duy trì
việc tiêu thị sản phẩm cũng như tiếp tục sản xuất kinh doanh.
Trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thực sự chú trọng đến việc
nắm bắt cơ hội, khai thác thông tin về thị trường vốn, thị trường nguyên vật liệu, thị
trường lao động, thị trường đầu ra, thị trường xuất khẩu… Với năng lực còn hạn chế
của mình thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể đưa ra những phân tích, dự
đoán chính xác về xu hướng thị trường để bắt kịp với sự biến đổi không ngừng
trong nhu cầu của người tiêu dùng.
e. Chiến lược sản xuất kinh doanh mang tính “thời vụ”
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều chiếm một thị phần rất nhỏ bộ trên

thị trường do vậy các doanh nghiệp này thường đứng ở thế bị động. Đây là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sự mất ổn định trong sản xuất các những doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể đưa ra những kế hoạch sản xuất
mang tính “thời vụ”, ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu tức thì của thị trường trong một
thời điểm nào đó mà khó ó thể có khả năng đưa ra chiến lược sản xuất kinh doanh
lâu dài cho riêng doanh nghiệp của mình. Nếu người quản lý không thể đưa ra
8
hoạch định mộ chiến lược lâu dài và linh hoạt cho riêng doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến
sự phá sản, đổ vỡ của doanh nghiệp khi có những biến động bất thường của thị
trường. Mà điều này thì phụ thuộc rất nhiều vào bản thân doanh nghiệp.
g. Năng lực quản lý còn hạn chế, thiếu hiểu biết pháp luật, năng lực cạnh
tranh không cao
Ở nước ta hiện nay, phần lớn các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ đều quản lý
doanh nghiệp của mình dựa trên kinh nghiệm.Trong khi đó trong môi trường kinh
doanh hiện đại, người chủ doanh nghiệp cần có trình độ cơ bản về quản lý doanh
nghiệp từ đó áp dụng chế độ quản lý phù hợp với tính chất và đặc điểm của doanh
nghiệp mình.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình còn non trẻ, chủ yếu vẫn là các doanh
nghiệp mang tính chất gia đình. Do vậy, trình độ quản lý và điều hành thường theo
thói quen, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý theo đinh hướng hiện đại còn thiếu. Cũng
phải nói thêm rằng, chính vì trình độ chuyên môn cũng như học vấn không cao nên
nhiều chủ doanh nghiệp còn chưa hiểu biết cặn kẽ về pháp luật cũng như thiếu ý
thức tuân thủ pháp luật. Để có thể phát triển một cách bền vững, các doanh nghiệp
cần tuân theo những quy định do pháp luật đặt ra để tránh các rắc rồi phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Một số vấn đề rất mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ
rất hay gặp phải đó là: chuyển giao công nghệ, giá trị thương hiệu, giá trị bản
quyền… Đồng thời nếu hiểu biết về pháp luật thì những doanh nghiệp này cũng sẽ
nắm bắt được các cơ hội được tạo ra nhờ sự thay đổi trong những chính sách của
nhà nước, tận dụng được môi trường kinh tế cạnh tranh bình đẳng được nhà nước
đảm bảo để phát triển.

So với các nước trên thế giới, những doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
phân tán hơn, khả năng liên kết với nhau và với các doanh nghiệp lớn còn rất hạn
chế. Ngoài ra, ý chí vươn lên của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cũng
chưa thực sự mạnh mẽ. Đa phần còn tâm lý bán cái mình có chứ chưa phải là bán
những thứ thị trường và người tiêu dùng cần. Thêm vào đó là sự kém chủ động,
không nhanh nhạy trong việc tìm kiếm thị trường cũng khiến cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ khó mà phát triển trở thành các tập đoàn, công ty lớn.
Tóm lại, bên cạnh việc phát triển các doanh nghiệp lớn – những doanh
nghiệp mang tính chất chiến lược thì việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng hết sức quan trọng. Từ những ưu thế và hạn chế của những doanh nghiệp vừa
và nhỏ thì ta có thể thấy rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình kinh tế rất quan
trọng và tiềm năng. Vì thế, để nâng cao và phát triển loại hình doanh nghiệp này,
bên cạnh các nhân tố khách quan thì tự bản thân những doanh nghiệp vừa và nhỏ
cần biêt phát huy những ưu điểm và thuân lợi của mình. Song song với việc này thì
9
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần khắc phục những hạn chế, khó khăn để có
thể tồn tại vững chắc và phát triển bền vững, tọa ra tiếng nói và uy tín trên thị
trường, cho thấy tầm quan trọng của mình đối với nền kinh tế.
1.1.3. Nhu cầu về vốn vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Với tình hình và điều kiện thực tại của nền kinh tế nước Việt Nam hiện nay,
sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là cách tốt nhất để đánh thức, khai thác
và phát triển những tiềm năng trong dân cư. Với số vốn ít ỏi, những doanh nghiệp
vừa và nhỏ sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm để đầu tư vào những lĩnh vực mới mẻ với
độ rủi ro cao. Trong khi đó, các doanh nghiệp lớn thì lại thận trọng và có phần dè
dặt hơn trong việc khai thác các lĩnh vực mới mẻ, bởi vì nếu gặp phải rủi ro thì tổn
thất của họ sẽ rất lớn. Song muốn đầu tư vào các lĩnh vực mới thì các doanh nghiệp
vừa và nhỏ gặp phải một vấn đề rất nan giải mà luôn tồn tại là không có đủ vốn.
Chúng ta biết rằng, vốn là điều kiện tiên quyết đầu tiên để một doanh nghiệp
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn có ý nghĩa rất quan trọng trong suốt
quá trình hoạt động của một doanh nghiệp vì vốn duy trì hoạt động và đảm bảo cho

sản xuất được liên tục, giúp mở rộng và phát triển của doanh nghiệp đó. Mà nhu cầu
về vốn kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn, bao gồm cả ngắn hạn,
trung và dài hạn, trong đó nhu cầu vốn ngắn hạn xuất hiện mang tính thời vụ của
hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất thương
mại là cực kỳ cần thiết. Chính thiếu vốn dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không có
điều kiện chọn lựa mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, cùng với đó là đầu
tư vào đổi mới các thiết bị và công nghệ. Vốn và làm cách nào để có thể vay được
vốn luôn là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nhưng đây là một vấn đề rất nan giải và khó giải quyết. Trong đó, vốn vay ngân
hàng là một trong các nguồn vốn quan trọng vào bậc nhất trong hoạt động và phát
triển của các doanh nghiệp cũng như trên cả toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vốn vay
từ ngân hàng có thể đảm bảo nguồn tài chính cho những hoạt động sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hay đầu tư phát triển
theo hướng chiều sâu của doanh nghiệp. Tuy có nhiều ưu điểm nhưng đối với
nguồn vốn này thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ không hề dễ dàng để có thể tiếp
cận. Bởi vì để có thể vay được vốn từ các ngân hàng thì các doanh nghiệp phải đáp
ứng rất nhiều các điều kiện tín dụng ngặt nghèo, bên cạnh đó là phải chịu sự kiểm
soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất vay vốn) không hề thấp. Mà bên
cạnh đó thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có tài chính nội tại thuộc loại thấp,
không có tài sản có giá trị cao để làm tài sản đảm bảo, cùng với đó là các chỉ tiêu tài
chính thường không đảm bảo yêu cầu của các ngân hàng Hơn thế nữa, các ngân
hàng và tổ chức tín dụng, Chính phủ và cả các phương tiện truyền thông thường
10
dành nhiều ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp lớn, do đó doanh nghiệp vừa và nhỏ
lại càng khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng này.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động vốn nợ thông qua
việc sử dụng tín dụng thương mại. Nguồn tín thương mại này thường được hình
thành một cách rất tất yếu và tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả
chậm hay trả góp, cũng như là đặt cọc trước tiền. Nó chính là một phương thức tài
trợ rẻ, linh hoạt và tiện dụng trong kinh doanh, nó tạo ra khả năng mở rộng các quan

hệ hợp tác kinh doanh tín nhiệm lâu dài, bền vững giữa các chủ thể kinh tế với
nhau. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng ẩn chứa rất nhiều rủi ro trong khi quy mô tài
trợ vốn quá lớn sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp dễ dàng chiếm dụng vốn của
nhau.
Tóm lại, chúng ta có thể nhận thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp đều muốn
mở rộng và phát triển quy mô hoạt động của mình, cùng với đó là không ngừng đổi
mới công nghệ để trở thành các doanh nghiệp lớn hơn. Với một lực lượng đông đảo
và hùng hậu, có thể nói nhu cầu vay vốn của nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất
lớn. Đây chắc chắn là một thị trường tiềm năng cho các Ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, như đã đề cập ở trên thì việc để các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay được vốn
ngân hàng là rất khó, hơn nữa thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là các doanh
nghiệp mới thành lập, chưa có bề dày và uy tín trên thương trường cũng như là
thiếu tài sản thế chấp để đảm bảo khi muốn vay vốn của ngân hàng hay là của các tổ
chức tính dụng, do đó rủi ro về phía cho vay (ngân hàng và các tổ chức tín dụng) là
rất cao. Vì thế, ngân hàng luôn e ngại và dè dặt khi cho loại hình doanh nghiệp vừa
và nhỏ vay vốn, dẫn đến tình trạng vốn ngân hàng thì ứ đọng, còn doanh nghiệp thì
vẫn thiếu vốn trầm trọng. Đó tuy là một nghịch lý nhưng cũng là một tất yếu trong
nền kinh tế Việt Nam hiện nay mà vẫn chưa có cách giải quyết thấu đáo và triệt đệ.
1.2. Tổng quan về chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng
thương mại
Cho vay là một trong những nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu mang lại phần
lớn thu nhập cho Ngân hàng thương mại. Vì thế để hiểu rõ hơn, chúng ta cần tìm
hiểu thêm về những nét đặc trưng quan trọng của nghiệp vụ này.
1.2.1. Quan niệm về chất lượng cho vay
Cho vay là phương thức tài trợ có tình truyền thống của nghề Ngân hàng.
Hình thức biểu hiện cụ thể là: Ngân hàng chuyển tiền cho khách hàng sử dụng theo
yêu cầu và mục đích sử dụng của khách hàng khi khách hàng đáp ứng được những
yêu cầu mà Ngân hàng đưa ra dành cho khách hàng.
Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ban hành ngày 31/12/2001 của
11

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức
tín dụng hoặc ngân hàng thương mại giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền
để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định, theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả gốc và lãi”. Định nghĩa này được các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác
áp dụng và xem làm tiền đề căn bản cho các hoạt động cho vay của mình.
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động phổ biến nhất của Ngân
hàng thương mại. Đây cũng là hoạt động mang lại nguồn thu lớn và chủ yếu cho các
Ngân hàng thương mại Việt Nam, nhưng đồng thời đây lại là hoạt động chứa nhiều
rủi ro nhất. Do đó, việc đảm bảo chất lượng cho vay sẽ là vấn đề có tính quyết định
đến kết quả cho vay của Ngân hàng. Vì thế, mỗi ngân hàng đều cần chú ý đến việc
nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
vừa và nhỏ nói riêng để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng
khác, và tăng thêm nguồn thu cho chính bản thân ngân hàng đó.
Xét trên góc độ của ngân hàng, chất lượng cho vay có thể hiểu là việc ngân
hàng đấp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ với một mức độ
cho phép, đảm bảo tính an toàn, tồn tại cùng với sự phát triển và tăng trưởng của
ngân hàng; phù hợp với tình hình nền kinh tế trong và ngoài nước, bên cạnh đó là
theo kịp sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chất lượng cho vay được phản ánh
dựa trên phạm vi, mức độ giới hạn khoản vay phải phù hợp với năng lực bản thân
nội tại của ngân hàng, đồng thời phải đảm bảo được tính cạnh tranh, tuân thủ quy
tắc hoàn trả đúng hạn. Đó là sự gia tăng hợp lý của các chỉ tiểu như mức dư nợ, tỷ
lệ nợ quá hạn phải ở mức thấp, lợi nhuận đạt được tốt, đồng thời phải đảm bảo mức
cân đối nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn.
Đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, chất lượng cho vay là sự thỏa
mãn yêu cầu của khách hàng về thủ tục cho vay đơn giản, dễ dàng tiếp cận, điều
kiện cho vay thông thoáng cùng với đó là một mức lãi suất hợp lý Chất lượng cho
vay còn thể hiện ở việc vốn vay ngân hàng được doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả
không, đem lại lợi nhuận như thế nào cho doanh nghiệp cùng với đó là giúp cho
doanh nghiệp chi trả chi phí hoạt động cũng như có thể trả được nợ đã vay cho ngân

hàng.
Trên góc độ nền kinh tế, cũng như đối với sự phát triển kinh tế xa hội thì
chất lượng cho vay thể hiện ở việc có tạo ra được những hiệu quả kinh tế xã hội hay
không, ví dụ như: phục vụ tốt hơn cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần
giải quyết vấn đề việc làm, thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội, khai thác các nguồn
lực có hiệu quả, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế Bởi vì
12
ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, có
ảnh hưởng và tác động rất sâu rộng đến mọi hoạt động trong nền kinh tế, và là một
kênh rất quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn kinh và phát
triển nền kinh tế của đất nước.
Tóm lại, có thể thấy rằng chất lượng cho vay là một trong những chỉ tiêu rất
quan trọng nhằm phản ánh khả năng thích nghi của một ngân hàng đối với sự thay
đổi của môi trường kinh tế, thể hiện sức mạnh của ngân hàng đó trong cạnh tranh
với các ngân hàng khác. Chất lượng cho vay của ngân hàng càng cao thì hiệu quả
càng cao, độ uy tín và tin cậy của ngân hàng đó càng lớn, từ đó Ngân hàng thương
mại có điều kiện và trách nhiệm hơn trong việc mở rộng những sản phẩm dịch vụ
của mình, thu hút thêm nhiều vốn, tạo điều kiện mở rộng và tăng cường cho vay,
nâng cao chất lượng cho vay. Như vậy, ta có thể thấy rằng nâng cao chất lượng cho
vay đem lại rất nhiều lợi ích cho cả Ngân hàng thương mại, cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, cũng như là cho cả nền kinh tế của đất nước.
1.2.2. Các hình thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việc phân loại cho vay một cách khoa học là tiền đề để thiết lập các quy
trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Các Ngân
hàng thương mại có thể phân loại cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa theo một
số tiêu thức cơ bản sau:
1.2.2.1. Dựa vào thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian tính từ khi doanh nghiệp bắt đầu nhận
vốn vay từ ngân hàng cho đến thời điểm hoàn trả nợ gốc và lãi, điều này đã được

thỏa thuận thống nhất trong hợp đồng tín dụng giữa 2 bên. Theo tiêu thức này, cho
vay có thể chia làm 3 loại:
Cho vay ngắn hạn: các khoản cho vay có thời gian tối đa là 1 năm. Mục
đích của loại tài sản cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu
động hoặc bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp.
Cho vay trung hạn: các khoản cho vay có thời gian từ 1 năm đến 5 năm.
Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư, cải tiến
hoặc đổi mới trang thiết bị, công nghệ, đầu tư mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản
xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh. Ngoài ra, đây còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục địch của
loại cho vay này chủ yếu là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư, để đáp ứng
các nhu cầu dài hạn như mua sắm các thiết bị, dây chuyền sản xuất, phương tiện
vận tải quy mô lớn, xây dựng nhà xưởng mới, xí nghiệp mới, nhà ở, các công trình
13
dân dụng, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản
Tiêu thức phân lại này có một ý nghĩa quan trọng đối với các Ngân hàng
thương mại, vì thời gian liên quan tới sự an toàn và tính sinh lợi của các khoản cho
vay, cũng như khả năng hoàn trả khoản vay của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Dựa vào mục đich vay vốn
Ta có thể chia các khoản vay thành:
• Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công nghiệp và thương mại: là
loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực
công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
• Cho vay mua bán bất động sản: là loại cho vay liên quan đến mua sắm,
xây dựng nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ…
• Cho vay hỗ trợ xuất – nhập khẩu: là loại cho vay nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp trong lĩnh vực mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu.

• Cho vay tiêu dùng cá nhân: là các khoản cho vay nhằm tài trợ nhu cầu
chi tiêu của người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình.
1.2.2.3. Dựa vào phương thức đảm bảo
• Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 mà chỉ cần dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng vay vốn để quyết định cho vay, loại hình thức cho vay này còn gọi là tín chấp.
Cho vay tín chấp chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp lâu năm, có uy tín trên
thị trường, có khả năng tài chính mạnh, hoạt động kinh doanh hiệu quả.
• Cho vay có tài sản đảm bảo: là loại hình cho vay dựa trên cơ sở các đảm
bảo cho tiền vay như thế chấp, cầm cố tài sản của doanh nghiệp vay vốn, đảm bảo
bằng tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba (bên thứ 3).
Đối với các doanh nghiệp không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi cho vay thì
ngân hàng cần phải có tài sản để đảm bảo doanh nghiệp sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ
của mình. Trong đó:
Cho vay thế chấp tài sản: là hình thức cho vay mà doanh nghiệp dựng tài sản
là bất động sản thuộc sở hữu của mình, hoặc giá trị quyền sử dụng đất hợp pháp để
thế chấp cho ngân hàng khi vay vốn.
Cho vay cầm cố tài sản: là hình thức doanh nghiệp giao tài sản là động sản
thuộc sở hữu của mình (gồm tài sản thực như xe cộ, máy móc, hàng hóc; tiền mặt,
tiền trong các tài khoản; các giấy tờ có giá, quyền tài sản phát sinh từ quyền sở hữu,
quyền tác giả…) cho ngân hàng.
1.2.2.4. Dựa vào phương thức cho vay
• Cho vay từng lần: là phương pháp áp dụng đối với những doanh nghiệp có
14
nhu cầu vay vốn từng lần, đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất. Nghiệp vụ cho
vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt.
Ngân hàng xác định cho vay theo công thức:
Nhu cầu vốn ngân hàng = Tổng nhu cầu vốn của phương án, dự án – vốn lưu động
tự có hoặc liên doanh.
Mỗi món vay, khách hàng phải làm đơn xin vay kiêm giấy nhận nợ và hoàn

tất hồ sơ trong bộ hồ sơ tín dụng. Ngân hàng phải xem xét và giải quyết căn cứ vào
số tiền cho vay đã được giám đốc ngân hàng duyệt, nhân viên tín dụng theo dõi phát
tiền vay một lần hoặc nhiều lần theo tiến độ nhận nợ với ngân hàng nhưng tổng dư
nợ ngân hàng không vượt mức cho vay cao nhất trong quý. Mỗi món vay được quy
định thời hạn trả nợ cuối cùng. Mỗi lần vay được quy định thời hạn trả nợ cụ thể,
nhưng kỳ hạn trả nợ của mỗi món vay không vượt quá thời hạn trả nợ cuối cùng của
món vay. Kỳ hạn nợ được ấn định phải trả vào lúc doanh nghiệp xin vay hết chu kỳ
chu chuyển. Nếu đến kỳ hạn nợ mà bên vay không có dư tiền để trả thì họ cần phải
làm đơn xin ra hạn nợ. Thời gian gia hạn nợ sẽ không vượt quá thời gian cho vay
trước đây hoặc không vượt quá chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu
không có lý do chính đáng thì ngân hàng sẽ thực hiện việc chuyển nợ quá hạn và
thông báo cho bên vay biết. Trường hợp cuối cùng vì lý doanh nghiệp đặc biệt mà
bên vay không trả được nợ thì một mặt đơn vị vay vốn phải xin gia hạn và mặt khác
ngân hàng gửi hồ sơ trình cấp trên xin được khoanh nợ. Sau khi được chính phủ cho
phép khoanh nợ thì đơn vị vay vốn sẽ được tiếp tục vay vốn ngân hàng. Nếu đến kỳ
hạn trả nợ mà người đi vay không đủ tiền để trả ngân hàng sẽ thu lãi trước còn bao
nhiêu trừ vào nợ gốc hoặc thu tương ứng gốc và lãi.
• Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận, cho vay trả góp thường
được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc
hàng hóa lâu bền. Theo phương thức này ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn
thỏa thuận mức cho vay, thời hạn vay vốn, lãi suất cho vay và số kỳ hạn trả góp để
xác định một mức trả góp trong suốt thời hạn vay. Bên cạnh đó là một số đặc điểm
của phương thức này là:
Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ
(thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án hoặc từ thu nhập hàng kì của
người tiêu dùng)
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã
mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng và

làm đại lí thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là
15
hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhắm khuyến khích tiêu
thụ hàng hóa.
Cho vay trả góp có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hóa
mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu
người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng
cũng bị ảnh hường. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao
nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
• Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa
thuận cung cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng có thể tính cho
cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng có thể
được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn
của khách hàng.
Hình 1.1a: Cho vay theo hạn mức duyệt trong kỳ
Hình 1.1b: Cho vay theo hạn mức duyệt cuối kỳ
Trong ngắn hạn:
Hạn mức tín dụng ngắn hạn= Nhu cầu vốn lưu động kế hoạch – (Nguồn vốn
KD ngắn hạn + Nguồn vốn coi như tự có + Nguồn vốn khác)
Trong đó: Nguồn vốn kinh doanh ngắn hạn là một phần nguồn vốn kinh
doanh được sử dụng cho các nhu cầu về TSCĐ
16
Nguồn vốn coi như tự có là tất cả các số dư các quỹ, lợi nhận chưa phân phối
và khoản chênh lệch tăng giá vật tư theo quyết định của nhà nước.
Nguồn vốn khác bao gồm vay ngân hàng khác hoặc vay đối tượng khác, vay
nội bộ của công ty…
Trong dài hạn: Hạn mức tín dụng trong dài hạn thể hiện số vốn tín dụng của
ngân hàng tham gia vào công trình hay dự án đầu tư, doanh nghiệp đó giúp cho đơn
vị chủ đầu tư có đủ vốn để thực hiện công trình hay chủ đầu tư thực hiện kế hoạch
đã đề ra. Hạn mức tín dụng đầu tư không những giúp cho đơn vị tổ chức kinh tế

thực hiện việc cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa dây chuyền công nghệ mà còn góp phần
đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sỏ vật chất của nền kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Hạn mức tín dụng trong dài hạn = Tổng dự toán chi phí – Nguồn vốn đầu tư tự có.
• Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người
vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định vào khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Hình 1.2: Cho vay thấu chi
Hạn mức thấu chi: Được xác định trên cơ sở số dư bình quân tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng và tỷ lệ hạn mức thấu chi thỏa thuận giữa hai bên.
Số lãi mà khách hàng phải trả = Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số
tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ bị lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng
hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu chi cựa khách hàng không phù hợp về thời gian
và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dựa vào dự đoán ngân quỹ song
không chính xác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng trong quá trình thanh toán chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín
dụng ngắn hạn, linh hoạt thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể
cấp cho cả doanh nghiệp và cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dựng
để trả lương, chi các khoản phải nộp mua hàng.

Cho vay theo dự án đầu tư: là hình thức ngân hàng cho doanh nghiệp
17
vay vốn khi họ có kế hoạch mua sắm tài sản cố định, xây dựng nhà xưởng mới
nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Nếu tính
được hiệu qủa kinh tế, có tính khả thi mà thiếu vốn thì ngân hàng sẽ cho vay theo
dự án đầu tư giúp đơn vị chi đầu tư hoàn thành dự án đầu tư. Ngân hàng cùng khách
hàng ký hợp đồng tín dụng và thỏa thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian
đấu tư của dự án, phân định các kỳ hạn nợ, lãi suất…

Mức cho vay = Tổng nhu cầu vốn của phương án, dự án – Vốn tự có của chủ
dự án tham gia – Vốn khác (nếu có)
Thời hạn vay = Thời gian xây dựng cơ bản + Thời gian trả nợ
Việc cho vay theo dự án đầu tư, ngân hàng cần phải kết hợp với các hình thức
cấp tín dụng khác như: Thực hiện bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ dự thầu, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, có như vậy ngân hàng mới thu được doanh thu cao nhất.
Cho vay theo phương thức này thường là dự án lớn cần có nguồn vốn lớn,
ngân hàng cần có thời gian huy động do vậy ngân hàng và khách hàng thỏa thuận
mức phí trả trong trường hợp khách hàng trả trước hạn, phí cam kết trả một phần
chi phí huy động của ngân hàng, trong trường hợp khách hàng đã ký hợp đồng tín
dụng nhưng thực tế không cho vay.

Cho vay hợp vốn: là hình thức cho vay của một nhóm ngân hàng, tổ chức
tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của
doanh nghiệp trong đó một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp
với các tổ chức tín dụng khác. Cụ thể là trường hợp nếu một công trình dự án đầu tư
có tổng dự toán lớn vượt quá giới hạn cho vay thì áp dụng phương thức cho vay hợp
vốn. Theo đó ngân hàng tiếp nhận hồ sơ vay vốn cúa khách hàng sẽ đóng vai trị là
“ngân hàng đầu mối”, sẽ kêu gọi các ngân hàng khác cùng tham gia cho vay hợp
vốn và phân bổ hạn mức cho từng thành viên. Ngân hàng đầu mối sẽ trực tiếp giải
ngân lập phương án thu nợ thu lãi, đồng thời phân bổ mức thu nợ gốc, lãi cho các
ngân hàng thành viên theo tỷ lệ vốn của từng ngân hàng.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính
Là các điều kiện, nguyên tắc, mức độ tín nhiệm của khách hàng đối với ngân
hàng. Nói chung, đây là các chỉ tiêu mang tính chủ quan của các Ngân hàng thương
mại.

Tuân thủ theo quy trình cho vay và các điều kiện vay vốn
Để có thể được vay vốn tại ngân hàng, doanh nghiệp phải hoạt động theo

pháp luật, có mục đích vay vốn hợp pháp và rõ ràng, có khả năng tài chính để đảm
bảo cho việc trả nợ trong thời gian cam kết, có dự án đầu tư và phương án sản xuất
kinh doanh khả thi, thực hiện các quy tắc về vay vốn và đảm bảo tiền cho vay theo
18
các quy định có liên quan của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước.
Các Ngân hàng thương mại khi cho vay vốn cần phải tuân thủ chặt chẽ các
quy trình xét duyệt cho vay. Các quy trình cho vay là một chỉ tiêu hết sức quan
trọng đối với mỗi Ngân hàng thương mại, có tính quyết định đến chất lượng của
mỗi khoản cho vay. Như vậy, thông qua quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn, ngân
hàng có thể nắm được những thông tin quan trọng và cơ bản về doanh nghiệp, về
tình hình tài chính và khả năng chi trả nợ cùng với các chỉ tiêu khác của doanh
nghiệp. Từ đó, ngân hàng sẽ đưa ra các quyết định cho vay hay không và lượng vốn
cho doanh nghiệp vay là bao nhiêu. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới tính an toàn và
khả năng sinh lời của các khoản vay.

Đảm bảo nguyên tắc cho vay
Để đánh giá chính xác chất lượng của một khoản vay nói chung, điều cơ bản
là phải xem xết khoản vay này có đảm bảo nguyên tắc cho vay của ngân hàng hay
không. Điều này có nghĩa là phải xem xét việc khách hàng có sử dụng vốn vay đúng
mục đích hay không, có hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn như đã cam kết trong
hợp đồng tín dụng hay không và vốn vay có được đảm bảo bằng giá trị tài sản tương
đương hay không.

Uy tín của ngân hàng trong việc cho vay
Uy tín trong việc cho vay của ngân hàng theo một cách hiểu nào đó chính là
chất lượng cho vay của ngân hàng đó trong thị trường. Uy tín có được đó là do bản
thân của ngân hàng đã tạo được lòng tin với khách hàng, được khách hàng nhìn
nhận và đánh giá. Uy tín này có thể được tạo ra từ chính sách phát triển của ngân
hàng. Qua quá trình thực hiện cho vay, ngân hàng thể hiện tính chuyên nghiệp ra
sao, có đủ điều kiện tiềm lực sẵn có để đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn hợp lý của

khách hàng hay không.

Mức tín nhiệm của doanh nghiệp đối với ngân hàng
Nếu doanh nghiệp có mối quan hệ lâu dài và tốt đẹp với ngân hàng, việc cho
vay sẽ chất lượng hơn đối với những doanh nghiệp lần đầu có quan hệ tín dụng với
ngân hàng. Đó là do những doanh nghiệp như vậy đã tạo ra được niềm tin cho ngân
hàng, do họ có uy tín, có trách nhiệm cao với ngân hàng trong việc trả nợ, thực hiện
nghĩa vụ trả nợ của mình một cách đúng hạn. Do đó, chất lượng các khoản vay của
họ cũng được nâng cao hơn so với các khoản vay khác.
Dự vậy thì các chỉ tiêu trên cũng chỉ mang tính chất chủ quan đến cả từ 2
phía là ngân hàng lẫn khách hàng, nên nó không mang tính chính xác cao. Do đó,
các Ngân hàng thương mại cần quan tâm đến những chỉ tiêu số học hơn và có thể
kết hợp cả 2 nhóm chỉ tiêu này để có một cái nhìn tổng quan và chính xác hơn trong
hoạt động cho vay, từ đó có biện pháp nâng cao chất lượng cho vay.
19
1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng

Doanh số cho vay
Doanh số cho vay là tổng số tiền được ngân hàng đã thực sự giải ngân cho
khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này được dựng để thể
hiện xu hướng mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của ngân hàng. Doanh số
cho vay của ngân hàng càng lớn thì càng cho thấy mối quan hệ tín dụng giữa ngân
hàng và khách hàng càng nhiều và càng tốt đẹp, khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn
dành cho khách hàng càng cao và càng giúp ngân hàng tăng cường khả năng tạo ra
nhiều hơn lợi nhuận từ hoạt động cho vay. Doanh số cho vay của doanh nghiệp vừa
và nhỏ có thể được xác định qua từng thời kỳ như sau:
Mức tăng DSCV DNVVN= Tổng DSCV DNVVN
năm (t)-năm (t-1)
Doanh số cho vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng nhằm phản ánh sự thay
đổi về quy mô tín dụng đối với các doanh nghiệp này thay đổi.

Tỷ lệ tăng DSCV

DNVVN
=
Mức tăng DSCV đối với DNVVN
* 100%
Tổng DSCV đối với DNVVN
năm (t-1)
Chỉ tiêu này nhằm phản ánh tốc độ thay đổi của doanh số cho vay của năm
nay so với năm trước là bao nhiêu, từ đó cho biết xu hướng đầu tư vào doanh
nghiệp này sẽ là mở rộng hay thu hẹp.
Tỷ trọng DSCV

DNVVN
=
Tổng DSCV đối với DNVVN
* 100%
Tổng DSCV của hoạt động tín dụng
Tỷ trọng doanh số cho vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm phản ánh
sự thay đổi của doanh số cho vay của doanh nghiệp trên tổng doanh số cho vay của
hoạt động tín dụng là bao nhiêu, để có sự thay đổi cho phù hợp.

Doanh số thu nợ:
Doanh số thu nợ là tổng số tiền mà ngân hàng đã thu được của khách hàng
trong thời gian nhất định. Nó được tính bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong
một niên độ kế toán. Doanh số cho vay lớn thì cần kèm theo doanh số thu nợ cũng
phải cáo để đảm bảo chất lượng cho vay. Nếu ngược lại doanh số cho vay lớn
nhưng doanh số thu nợ thấp thì cho thấy khả năng thu hồi vốn và lãi thấp, nợ quá
hạn cao và điều này đồng nghĩa với chất lượng tín dụng không tốt. Doanh số thu nợ
có thể cho ngân hàng đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp qua việc

doanh nghiệp có trả nợ cho ngân hàng đúng hạn không, để có thể có biện pháp thu
hồi nợ kịp thời nếu thấy doanh nghiệp có dấu hiệu không lành mạnh.
Mức tăng DSTN DNVVN = Tổng DSTN DNVVN
năm(t)-năm(t-1)
20
Chỉ tiêu này thay đổi phản ánh các công tác tổ chức, quản lý khoản vay, công
tác thu hồi nợ của ngân hàng có hiệu quả hay không.
Tỷ lệ tăng DSTN

DNVVN
=
Mức tăng DSTN đối với DNVVN
* 100%
Tổng DSTN đối với DNVVN
năm (t-1)
Chỉ tiêu này thay đổi phản ánh tốc độ thay đổi của doanh số thu nợ đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ năm nay so với năm trước là bao nhiêu.
Tỷ trọng DSTN

DNVVN
=
Tổng DSTN đối với DNVVN
* 100%
Tổng DSTN của hoạt động tín dụng
Chỉ tiêu này thay đổi phản ánh sự thay đổi của doanh số thu nợ đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên tổng doanh số thu nợ của hoạt động tín dụng.

Tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo:
Tỷ lệ dư nợ DNVVN có


TSĐB
=
Dư nợ DNVVN có tài sản đảm bảo
Tổng dư nợ DNVVN
Chỉ tiêu này phản ánh dư nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ có tài sản đảm
bảo chiếm bao nhiêu phần trăm tổng dư nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ tiêu
này càng cao thì chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ càng cao, vì những
khoản vay này có tính an toàn, đảm bảo hơn. Nếu có rủi ro xảy ra, Ngân hàng có thể
phát mại, bán tài sản đảm bảo để giảm thiệt hại và thu hồi một phần vốn.

Dư nợ cho vay:
Dư nợ cho vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ là số tiền mà ngân hàng đang
còn cho doanh nghiệp vay, hay là lượng vốn mà doanh nghiệp còn nợ ngân hàng tại
một thời điểm nhất định được tính bằng số dư cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán của
ngân hàng.
Dư nợ kỳ này = Dư nợ kỳ trước + DSCV trong kỳ - DSTN trong kỳ
Nếu tổng dư nợ thấp, chứng tỏ ngân hàng không mở rộng được hoạt động
cho vay, không thu hút đựơc đông đảo khách hàng tham gia, chất lượng cho vay
chưa cao. Tổng dư nợ cho vay cao, và tăng trưởng qua từng thời kỳ cho thấy ngân
hàng đã tạo được uy tín tốt với khách hàng và thu hút khách hàng. Tuy nhiên, tăng
trưởng dư nợ cho vay còn phải phù hợp với khả năng về vốn, khả năng kiểm soát
rủi ro và đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng, bởi vì dư nợ cho vay tiềm ẩn yếu
tố rủi ro tín dụng.
Tốc độ tăng dư nợ đối
với DNVVN
=
Mức tăng dư nợ đối với DNVVN
* 100%
Dư nợ đối với DNVVN năm
(t-1)

21
Chỉ tiêu này thay đổi phản ánh tốc độ thay đổi của dư nợ cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ năm nay so với năm trước là bao nhiêu.
Tỷ trọng DNCV DNVVN =
Dư nợ cho vay DNVVN
* 100%
Tổng DNCV
Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ ngân hàng ngày càng mở rộng và tập trung
vào cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, khi đánh giá chỉ tiêu này, cần
xem xét xem tỷ trọng tăng dư nợ cho vay có tương xưng với tỷ trọng tăng của
doanh số cho vay và doanh số thu nợ hay không.

Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ gốc hay lãi hoặc cả gốc và lãi mà khách hàng không
trả được khi đã đến hạn thỏa thuận được ghi trên hợp đồng cho vay giữa doanh
nghiệp và ngân hàng mà chưa được ngân hàng xử lý cho điều chỉnh lại kỳ hạn nợ,
xóa nợ.
Tỷ lệ nợ quá hạn của

DNVVN
=
Nợ quá hạn của DNVVN
Tổng dư nợ DNVVN
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngân hàng, bởi vì việc khách hàng không thể trả nợ đúng hạn có liên quan đến
tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản của ngân hàng, khiến cho ngân hàng gia
tăng chi phí.
Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
thấp, rủi ro cao và khả năng thu hồi nợ đúng hạn kém, ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong dảm bảo khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ quá hạn của những doanh nghiệp vừa

và nhỏ cần được đối chiếu và xem xét với tỷ lệ nợ quá hạn của cả ngân hàng, từ đó
giúp ngân hàng có chính sách kinh doanh hợp lý đối với những doanh nghiệp này.

Lợi nhuận từ hoạt động cho vay:
Lợi nhuận vẫn là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động kinh doanh, của mọi
doanh nghiệp, không loại trừ ngân hàng. Bởi vậy, để đánh giá chất lượng cho vay
thì cần phân tích và xem xét lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay (là hoạt động
chính, mang lại nguồn thu chủ yếu của ngân hàng). Lợi nhuận thu được từ hoạt
động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ càng lớn, chứng tỏ các khoản vay được thu
hồi tốt, phát sinh nợ quá hạn ít, chất lượng cho vay như vậy được đánh giá là có
hiệu quả.
Tỷ lệ lãi từ hoạt động cho

vay DNVVN
=
LN ròng từ hoạt động cho vay DNVVN
22

×