Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, tôi xin gửi lời cảm ơn tới:
PGS.TS Lưu Thị Hương đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện chuyên đề.
Anh chị tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương chi nhánh Hai
Bà Trưng đã nhiệt tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong thời gian thực tập.
Gia đình và bạn bè đã luôn động viên và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành
tốt chuyên đề.
Xin chân thành cảm ơn!
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHCT VN : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương
Việt Nam.
NHCT HBT : Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương
chi nhánh Hai Bà Trưng.
NHNN : Ngân hàng nhà nước.
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
DNVVN tồn tại và phát triển ở tất cả các quốc gia trên thế giới như một thành
phần tất yếu của nền kinh tế. Ở Việt Nam, DNVVN chiếm tới trên 90% số doanh
nghiệp và đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng ngân sách nhà nước, tạo
công ăn việc làm, thu nhập cá nhân và huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế xã
hội. Trong điều kiện hiện nay, do năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các DNVVN chưa cao, vốn tự có của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế nên
vốn vay ngân hàng là nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp tăng cường đầu tư
phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Thế nhưng việc tiếp cận và
sử dụng vốn của các DNVVN còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Lí do là cho
vay DNVVN thường tiềm ẩn rủi ro nhiều hơn so với các doanh nghiệp lớn. Hơn
nữa, các doanh nghiệp này lại sử dụng vốn vay chưa thực sự hiệu quả. Chính vì vậy,
việc nâng cao chất lượng cho vay đối với DNVVN là vấn đề quan trọng thu hút sự
quan tâm của hầu hết các ngân hàng thương mại và các DNVVN.
Trong thời gian thực tập tại phòng khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ của
NHCT HBT, nhận thấy hoạt động cho vay đối với DNVVN tại chi nhánh tuy đã
phát triển nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Vì thế đề tài “ Nâng cao chất lượng
cho vay đối với danh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Thương mại cổ phần Công
Thương chi nhánh Hai Bà Trưng” được chọn làm đề tài nghiên cứu.
Chuyên đề được hoàn thành dựa trên những nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
cùng với sự tổng hợp các số liệu thống kê tình hình hoạt động trong những năm gần
đây để đưa ra những đề xuất ý kiến góp phần hoàn thiện, khắc phục hạn chế và nâng
cao chất lượng cho vay đối với DNVVN tại chi nhánh.
Nội dung chính của chuyên đề bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận về chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương chi nhánh Hai
Bà Trưng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương chi
nhánh Hai Bà Trưng.
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
1
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
Ngân hàng Thương mại là tổ chức tài chính đặc biệt quan trọng, được hình
thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Ngân hàng
Thương mại ngày nay chiếm tỉ trọng lớn nhất cả về thị phần, qui mô, tài sản và số
lượng trong hệ thống tài chính. Trải qua một thời gian dài với nhiều biến động của
nền kinh tế, có rất nhiều khái niệm Ngân hàng Thương mại đã được hình thành.
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội Đồng Nhà nước: “ Ngân hàng
Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường xuyên là
nhận tiền gửi khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,
thực hiện nghĩa vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật tổ chức tín dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi “
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
Một cách tiếp cận khác, dựa trên những dịch vụ mà ngân hàng mang lại: Ngân
hàng thương mại là tổ chức tài chính tiền tệ cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán,
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Đặc điểm của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trên lĩnh vực tín dụng với mục đích thu lợi nhuận. Cũng giống các tổ chức tín dụng
khác, mục đích cuối cùng của Ngân hàng thương mại chính là lợi nhuận, tối đa hóa
giá trị vốn chủ sở hữu. Là một thực thể đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, Ngân
hàng thương mại được ví như những mạch máu của nền kinh tế với những hoạt
động chủ yếu là huy động vốn và sử dụng vốn.
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
2
Chuyên đề tốt nghiệp
* Huy động vốn
Một đặc trưng quan trọng trong hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho
vay, vì vậy khác với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực phi tài chính, huy
động vốn là một hoạt động hết sức quan trọng. Huy động vốn là hoạt động có vai
trò cung cấp đầy đủ và kịp thời các nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động khác của
ngân hàng. Huy động vốn bao gồm các hoạt động:
• Nhận tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn tiền
của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và có được nguồn
tiền chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau. Ngân hàng chủ yếu huy động vốn bằng phương thức
nhận tiền gửi của cá nhân hoặc tổ chức kinh tế- xã hội. Với nhiều hình thức nhận
tiền gửi như tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, ngân hàng đã thu hút được một
lượng vốn lớn trong dân cư. Bên cạnh đó, do mục đích thanh toán hộ, các ngân
hàng thường có thêm nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng khác. Tuy nhiên khối lượng này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong qui mô
nguồn vốn của ngân hàng
• Đi vay từ các nguồn khác
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, tuy nhiên, khi
cần các ngân hàng vẫn thường đi vay mượn thêm. Do tại nhiều nước, ngân hàng
trung ương thường qui định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ nên
nhiều ngân hàng vào các giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu
chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Các nguồn đi vay của Ngân hàng thương
mại là vay NHNN, đi vay các tổ chức tín dụng và vay trên thị trường vốn. Hình
thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu các giấy tờ có giá hoặc tái cấp
vốn. NHNN đóng vai trò người cho vay cuối cùng của Ngân hàng thương mại, khi
đó Ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát, chỉ
có thể được vay trong một hạn mức nhất định. Nguồn vay từ các tổ chức tín dụng là
nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị
trường liên ngân hàng. Nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu
dự trữ và chi trả cấp bách, trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ NHNN. Và cũng giống như các doanh nghiệp khác, các ngân
hàng cũng có thể vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu,
trái phiếu) trên thị trường vốn.
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
3
Chuyên đề tốt nghiệp
• Các nguồn khác
Ngoài hai kênh huy động vốn trên, ngân hàng còn có thể huy động vốn ở các
nguồn như nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán …Đặc điểm của các nguồn này là
phần lớn các ngân hàng không phải trả lãi, tuy nhiên chi phí để có và duy trì nó là
không nhỏ. Nhìn chung, các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn. Việc
gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị
ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác.
* Sử dụng vốn
Nếu hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là huy động vốn để sử dụng
nhằm thu lợi nhuận thì việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các tài sản khác
nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng.
• Hoạt động cho vay cho vay và đầu tư
Hoạt động cho vay là một nghiệp vụ tín dụng điển hình nhất trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng, hoạt động cho vay chiếm tỉ trọng cao nhất về doanh thu và
số lượng giao dịch. Đồng thời đây cũng là dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất cho
ngân hàng và được các ngân hàng quản lý chặt chẽ bằng việc kiểm soát qua nhiều
phòng ban để đưa ra các quyết định cho vay, qua đó thực hiện chức năng trung gian
tài chính của ngân hàng.
Hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương mại được thể hiện dưới nhiều hình
thức: đầu tư mua bán chứng khoán, đầu tư góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh liên
kết… Nhờ có những hoạt động đầu tư này mà các ngân hàng thương mại có thể sử
dụng và khai thác tối đa các nguồn vốn đã huy động, đa dạng hóa kinh doanh và
phân tán rủi ro, tăng cường khả năng thanh khoản cho ngân hàng thương mại, đồng
thời lại mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng.
•Các hoạt động khác
- Hoạt động bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hành của mình trong trường hợp khách hàng đó không thực hiện
đúng nghiệp vụ theo như cam kết. Trong bảo lãnh, ngân hàng không xuất tiền ra mà
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Có nhiều hình thức bảo lãnh
như Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh chất lượng, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng.
- Hoạt động cho thuê: là hoạt động bắt nguồn từ các doanh nghiệp sản xuất
hoặc cung cấp thiết bị, nhà cửa có giá trị lớn, sử dụng lâu dài. Do người mua không
có đủ tiền mua hoặc chỉ có nhu cầu sử dụng trong một thời gian ngắn hơn thời gian
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
4
Chuyên đề tốt nghiệp
khấu hao của tài sản, từ đó nảy sinh nhu cầu đi thuê. Còn các doanh nghiệp sản xuất
và cung cấp có nhu cầu tiêu thụ để tăng doanh thu và giảm hao mòn của tài sản, từ
đó nảy sinh nhu cầu đi thuê- cho thuê.
- Hoạt động tài trợ thương mại: là hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu
của ngân hàng và hoạt động thu lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ,
hoạt động chuyển tiền và thu phí qua các L/C xuất nhập khẩu và hoạt động tài
trợ thương mại khác.
- Hoạt động dịch vụ : hoạt động dịch vụ bao gồm các hoạt động thanh toán
luân chuyển vốn giữa các doanh nghiệp, thu phí từ các dịch vụ thẻ như ATM, tín
dụng quốc tế, các tiền tệ kho quỹ, phát hiện và thu hồi tiền giả, đảm bảo an toàn kho
quỹ đồng thời triển khai các hoạt động dịch vụ tới các quỹ tiết kiệm, điểm giao dịch
của ngân hàng, đẩy nhanh tiến độ hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
- Hoạt động chiết khấu thương phiếu: chiết khấu thương phiếu là việc ngân
hàng ứng trước tiền cho ngân hàng ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu
nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Thu nhập của ngân
hàng từ hoạt động này chính là số tiền chiết khấu, vì có tối thiểu hai người cam kết
trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao. Ngoài ra
thông qua thương phiếu, các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh nhờ
việc quay vòng vốn nhanh.
1.1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là một hoạt động nằm trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng,
thông qua hoạt động cho vay ngân hàng thực hiện điều hòa vốn trong nền kinh tế
dưới hình thức phân phối vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được từ trong xã hội để
đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ kinh doanh và đời sống.
Cho vay là hoạt động mà theo đó ngân hàng thương mại chuyển một lượng
tiền cho khách hàng sử dụng với điều kiện khách hàng phải sử dụng số tiền đó đúng
mục đích và hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định.
* Các nguyên tắc cho vay của ngân hàng
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc
nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời của khoản vay. Các
nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các qui định của NHNN và các ngân hàng
thương mại.
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả vốn và lãi trong thời gian xác định. Do
các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn, ngân hàng phải hoàn trả cả gốc và
lãi theo cam kết do đó ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện
đúng cam kết này. Đây cũng là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng khoản vay đúng theo mục đích đã thỏa
thuận với ngân hàng, theo đúng qui định của pháp luật và theo các qui định khác
của ngân hàng cấp trên. Mục đích vay vốn được ghi rõ ràng trong hợp đồng cho vay
nhằm đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động kinh doanh trái pháp luật
và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.
- Ngân hàng có tài trợ cho dự án hay không còn phụ thuộc vào tính hiệu quả
của phương án kinh doanh. Tính hiệu quả của dự án minh chứng cho khả năng thu
hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân
hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Nếu xét thấy dự án
kém an toàn, ngân hàng phải đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
Trong hoạt động cho vay của ngân hàng, ngân hàng thương mại là người cho
vay sẽ yêu cầu khách hàng tức người đi vay muốn vay được vốn thì phải tuân thủ
những điều kiện nhất định. Đây là cơ sở ràng buộc về mặt pháp lý bảo đảm cho
người cho vay có thể thu hồi được cả tiền gốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
ngày càng đa dạng, phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Việc áp dụng từng
loại cho vay tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn vay, nhằm
sử dụng và quản lí vốn vay có hiệu quả, phù hợp với sự vận động cũng như đặc
điểm kinh tế khác nhau của từng đối tượng.
* Phân loại cho vay của ngân hàng thương mại
Phân loại cho vay là một việc làm cần thiết để quản lí và sử dụng vốn vay có
hiệu quả. Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm
dựa trên những tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là
tiền đề để thiết lập quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi
ro trong cho vay. Có rất nhiều tiêu thức để phân loại cho vay nhưng trên thực tế
người ta thường phân loại cho vay theo các tiêu thức sau:
Phân loại theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay có ảnh hưởng rất lớn tới tính an toàn và sinh lợi của
món vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng, do đó việc phân loại theo
thời hạn cho vay rất có ý nghĩa đối với ngân hàng.
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở Việt Nam, theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng và quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN/ngày 31/12/2000 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
+ Cho vay ngắn hạn: Là khoản cho vay có thời hạn dưới 1 năm, được sử
dụng để bù đắp vốn sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp. Đây là khoản
có lãi suất cho vay và rủi ro thấp nhất do thời hạn hoàn vốn nhanh, hạn chế được
các yếu tố rủi ro về lãi suất, lạm phát cùng như các yếu tố rủi ro từ môi trường
kinh tế đem lại.
+ Cho vay trung hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ 1 năm đến 5
năm.Thông thường được các doanh nghiệp sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản
cố định, cải tiến, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, cơ sở vật chất, mở rộng sản
xuất kinh doanh.
+ Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối
đa có thể lên đến 20-30 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các
nhu cầu dài hạn như tài trợ xây dựng cho các công trình xây dựng cơ bản như
nhà cửa, sân bay, cầu đường, đầu tư trang thiết bị.
Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản
đảm bảo khi nhận tín dụng. Khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh
doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng, những biến cố này có thể
đem lại cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng
có uy tín cao, phần lớn khách hàng phải có tài sản bảo đảm khi nhận tín dụng
của ngân hàng. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh
của bên thứ ba.
Theo căn cứ trên, cho vay được chia thành 2 loại:
* Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng. Đối với những khách hàng có tín nhiệm, có khả năng tài
chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án cho vay là khả quan thì ngân
hàng có thể cấp vốn vay dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần
một nguồn thu nợ bổ sung.
* Cho vay có bảo đảm: là việc cho vay vốn của ngân hàng mà theo đó nghĩa
vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế
chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Đối
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
7
Chuyên đề tốt nghiệp
với những khách hàng không có uy tín, khi vay vốn cần đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự
bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một bổ sung cho nguồn thu nợ
thứ nhất thiếu chắc chắn.
Phân loại theo mục đích sử dụng
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chưa ra làm các loại sau:
* Cho vay bất động sản: là loại hình cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng các bất động sản như nhà ở, đất đai, bất động sản trong các lãnh
vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
* Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong các lãnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
* Cho vay nông nghiệp: là loại hình cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,
nhiên liệu,
* Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tài chính, các quỹ
tín dụng và các định chế tài chính khác.
* Cho vay cá nhân: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như: mua sắm các vật dụng tiêu dùng, và các khoản cho vay để trang trải chi
phí của đời sống thông qua việc phát hành thẻ tín dụng.
* Cho thuê: bao gồm 2 loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài
sản cho thuê bao gồm bất động sản, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị.
Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được phân
chia theo hai loại sau:
* Cho vay hoàn trả một lần: là cho vay mà khoản vay sẽ được hoàn trả
duy nhất một lần và vào thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có
thể được hoàn trả theo thoả thuận trong hợp đồng (theo tháng, theo quý hoặc
theo năm.)
* Cho vay trả góp: là hình thức cho vay trong đó việc hoàn trả được tiến
hành theo định kỳ, các khoản này có thể bằng nhau hoặc không tuỳ theo thoả
thuận và được thực hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện
hợp đồng.
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Thông thường, các ngân hàng thương mại thường áp dụng phương thức trả
một lần đối với cho vay ngắn hạn còn phương thức trả góp thì dùng cho các
khoản cho vay trung và dài hạn.
Phân loại theo xuất xứ tín dụng
* Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra ngân hàng có mối liên hệ trực
tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay.
* Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức
xã hội nhưng không trực tiếp cho vay khách hàng.
Việc phân loại theo xuất xứ tín dụng giúp ngân hàng đánh giá, lựa chọn
cách thức cho vay cũng như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó nghiên cứu thể
lệ và chính sách tín dụng phù hợp.
Phân loại theo đối tượng cho vay
* Cho vay cá nhân : Hiện nay, cho vay cá nhân đang ngày càng được ngân
hàng chú trọng và tăng trưởng cao. Một số loại hình cho vay cá nhân chủ yếu hiện
nay là cho vay mua nhà, xây nhà, cho vay mua ô tô, cho vay du học quốc tế.
* Cho vay doanh nghiệp: là khoản vay chiếm tỷ trọng lớn trong ngân
hàng. Các doanh nghiệp khi có nhu cầu về vốn cho các dự án thường tìm đến
ngân hàng, bởi đó là nguồn vay có chi phí hợp lý và tính bảo đảm cao. Tuy
nhiên, quá trình thẩm định và đưa ra quyết định cho vay của ngân hàng rất chặt
chẽ, đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu mới có thể vay vốn. Cho
vay doanh nghiệp thường được các ngân hàng chia thành nhóm khách hàng
doanh nghiệp lớn và nhóm khách hàng DNVVN. Các DNVVN chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng số các doanh nghiệp trên cả nước, có nhu cầu vay vốn cao
nhưng hiện nay, hoạt động cho vay đối với nhóm khách hàng này của các ngân
hàng vẫn chưa thực sự được quan tâm và phát triển.
1.1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
1.1.2.1 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế quốc dân, các DNVVN chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
số các doanh nghiệp trên cả nước. Các doanh nghiệp này đã và đang không ngừng
phát triển, từng bước khẳng định vai trò và vị trí trong nền kinh tế đất nước.
Khi xác định quy mô của một doanh nghiệp, thông thường các quốc gia
căn cứ vào các tiêu chí sau: vốn sản xuất doanh thu, số lao động thường xuyên,
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
lợi nhuận đạt được, giá trị của công ty … Tuy nhiên, tiêu chí xác định quy mô
của DNVVN cũng khác nhau tuỳ theo từng ngành, từng thời kỳ và tuỳ vào
trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Bởi vì một doanh nghiệp trong môi
trường kinh tế của nước này là DNVVN, nhưng trong môi trường kinh tế của
nước khác thì lại là doanh nghiệp lớn hoặc lại là doanh nghiệp rất nhỏ. Vì vậy
khái niệm DNVVN chỉ mang tính chất tương đối và thay đổi theo từng giai
đoạn phát triển kinh tế xã hội của từng nước.
Trên thực tế các nước căn cứ chủ yếu vào hai tiêu chí cơ bản là vốn sản
xuất, số lượng lao động thường xuyên để phân biệt DNVVN với các doanh
nghiệp lớn. Hiện tại Việt Nam cũng đang sử dụng hai tiêu thức này để phân
loại doanh nghiệp. Trong các thời kỳ khác nhau các tiêu chí đánh giá lại có giới
hạn khác nhau để phù hợp với tình hình phát triển phản ánh đúng thực trạng
của nền kinh tế.
Công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/6/1998, đưa ra khái niệm về
DNVVN là các doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh
doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và USD
tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra mục đích xây dựng một cách
chung nhất về các DNVVN ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định chính sách.
Trên thực tế tiêu chí này không cho phép phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và
cực nhỏ.
Vì vậy, tiếp đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ban hành ngày 23/11/2001 đã
đưa ra định nghĩa chính thức về các DNVVN như sau: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ
là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế cụ thể của từng ngành, từng
địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể
linh hoạt áp dụng đồng thời cả 2 chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ
tiêu nói trên.”
Còn theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP, nghị định về trợ giúp phát triển
DNVVN, DNVVN được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ vừa và nhỏ là cơ
sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba
cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương
tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số
lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)” cụ thể như sau:
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Quy mô
Khu vực
Doanh
nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200 người
đến
300 người
II. Công nghiệp
và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200 người
đến
300 người
III. Thương mại
và dịch vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng
từ trên 50 người
đến 100 người
“Nguồn: ”
Trong lĩnh vực ngân hàng, việc phân chia doanh nghiệp đặc biệt các
doanh nghiệp là đối tác chính, góp phần vào sự thành công hay thất bại của
ngân hàng. Chính vì vậy, ngân hàng phải đưa ra các chỉ tiêu để phân loại doanh
nghiệp. Một trong những phương pháp phân loại quy mô doanh nghiệp được sử
dụng phổ biến ở các ngân hàng ở Việt Nam là dùng thang điểm để chấm điểm
quy mô doanh nghiệp .
Quy mô của các doanh nghiệp được xác định dựa vào các tiêu chí sau:
nguồn vốn kinh doanh, số lượng lao động, doanh thu thuần và giá trị nộp ngân
sách Nhà nước. Trong đó :
- Lao động là số lao động thực tế sử dụng tính bình quân trong 3 năm gần nhất.
- Giá trị nộp ngân sách Nhà nước: được lấy theo số thực nộp vào ngân
sách Nhà nước theo số phát sinh trong kỳ bao gồm các loại thuế và các khoản
nộp khác theo quy định của Nhà Nước trong năm báo cáo.
Có thể xem xét bảng chấm điểm quy mô của doanh nghiệp được áp dụng ở
nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam như sau:
Bảng 1.1. Bảng chấm điểm quy mô của doanh nghiệp
STT Tiêu chí Trị số Điểm
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
11
Chuyên đề tốt nghiệp
1 Nguồn vốn kinh doanh - Từ 50 tỷ VND trở lên 30
- Từ 40 tỷ VND đến dưới 50 tỷ VND 25
- Từ 30 tỷ VND đến dưới 40 tỷ VND 20
- Từ 20 tỷ VND đến dưới 30 tỷ VND 15
- Từ 10 tỷ VND đến dưới 20 tỷ VND 10
- Dưới 10 tỷ VND 5
2 Lao động - Từ 1500 người trở lên 15
- Từ 1000 người đến dưới 1500 người 12
- Từ 500 người đến dưới 1000 người 9
- Từ 100 người đến dưới 500 người 6
- Từ 50 người đến dưới 100 người 3
- Dưới 50 người 1
3 Doanh thu thuần - Từ 200 tỷ VND trở lên 40
- Từ 100 tỷ VND đến dưới 100 tỷ VND 30
- Từ 50 tỷ VND đến dưới 100 tỷ VND 20
- Từ 20 tỷ VND đến dưới 50 tỷ VND 10
- Từ 5 tỷ VND đến dưới 20 tỷ VND 5
- Dưới 5 tỷ VND 2
4 Nộp ngân sách - Từ 10 tỷ VND trở lên 15
- Từ 7 tỷ VND đến dưới 10 tỷ VND 12
- Từ 5 tỷ VND đến dưới 7 tỷ VND 9
- Từ 3 tỷ VND đến dưới 5 tỷ VND 6
- Từ 1 tỷ VND đến dưới 3 tỷ VND 3
- Dưới 1 tỷ VND 1
(Nguồn: Sổ tay tín dụng NHCT VN)
Căn cứ vào thang điểm trên, các doanh nghiệp được xếp loại thành quy
mô lớn, vừa và nhỏ như sau :
Điểm Quy mô
Từ 70 - 100 điểm Doanh nghiệp lớn
Từ 30 - 69 điểm Doanh nghiệp vừa
Dưới 30 điểm Doanh nghiệp nhỏ
(Nguồn: Sổ tay tín dụng NHCT VN)
Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bên cạnh những đặc điểm vốn có của một doanh nghiệp, thì các DNVVN
còn có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
- DNVVN là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư ban đầu thấp, thu hồi
vốn nhanh. Tuy nhiên đó cũng là một lợi thế của các chủ đầu tư vì việc đầu tư
vốn sản xuất không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản xuất của các doanh
nghiệp này thường ngắn nên vòng quay của mỗi đồng vốn là nhanh. Hầu hết
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
các DNVVN hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và các nguồn vốn đi
vay từ thị trường tài chính phi chính thức. Do các doanh nghiệp này không đảm
bảo được các điều kiện cần thiết về tài sản thế chấp và các điều kiện vay vốn
khác nên ít có khả năng tiếp cận được với các nguồn vốn vay của ngân hàng.
- DNVVN hoạt động đa dạng ở mọi ngành nghề, nhạy bén và dễ thích
nghi với sự thay đổi của thị trường. Các DNVVN với qui mô nhỏ có thể hoạt
động kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực, với các mức giá cả hợp lý đáp ứng mọi
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của các tầng lớp xã hội. Ngoài ra, DNVVN còn dễ
dàng thay đổi ngành nghề, mặt hàng kinh doanh sản xuất khi có sự biến động
của thị trường do có bộ máy tổ chức quản lí gọn nhẹ, có tính linh hoạt cao dễ
dàng thích nghi với những biến động của nền kinh tế thị trường. Nhờ vậy mà
các DNVVN có thể phân tán được rủi ro, tiết kiệm được chi phí trong lĩnh vực
sản xuất kinh doanh, đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Đây là một lợi thế mà các
DNVVN có thể khai thác để đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu.
- DNVVN chủ yếu sử dụng công nghệ và thiết bị lạc hậu, thủ công,
không phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay. Thực tế cho thấy các
DNVVN Việt Nam có hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu khoảng 20 - 30 năm
so với các nước đang phát triển trong khu vực. Hệ thống máy móc lỗi thời là do
các DNVVN không đủ vốn để đầu tư, nâng cấp, đổi mới trang thiết bị, máy
móc; công tác nghiên cứu công nghệ áp dụng cho các DNVVN lại rất ít được
thường xuyên chú ý tới. Việc triển khai thương mại điện tử còn hạn chế, nhiều
doanh nghiệp chưa có trang thông tin riêng để có thể quảng bá thương hiệu của
mình. Tuy nhiên, có một điểm mạnh ở các DNVVN tại Việt Nam là các doanh
nghiệp này có thể kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, sản
xuất những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện sản xuất không thuận lợi.
- Phần lớn trình độ người lao động tại các DNVVN còn hạn chế, công tác
quản lý còn nhiều yếu kém. Đội ngũ lao động thường ít được đào tạo một cách
cơ bản mà chủ yếu được đào tạo theo phương pháp truyền nghề, trình độ văn
hoá thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Hầu hết các
DNVVN ở Việt Nam hoạt động mang tính chất tự phát, thiếu sự định hướng,
việc tổ chức sản xuất kinh doanh chưa khoa học vì khả năng chuyên môn của
người lao động không đủ để có thể sử dụng các máy móc dây chuyền công
nghệ hiện đại. Việc gia nhập cộng đồng kinh tế thế giới càng làm cho các chủ
doanh nghiệp trở nên bỡ ngỡ trước những cơ hội kinh doanh mới. Để khắc
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
13
Chuyên đề tốt nghiệp
phục những mặt hạn chế này thì bản thân doanh nghiệp phải có sự tự vận động
và kết hợp chặt chẽ với sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo đội ngũ công
nhân, thợ lành nghề có kỹ thuật cao, đội ngũ cán bộ quản lý giỏi mới có thể đáp
ứng được yêu cầu cạnh tranh, hội nhập trong thời kỳ mới.
- Thị trường tiêu thụ của các DNVVN ở Việt Nam rất nhỏ hẹp, khả năng
cạnh tranh thấp, một phần là do sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn, mặt
khác là do thị trường có nhiều sản phẩm làm giả, hàng nhập lậu. Với quy mô
vốn nhỏ nên DNVVN rất hạn chế trong việc tiếp thị và khai thác ở thị trường
nước ngoài, thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp này chỉ bó hẹp ở trong thị
trường nội địa. Yếu kém trong việc tiếp cận thông tin thị trường, các dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh cùng với sự hạn chế về mặt tài chính dẫn đến việc nhập khẩu
nguyên liệu sản xuất cũng như xuất khẩu sản phẩm sang các đối tác nước ngoài
hết sức khó khăn.
Năng lực cạnh tranh của các DNVVN Việt Nam hiện nay còn quá thấp.
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, các doanh nghiệp thường
xuyên phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh mới, đó là các công ty xuyên
quốc gia, các công ty đa quốc gia có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ và
năng lực cạnh tranh cao. Đối với các DNVVN của Việt Nam vốn nhỏ về quy
mô và năng lực cạnh tranh thì đây quả là một sự thách thức to lớn. Một nguyên
nhân rất quan trọng khiến các DNVVN không có đủ sức cạnh tranh là do khả
năng tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Đây là vấn đề được hầu hết
các ngân hàng và Chính phủ quan tâm để khai thác tốt số lượng khách hàng
tiềm năng này, mở rộng cho vay tăng thu nhập và phát triển trên thị trường.
1.1.2.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động cho vay đối với các DNVVN của ngân hàng là hoạt động giao dịch
về mặt tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa ngân hàng và các DNVVN, trong đó ngân
hàng chuyển giao quyền sử dụng cho các DNVVN trong một khoảng thời gian xác
định theo thỏa thuận. DNVVN có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng
khi đến hạn thanh toán.
Vai trò hoạt động cho vay đối với DNVVN:
- Cho vay của ngân hàng thương mại là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho các
DNVVN hiện nay. Phần lớn các DNVVN tại Việt Nam là doanh nghiệp có vốn của
nhà nước, hầu hết là còn kế thừa lại từ nền kinh tế bao cấp. Vốn hoạt động của các
doanh nghiệp này dựa trên ba nguồn vốn chủ yếu: vốn được cấp bởi ngân sách nhà
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
nước, vốn vay từ hoạt động tín dụng ngân hàng hoặc vốn tự có và vay các chính
sách cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Trong quá trình mở rộng sản xuất
kinh doanh, các nhu cầu về vốn thường xuyên phát sinh và để đáp ứng phần lớn các
nhu cầu vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản hoạt
động thì doanh nghiệp phải sử dụng tới nguồn vốn đi vay. Với nguồn vốn tự có và
khả năng huy động vốn của bản thân, các DNVVN khó có thể đáp ứng được nhu
cầu sản xuất và quay vòng vốn nhanh của doanh nghiệp. Vì vậy, để việc kinh doanh
được thuận lợi, hoạt động liên tục và có hiệu quả thì các DNVVN cần thông qua tín
dụng ngân hàng để bổ sung nguồn vốn lưu động.
- Hoạt động cho vay giúp các DNVVN nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị
trường. Có thể nói vốn vay ngân hàng có một vai trò quan trọng đối với DNVVN,
tạo cơ hội để các DNVVN mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Bên cạnh đó, vốn vay ngân hàng còn góp phần giúp doanh nghiệp hình
thành cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp cần để đạt hiệu quả
cao trong kinh doanh bao gồm hai nguồn cơ bản: vốn tự có và vốn đi vay. Thông
thường các doanh nghiệp thích sử dụng vốn vay vì ít tốn chi phí mà còn được
hưởng phần tiết kiệm nhờ thuế và không làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu của chủ
doanh nghiệp. Còn việc sử dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh không
những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn
làm tăng chi phí vốn, do đó việc sử dụng vốn tự có ít được ưu tiên. DNVVN có thể
có được khoản vốn vay thông qua tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và việc
phát hành trái phiếu. Tuy nhiên việc vay vốn thông qua phát hành trái phiếu đối với
DNVVN là rất khó khăn, vì vậy nguồn vốn vay ngân hàng là nguồn vốn vay quan
trọng nhất. Vốn vay ngân hàng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng
quan hệ của các DNVVN. Trong nền kinh tế thị trường, năng lực cạnh tranh mang
tính sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh càng
cao thì càng có ưu thế về sản phẩm dich vụ cung cấp cho khách hàng. Vay vốn ngân
hàng không những giúp cho các DNVVN giải quyết được các nhu cầu về vốn mà
còn giúp tiếp cận được các nguồn thông tin về khách hàng, thị trường.
- Hoạt động cho vay đóng vai trò gián tiếp điều chỉnh cơ cấu vùng, lãnh thổ.
Khu vực DNVVN được xem như khu vực thu hút nhiều lao động, góp phần vào
giải quyết công ăn, việc làm cho xã hội. Vì vậy, khi ngân hàng mở rộng cho vay thì
sẽ tạo điều kiện giúp các DNVVN thu hút được nhiều lao động hơn. Qua đó, hoạt
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
động cho vay của ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với việc mở
rộng cho vay DNVVN sẽ ngày càng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng
hiệu quả sản xuất, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Từ đó tạo đà cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, đồng thời góp phần kiềm
chế và đẩy lùi lạm phát, thực hiện ổn định tài chính.
Đặc điểm hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng thương mại
- Qui mô hợp đồng cho vay thường nhỏ nhưng ngân hàng vẫn phải thực
hiện các thủ tục cho vay bao gồm tất cả các công đoạn như tìm hiểu thông tin về
khách hàng, thẩm định trước khi cho vay…làm tăng chi phí vay. Doanh nghiệp
không những phải trả lãi suất cho vay theo qui định mà còn phải trả cả chi phí
của tất cả những thủ tục cho vay trên, dẫn tới hệ quả là lãi suất vay thực tế của
DNVVN thậm chí còn cao hơn lãi suất cho vay của các Doanh nghiệp lớn. Trong
khi các Doanh nghiệp vừa và nhỏ mới là đối tượng cần được hỗ trợ lãi suất do
còn nhiều khó khăn về vốn.
- Số lượng các DNVVN trong nền kinh tế chiếm phần đông, nhu cầu vay vốn
lại lớn nên số lượng các món vay nhiều. Mặt khác, do đặc thù kinh doanh, các
DNVVN có quan hệ trao đổi, mua bán với bạn hàng liên tục, mỗi món hàng có giá
trị không nhiều nhưng do có nhu cầu vay vốn nên doanh nghiệp có thể tạo nhiều
tiểu khoản riêng biệt tại ngân hàng, gây nhiều khó khăn trong việc quản lý các tài
khoản cho vay của cán bộ tín dụng. Vì thế mà cho vay đối với DNVVN đòi hỏi cán
bộ tín dụng phải là người có kinh nghiệm, có cách sắp xếp , quản lý các món vay
một cách hợp lý, hạn chế sai sót gây ảnh hưởng đến chất lượng cho vay.
- Do vốn chủ sở hữu thấp, năng lực quản lý yếu kém, cho vay DNVVN luôn
tiềm ẩn rủi ro cao trong mỗi món vay. Hơn nữa, doanh nghiệp còn rất hạn chế trong
việc đưa ra những phương án kinh doanh có tính khả thi cao, các báo cáo tài chính
thì không minh bạch, không đủ sức thuyết phục các ngân hàng, đây chính là những
nguyên nhân khiến cho ngân hàng ít tin tưởng giao vốn cho DNVVN.
1.2 CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của
ngân hàng thương mại
Chất lượng cho vay không chỉ là kết quả của một quá trình kết hợp các hoạt
động của các bộ phận, các tổ chức khác nhau trong hệ thống ngân hàng mà còn thể
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
16
Chuyên đề tốt nghiệp
hiện mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, cũng như hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp. Chất lượng cho vay là một khái niệm không mang tính cụ thể,
không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng hay doanh nghiệp mà còn chịu nhũng tác động
của yếu tố từ môi trường bên ngoài.
Chất lượng cho vay là hiệu quả mà việc cho vay đem lại, là khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi vay đúng hạn. Khi ngân hàng đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu
vay vốn hợp lý của khách hàng, phù hợp với khả năng của ngân hàng, được khách
hàng sử dụng đúng mục đích tạo ra số tiền lớn hơn và hoàn trả được ngân hàng cả
gốc và lãi đúng thời hạn thì có thể nói chất lượng cho vay của ngân hàng đối với
doanh nghiệp là tốt. Vốn vay của ngân hàng tạo ra hiệu quả kinh tế và xã hội.
Chất lượng cho vay được xét trên các quan điểm khác nhau như sau:
- Chất lượng cho vay đối với ngân hàng: một khoản vốn cho vay được coi là
có chất lượng khi phạm vi, giới hạn, mức độ cho vay phù hợp với khả năng của
ngân hàng, đảm bảo nguyên tắc cho vay chung, hạn chế thấp nhất mức độ rủi ro
trong suốt quá trình kinh doanh. Ngân hàng hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
nhưng đồng thời phải đảm bảo được khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi trong
thời hạn đã qui định. Đứng trên giác độ của ngân hàng, nâng cao chất lượng cho vay
đối với DNVVN là tăng khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của DNVVN
với lãi suất và kỳ hạn phù hợp, tăng khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn và
nâng cao hiệu quả kinh tế của món vay mang lại.
- Chất lượng cho vay đối với khách hàng: chất lượng cho vay đối với
DNVVN là vốn vay ngân hàng được đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu của doanh
nghiệp, số vốn đó được doanh nghiệp sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh
một cách đúng mục đích, hiệu quả để tạo ra được một số tiền lớn hơn, đủ để trang
trải chi phí và có lợi nhuận làm cơ sở cho việc hoàn trả khoản vay ngân hàng.
Khoản vay phải có phải có lãi suất, kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, không làm mất
nhiều thời gian của khách hàng. Điều quan trọng là việc sử dụng các khoản vay phải
hợp lý và mang lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
- Chất lượng cho vay đối với nền kinh tế: chất lượng cho vay được thể hiện ở
việc khoản cho vay của ngân hàng phục vụ tốt sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp
phần giải quyết công ăn việc làm, tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế, thúc đẩy
quá trình tích tụ tập trung sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp
với mục tiêu công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, và cơ bản là giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Thực tế hiện nay cho thấy chất lượng cho vay DNVVN tại các ngân hàng thương
mại chưa cao. Vì vậy, cùng với việc mở rộng cho vay DNVVN, việc nâng cao chất
lượng cho vay tại các ngân hàng thương mại là rất cần thiết.
1.2.2 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
của ngân hàng thương mại
Các chỉ tiêu định tính
• Hiệu quả xã hội của khoản vay
Hiệu quả xã hội của khoản vay đem lại là một trong những yếu tố nhằm đánh
giá chất lượng cho vay bởi vì hoạt động cho vay không chỉ hướng tới mục tiêu lợi
nhuận mà còn còn phải đảm bảo hiệu quả xã hội. Có nghĩa là hoạt động cho vay
phải phục vụ sản xuất và lưu thông theo đúng đường lối kinh tế của Đảng và Nhà
nước đã đề ra, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, hạn chế tệ
nạn xã hội, khai thác tốt các nguồn lực của quốc gia, thúc đẩy nhanh quá trình tích
tụ tập trung vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế, tăng trưởng tín dụng với ổn định kinh tế xã hội.
• Khả năng trả nợ của doanh nghiệp
Hoạt động cho vay của doanh nghiệp là hoạt động luôn mang tính rủi ro cao
do khả năng trả nợ của các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN luôn chịu ảnh hưởng
của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà ngân hàng cũng như doanh nghiệp
không thể lường trước được. Nếu doanh nghiệp không trả được nợ sẽ kéo theo
những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng, ngân hàng đứng trước nguy cơ mất
khả năng thanh toán, thậm chí có thể dẫn tới phá sản. Do đó, trong quá trình thực
hiện qui trình cho vay, để quyết định cấp vốn đầu tư vào một dự án nào đó, ngân
hàng phải tiến hành thẩm định thật kỹ doanh nghiệp, đánh giá đúng khả năng trả nợ
( bao gồm cả gốc và lãi) của doanh nghiệp được cho vay, từ đó mới quyết định có
nên cho doanh nghiệp đó vay vốn hay không.
Các chỉ tiêu định lượng
• Chỉ tiêu dư nợ cho vay DNVVN
Dư nợ cho vay DNVVN
Tỷ trọng dư nợ cho vay = x 100%
DNVVN Tổng dư nợ cho vay
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu này cho thấy qui mô nợ cho vay của doanh nghiệp trong tổng dư nợ
cho vay của toàn ngân hàng. Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp cao hay
thấp cho thấy hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp đạt kết quả tốt hay chưa tốt.
• Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng cho vay DNVVN
Dư nợ cho vay DNVVN năm sau
Tốc độ tăng trưởng cho vay = x 100%
DNVVN Dư nợ cho vay DNVVN năm trước
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng trưởng hoạt động cho vay đối với
DNVVN của ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng cho vay năm sau cao hay thấp hơn
năm trước cho thấy qui mô tín dụng của ngân hàng tăng hay giảm, ngân hàng có tạo
ra được uy tín đối với doanh nghiệp hay không.
• Chỉ tiêu tỉ lệ nợ quá hạn đối với cho vay DNVVN
Dư nợ quá hạn DNVVN
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với = x 100%
DNVVN Tổng dư nợ cho vay DNVVN
Chỉ tiêu nợ quá hạn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay
của ngân hàng, nó cho biết những rủi ro cho vay mà ngân hàng có thể gặp phải.
nhìn vào tỉ lệ nợ quá hạn có thể đánh giá được một phần chất lượng cho vay của
ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này cao thì ngân hàng sẽ bị đánh giá là có chất lượng
cho vay thấp và ngược lại. Tuy nhiên, nợ quá hạn là một vấn đề khó tránh khỏi
trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Vì vậy điều quan trọng là ngân hàng cần
duy trì một tỉ lệ nợ quá hạn ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được.
• Chỉ tiêu tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay
Thu nhập từ hoạt động cho vay DNVVN
Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động = x100%
cho vay đối với DNVVN Tổng thu nhập ngân hàng
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh phần trăm thu nhập từ hoạt động cho vay đối với
DNVVN của ngân hàng trong tổng thu nhập chung của ngân hàng. Nó trực tiếp cho
thấy hiệu quả của hoạt động cho vay đối với DNVVN và khả năng sinh lời từ hoạt
động này. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay đối với DNVVN càng cao thì
càng chứng tỏ chất lượng cho vay đối với DNVVN càng cao và ngược lại.
• Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm
Dư nợ cho vay của DNVVN có TSĐB
Tỷ lệ dư nợ cho vay của = x 100%
DNVVN có TSĐB Dư nợ cho vay DNVVN
Tài sản đảm bảo có giá trị như một cam kết trả nợ của doanh nghiệp khi vay
vốn, do đó tài sản đảm bảo là một trong những yêu cầu quan trọng của ngân hàng
đối với doanh nghiệp khi quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Nếu doanh
nghiệp không trả được nợ, ngân hàng có quyền phát mại tài sản đảm bảo để thu nợ.
Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ tài sản đảm bảo phản ánh mức độ an toàn của món vay.
• Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay DNVVN
Doanh số thu nợ cho vay DNVVN
Vòng quay vốn cho vay = x 100%
DNVVN Dư nợ cho vay DNVVN
Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay DNVVN thể hiện tốc độ luân chuyển vốn cho
vay đối với DNVVN của ngân hàng. Vòng quay vốn càng cao, vốn được luân
chuyển càng nhanh, ngân hàng có khả năng đáp ứng ngày càng nhiều và kịp thời
nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Chỉ tiêu này còn cho biết
doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả và chất lượng cho vay của ngân hàng có tốt
hay không.
1.3 NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.3.1 Nhân tố chủ quan
- Chính sách cho vay của ngân hàng
Chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động cho vay của ngân hàng, có ý
nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Chính sách cho vay
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
20
Chuyên đề tốt nghiệp
của ngân hàng hướng dẫn chung cho cán bộ và công nhân viên ngân hàng, tạo sự
thống nhất trong hoạt động nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao khả năng sinh lời. Chính
sách cho vay bao gồm nhiều chính sách như: chính sách khách hàng; chính sách qui
mô và giới hạn cho vay; chính sách lãi suất, chính sách về thời hạn cho vay và kỳ
hạn nợ; chính sách liên quan đến tài sản bảo đảm…Chính sách cho vay phải phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước đã đề ra, đồng thời phối
hợp hài hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng với người sử dụng
vốn vay, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn cũng như đảm
bảo an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại nhưng đồng thời vẫn đảm
bảo mức sinh lời cho ngân hàng. Để đạt được như vậy, chính sách cho vay phải
được xây dựng một cách khoa học và thực tiễn.
- Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là một yếu tố không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến
chất lượng cho vay của ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có
thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo
tiền vay, nâng cao hiệu quả tín dụng, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Thông tin tín dụng
có thể thu thập được từ các nguồn thông tin sẵn có của ngân hàng, hay từ các ngân
hàng, các đối thủ cạnh tranh…Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần quan tâm đến tình
hình kinh tế xã hội xu hướng phát triển cạnh tranh của ngành nghề, những yếu tố có
thể thay đổi hay ảnh hưởng đến dự án cho vay trong tương lai.
- Công tác tổ chức ngân hàng
Không chỉ tác động đến chất lượng cho vay, công tác tổ chức ngân hàng còn
tác động đến mọi hoạt động của ngân hàng, vì thế nên công tác tổ chức ngân hàng là
một nhân tố mà các nhà quản trị ngân hàng hết sức lưu tâm. Nếu một ngân hàng có
cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học, sự phân công công việc được tiến
hành một cách cụ thể, rõ ràng, có sự gắn kết giữa các bộ phận thì việc đáp ứng các
yêu cầu của khách hàng sẽ được thực hiện kịp thời, công tác tín dụng sẽ trở nên
hiệu quả và an toàn hơn.
- Chất lượng và tư cách đạo đức của nhân viên ngân hàng
Chất lượng nhân sự là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong
hoạt động kinh doanh nói chung và đặc biệt trong hoạt động ngân hàng thì chất lượng
nhân sự lại càng quan trọng hơn. Cán bộ công nhân viên là bộ mặt, là hình ảnh của
ngân hàng đối với khách hàng. Một ngân hàng muốn hoạt động, kinh doanh tốt trước
hết phải có một đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, sáng tạo trong kinh doanh
Vũ Thị Thu Hoài Lớp: TCDN 48A
21