Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Nghiên cứu cấu trúc - kiến tạo và tiềm năng dầu khí tầng Oligoxen mỏ Bạch Hổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.06 KB, 51 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mở đầu
Khóa luận tốt nghiệp nằm trong chơng trình đào tạo bắt buộc của Khoa Địa
Chất Trờng Đại Học Khoa Học Tự Nhiên-Đai Học Quốc Gia Hà Nội. Với chơng
trình đào tạo của bộ môn địa chất dầu khí, đề tài khóa luận này chọn hớng nghiên
cứu trong lĩnh vực dầu khí.
Công nghiệp dầu khí nớc ta là một nghành công nghiệp non trẻ, nhng nó là
một ngành công nghiệp mũi nhọn, góp phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu.
Tháng 11 năm 2001 vừa qua, Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro đã khai
thác tấn dầu thô thứ 100 triệu trên thềm lục địa Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu một
bớc ngoặt lớn trong nền công nghiệp dầu khí nớc nhà cũng nh trong nền kinh tế
quốc dân.
Trong suốt hơn 20 năm hoạt động, ngành dầu khí đã đem lại cho nền kinh tế
Việt Nam một nguồn ngoại tệ lớn và là ngành công nghiệp trọng điểm đợc Đảng và
Nhà nớc ta đặc biệt quan tâm phát triển. Nhiệm vụ của ngành công nghiệp dầu khí
hết sức nặng nề là phải tăng cờng hoạt động tìm kiếm thăm dò để gia tăng trữ lợng
dầu khí 50 triệu tấn dầu thô/năm trong giai đoạn 2001-2005. Chính vì vậy, công tác
thăm dò và nghiên cứu dầu khí không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa
thực tiễn rất to lớn trong việc đẩy mạnh và phát triển công nghiệp dầu khí đạt hiệu
quả cao.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của các ngành trong cả nớc, ngành công
nghiệp dầu khí đã và đang đóng góp đáng kể trong nền kinh tế quốc dân từ vai trò
thực tế của sản phẩm từ dầu khí, sự thu hút lao động, đầu t từ nớc ngoài, đến việc
điều hoà kinh tế các vùng, điều hoà cán cân thơng mại và làm tăng GDP của đất n-
ớc, vì vậy chúng ta thấy rõ đợc tầm quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí.
Nội dung-mục đích ý nghĩa thực tiễn của khoá luận
Sau khi kết thúc khoá học tại nhà trờng, cũng nh mọi sinh viên, để chuẩn bị
tốt nghiệp và đợc phép của nhà trờng và ban lãnh đạo công ty PIDC. Tôi đã thực tập
tại phòng Thăm Dò từ ngày 01-03-2003 đến ngày 30-05-2003. Để tổng kết lại kiến
thức đã học cùng với một khái niệm ban đầu về công việc sau này của một cử nhân
địa chất dầu khí, phù hợp với chuyên môn đào tạo, dới sự hớng dẫn của PGS-TSKH


Phan Văn Quýnh, THS Nguyễn Văn Đài, chú Nguyễn Đức Hoà (cán bộ phòng thăm
dò-công ty PIDC), tôi đợc giao đề tài:
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nghiên cứu cấu trúc-kiến tạo và tiềm năng dầu khí tầng Oligoxen mỏ
Bạch Hổ
Khóa luận đã giúp sinh viên hoàn thiện tay nghề trong nghiên cứu địa chất
dầu khí. Ngoài các phơng pháp nghiên cứu cơ bản, sinh viên đã đi sâu vào phơng
pháp sử dụng công nghệ tin học xử lí số liệu địa chất dầu khí, cụ thể ở đây là lập bản
đồ đẳng dày. Sử dụng phơng pháp GIS chồng ghép các lớp thông tin đẳng sâu, xây
dựng các bản đồ đẳng dầy và các cấu trúc kiến tạo hệ quả của hệ thông tin này.
Ngoài ra sinh viên còn sử dụng các phần mềm dầu khí chuyên dụng cho mục đích
trên.
Cấu trúc khoá luận ngoài phần mở đầu và kết luận đợc chia làm hai phần:
Phần I
Địa chất khu vực: Bể Cửu Long
ChơngI: Đặc điểm địa lý tự nhiên khu vực nghiên cứu
ChơngII: Lịch sử nghiên cứu địa chất khu vực
Chơng III:Đặc điểm địa chất khu vực
Phần II
Chuyên đề
Cấu trúc-kiến tạo và tiềm năng dầu khí tầng Oligoxen mỏ Bạch Hổ
Chơng IV: Hệ các phơng pháp nghiên cứu cơ bản
Chơng V: Đặc điểm cấu trúc-kiến tạo và tiềm năng dầu khí tầng
Oligoxen mỏ Bạch Hổ trên cơ sở phân tích bản đồ đẳng dày sử dụng các phần
mềm chuyên dụng GIS và CPS-3.
Mục đích của khoá luận nhằm nghiên cứu cấu trúc kiến tạo trên cơ sở đó
đánh giá tiềm năng dầu khí và xây dựng các tiền đề định hớng cho việc tìm kiếm
thăm dò và khai thác sản phẩm có hiệu quả.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việc khai thác nguồn dầu khí thiên nhiên nhờ có phơng pháp nghiên cứu
hợp lý sẽ là mục đích và thành công của ban lãnh đạo cùng cán bộ công nhân
viên ngành dầu khí. Công việc khai thác luôn đòi hỏi tính hiệu quả, nên việc
nắm vững về cấu trúc kiến tạo của các vùng mỏ là cần thiết. Song việc nghiên
cứu về cấu trúc kiến tạo mỏ cần đợc kết hợp với nghiên cứu tớng đá cổ địa lý,
tiến hoá môi trờng trầm tích trên cơ sở đó đánh giá tiềm năng dầu khí thì sẽ đa
ra đuợc phơng pháp nghiên cứu hợp lý đảm bảo cho công việc khai thác có hiệu
quả cao. Khoá luận cha giải quyết đợc vấn đề nêu trên do thời gian thực tập và
nguồn thu thập tài liệu còn hạn chế, nhng cũng đã nêu đợc một số khía cạnh.
Do trình độ và thời gian có hạn,và cha qua thực tiễn sẩn xuất. Khoá luận
này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế sinh viên làm tốt nghiệp hy
vọng nhận đợc sự tham gia đóng góp của các thầy cô, các cán bộ và các bạn
đồng môn để tích luỹ thêm kiến thức và mong rằng sẽ đợc tiếp tục nghiên cứu
và có chút đóng góp trong tơng lai.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phần I
địa chất khu vực: bể cửu long
ch ơng I
đặc điểm địa lý tự nhiên KHU VựC nghiên cứu
I. Vị trí địa lý
Mỏ Bạch Hổ nằm trong đới nâng Trung Tâm thuộc bể Cửu Long ở phần
Đông Nam thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Bể Cửu Long có dạng hình oval với
diện tích trên 200.000 km
2
giới hạn trong toạ độ địa lý: 9
0
-11
0

vĩ độ Bắc và 106
0
30-
109
0
kinh độ Đông. Phía Tây đợc bao quanh bởi đờng bờ từ Cà Ná-Phan Thiết, vũng
Tàu đến Bạc Liêu, Cà Mau. Phía Nam và Đông Nam có một đới nâng ngầm Côn Sơn
chạy dọc theo các đảo nhô cao hiện đại nh Hòn Khoai, Hòn Trứng, Côn Sơn ngăn
cách bể Cửu Long với Bể Nam Côn Sơn. Phíâ Bắc giáp bể Phú Khánh, phía Tây
Nam là bể Malay-Thổ chu.
II. Điều kiện địa lý tự nhiên
1. Địa hình địa mạo
Phần viết này sinh viên dựa vào tài liệu của Tổng Công Ty Dầu Khí và tham
khảo một số khóa luận tốt nghiệp của các năm trớc.
Khu vực nghiên cứu thuộc thềm lục địa phía Nam Việt Nam, kéo dài từ bờ
biển Phan Thiết đến Hà Tiên, bao gồm một phần của biển Đông và một phần của
Vịnh Thái Lan. ở Đông Bắc và phía Đông đảo Phú Quý thì thềm lục địa đặc trng
bởi độ dốc lớn, chiều rộng hẹp, ở phía Tây thềm lục địa có nơi chiều rộng đạt hơn
100 km trên đờng đẳng sâu nớc 20 m. Đặc Biệt ở đới cắt Tuy Hoà, Đông Nam có
đới nâng Côn Sơn, phía Tây Nam chặn bởi đới nâng Korat Natuna. Trên nền thềm
lục địa bằng phẳng, thỉnh thoảng xuất hiện một số đảo nhỏ tạo ra sự phân cắt địa
hình mạnh. Thềm lục địa Nam Việt Nam hội tụ nhiều con sông, lớn nhất là sông
Cửu Long có lu lợng nớc 228.10
4
m
3
/phút, cho lợng phù sa 0.25 kg/m
3
. Mỏ Bạch Hổ
là mỏ dầu lớn đầu tiên đợc phát hiện và đa vào khai thác từ năm 1986 đến nay, nằm

trong kiểu địa hình này.
Vùng trung tâm thềm lục địa Việt Nam có đáy biển đa dạng nhất, đợc ngăn
cách ở phía Tây Nam bởi đảo Côn Sơn và Đông Bắc bởi đảo Phú Quý, còn phía
Đông Nam là vùng chuyển tiếp và vùng thềm ngoài. Vùng cửa sông giáp biển, địa
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hình đáy bồn trũng bao gồm các rãnh sông ngầm, bãi cát ngầm, doi cát và các đảo
rải rác. Vùng cửa sông giáp biển phía Tây Nam phát triển nhiều khối nhô của đáy
biển. Còn phía Tây Bắc cửa sông giáp biển bao gồm nhiều rãnh ngầm kéo dài và các
đập chắn ngầm, các rãnh lòng sông ngầm thờng không đợc thể hiện do đã bị tác
động của thuỷ triều san bằng. Trong khi đó các dòng xoáy tiếp tục xoáy sâu tạo nên
những lõm không tách biệt kế tiếp nhau tạo thành những lõm hẹp kéo dài dạng
thung lũng. ở phía Tây Nam bể Cửu Long, từ độ sâu 40 m đến 600 m đã phát hiện
thấy đảo san hô ngầm có chiều dài tới 13 km, rộng 8 km nhô cao cách đáy biển một
vài chục mét. Phần lớn ám tiêu san hô thể hiện trên địa hình đáy biển tập trung ở
phần Đông Nam của cấu tạo đới Trung Tâm Bạch Hổ và Rồng (hình 1.1)
2. Khí hậu
Khí hậu đặc trng cho vùng xích đạo chia làm hai mùa rõ rệt: mùa khô (từ
tháng 11 đến tháng 3 năm sau) và mùa ma (từ tháng 5 đến tháng 9). Nhiệt độ trung
bình trên bề mặt vào mùa ma là 27
0
-28
0
C, mùa khô là 29
0
-30
0
C. Tại độ sâu 20 m n-
ớc, vào mùa ma nhiệt độ trung bình là 26
0

-27
0
C và mùa khô là 28
0
-29
0
C. Nhìn chung
khí hậu khô ráo, độ ẩm trung bình 60%.
Bể Cửu Long có hai chế độ gió mùa. Chế độ gió mùa Đông đặc trng bởi gió
mùa Đông Bắc từ đầu tháng 11 năm trớc đến cuối tháng 3 năm sau với ba hớng gió
chính: Đông Bắc, Đông và Đông Đông Bắc. Vào tháng 12 và tháng 1, hớng gió
Đông Bắc chiếm u thế, còn tháng 3 thì hớng gió Đông chiếm u thế. Đầu mùa tốc độ
gió trung bình và cực đại thờng nhỏ, sau đó tăng dần lên và lớn nhất vào tháng 1 và
tháng 2. Gió mùa hè đặc trng bởi gió mùa Tây Nam, kéo dài từ cuối tháng 5 đến
giữa tháng 9 với các hớng gió u thế là Tây Nam và Tây Tây Nam. Ngoài ra, còn hai
thời kỳ chuyển tiếp từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 5 (chuyển từ chế độ gió mùa
Đông Bắc sang chế độ gió mùa Tây Nam) và từ tháng 9 đến đầu tháng 11 và 12 có
nhiều khả năng xảy ra bão. Bão thờng di chuyển về hớng Tây hoặc Tây Nam. Tốc
độ gió mạnh nhất trong vòng bão đạt tới 50 m/s. Trong 80 năm qua chỉ xẩy ra bốn
cơn bão (trong đó cơn bão số 5 năm 1997 gần đây nhất).
3. Chế độ hải văn
Chế độ sóng ở khu vực này mang tính chất sóng gió rõ rệt. Giữa mùa Đông,
hớng sóng Đông Bắc chiếm u thế gần tuyệt đối với độ cao sóng đạt giá trị cao nhất
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong cả năm. Tháng 1 năm 1984, độ cao của sóng đạt cực đại tới 8 m ở khu vực
vòm Trung Tâm mỏ Bạch Hổ. Mùa Đông hớng sóng u thế Đông Bắc, Bắc Đông Bắc
và Đông Đông Bắc. Mùa hè, hớng sóng chính là Tây Nam, hớng Tây và Đông Nam
cũng xuất hiện với tần xuất tơng đối cao.
Dòng chảy đựoc hình thành dới tác động của gió mùa ở vùng biển Đông. H-

ớng và tốc độ dòng chảy xác định đợc bằng hớng gió và sức gió.
Nhìn chung khu vực bể Cửu Long có địa hình phức tạp, khí hậu mang tính
chất nhiệt đới gió mùa. Đây là một khu vực tìm kiếm, thăm dò dầu khí quan trọng,
có mật độ dày đặc nhất và hiệu suất cao nhất. Ngày nay, bể Cửu Long đã hình thành
nên một quần thể khai thác dầu khí lớn nhất Việt Nam bao gồm các mỏ nh Bạch Hổ,
Rồng, Rạng Đông, Ruby,... với sản lợng khai thác chiếm 96% sản lợng khai thác
dầu thô của Việt Nam.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ch ơng II: Lịch sử nghiên cứu địa chất khu vực
Từ những năm sáu mơi đến nay trong số các bể trầm tích ở thềm lục địa Việt
Nam, bể Cửu Long là nơi mà công tác tìm kiếm và thăm dò dầu khí đợc mở đầu sớm
nhất và cũng là nơi đánh dấu thành quả lớn nhất của ngành dầu khí Việt Nam. Lịch
sử nghiên cứ, thăm dò tìm kiếm dầu khí tại mỏ Bạch Hổ nói riêng bể Cửu Long nói
chung bị chi phối trực tiếp của công cuộc cách mạng giải phóng miền Nam của dân
tộc ta. Vì vậy, chúng ta có thể lấy mốc là năm 1975, một mốc son chói lọi nhất của
cách mạng Việt Nam, thời điểm thống nhất đất nớc, từ đó có thể chia lịch sử nghiên
cứu dầu khí bể Cửu Long ra thành 2 giai đoạn, giai đoạn trớc năm 1975 và giai đoạn
sau năm 1975 (theo tài liệu của Tổng Công Ty Dầu Khí).
Lịch sử nghiên cứu của khu vực có thể chia ra làm 2 thời kỳ:
I. Giai đoạn tr ớc năm 1975
Năm 1973 - 1974, bằng phơng pháp khảo sát địa chấn phản xạ trên các lô 15,
09, 16 ở thềm lục địa Nam Việt Nam, các Công ty dầu khí của Mỹ là Pecten và
Mobil đã phát hiện đới nâng trung tâm trũng Cửu Long trong đó có cấu tạo Bạch
Hổ, Rồng.
Năm 1974, công ty Mobil đã phát hiện dòng dầu công nghiệp đầu tiên ở thềm
lục địa Việt Nam.
Nh vậy, từ trớc năm 1975, bể Cửu Long mới chỉ đợc nghiên cứu và thăm dò
trên mặt mà cha đa vào khai thác.
II. Giai đoạn từ 1975 đến nay

Sau khi Miền Nam đợc giải phóng, ngày 03/09/1975, chính phủ ra nghị định
thành lập Tổng Cục Dầu Khí Việt Nam. Đây là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện
việc quản lý nhà nớc toàn bộ tài nguyên dầu khí cả nớc, tổ chức tìm kiếm thăm dò
khai thác, chế biến và thực hiện hợp tác với nớc ngoài.
Năm 1976: công ty địa vật lý CCG (Pháp) đã tiến hành khảo sát nhằm liên
kết địa chát từ các lô 09, 16, 17 vào đất liền thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 1978: công ty địa vật lý GECO (Nauy) đã khảo sát mạng lới tuyến
8x8km, 4x4km và chi tiết hơn trên các lô 09 và 17 với mạng 2x2km, 1x1km.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Năm 1979: công ty DENIMEX đã phủ mạng lới tuyến 3.5x3.5km và đã
khoan kiểm tra trên bốn cấu tạo Trà Tân (15_A_1X), Sông Ba (15_B_1X), Cửu
Long (11_6_1X) và Đồng Nai (15_G_1X). Trong giếng khoan 15_A_1X đã phát
hiện dầu khí ở độ sâu 2307-2313 m.
Ngày 19/06/1981, chính phủ Việt Nam ký hiệp định liên chính phủ với Liên
Bang Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết thành lập Xí Nghiệp Liên Doanh Dầu
Khí Việt Xô (Vietsovpetro). Sự kiện này đánh dấu một bớc phát triển mới của ngành
công nghiệp dầu khí còn non trẻ của Việt Nam. Vietsovpetro đã thực hiện khảo sát
địa chấn trên thềm lục địa Việt Nam, khoan thăm dò và phát hiện dầu ở các cấu tạo:
Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Tam Đảo, Ba Vì và Sói.
Năm 1986: Mỏ Bạch Hổ bắt đầu đi vào khai thác.
Năm 1988 : Vietsovpetro phát hiện dầu nằm trong đá móng nứt nẻ granit,
granodiorit ở mỏ Bạch Hổ. Cho tới nay, đá móng nứt nẻ trở thành đối tợng chính
trong các hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía
Nam. Trữ lợng và tiềm năng dự báo khoảng 700-800 triệu m
3
dầu, chủ yếu tập trung
trong đá móng.
Từ khi có luật đầu t nớc ngoài (1988), công tác tìm kiếm, thăm dò và khai
thác dầu khí đợc thúc đẩy mạnh mẽ, phạm vi và đối tợng tìm kiếm cũng đợc mở

rộng. Tổng Công Ty Dầu Khí đã ký 37 hợp đồng với tổng diện tích các lô ký hợp
đồng khoảng 250.000km
2
chiếm gần 50% diện tích thềm lục địa Việt Nam tính tới
độ sâu 200m nớc, một số nơi tới 1000m tập trung chủ yếu ở bể Cửu Long và Nam
Côn Sơn. Cho đến nay, bể Cửu Long đã có thêm ba mỏ nữa đợc đa vào khai thác:
mỏ Rồng (12/1994), Rạng Đông (1998), Ruby (10/1998). Sản lợng dầu khai thác
của bể Cửu Long chiếm tới 96% sản lợng dầu thô trong cả nớc. Khoảng 100 giếng
khoan khai thác dầu từ móng của mỏ Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Ruby cho lu lợng
giếng hàng trăm tấn/ngày đêm, có giếng đạt tới 1000 tấn/ngày đêm, đã và đang
khẳng định móng phong hoá là đối tợng chính cần đợc quan tâm hơn nữa trong công
tác tìm kiếm và thăm dò dầu khí trong tơng lai của bể Cửu Long và các vùng kế cận.
Các bẫy phi cấu tạo trong trầm tích (play2) cũng là đối tợng tìm kiếm quan trọng
trong thời gian tới.
Năm 2001, Vietsovpetro đã kỷ niệm khai thác tấn dầu thô thứ 100 triệu. Đây
là một dấu ấn quan trọng trong bớc tién của ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam.
Trong hơn 20 năm qua, ngành dầu khí đã đạt đợc những thành tựu to lớn đóng góp
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên trong thời gian tới nhiệm vụ
đặt ra cho ngành hết sức quan trọng là phải đẩy mạnh công tác thăm dò nhằm phát
hiện gia tăng trữ lợng làm cơ sở cho việc quy hoạch khai thác dầu khí.
Song song với công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí hàng loạt các công trình
nghiên cứu bể Cửu Long của các tác giả trong và ngoài nớc ra đời. Các công trình
này đã góp phần đắc lực phục vụ cho công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác, tính
toán trữ lợng dầu khí ở Việt Nam.
Năm 1997, đề tài nghiên cứu Điều kiện lắng đọng trầm tích-cổ địa lý các
tầng chứa dầu khí trong trầm tích Oligoxen hạ mỏ Bạch Hổ thuộc bồn trũng Cửu
Long của Nguyễn Đình Dỹ và nnk là công trình nghiên cứu hoàn chỉnh đầu tiên về
tớng đá cổ địa lý ở vùng mỏ Bạch Hổ.

Năm 2001 luận án tiến sĩ địa chất của Hoàng Phớc Sơn Đặc điểm thành tạo,
quy luật phân bố và phát triển các tầng trầm tích chứa dầu khí Oligoxen dới khu vực
Đông Nam bồn trũng Cửu Long đã đề cập đến đặc điểm cổ địa hình, cổ địa mạo,
điều kiện lắng đọng trầm tích ở khu vực Đông Nam bể Cửu Long góp phần làm sáng
tỏ tớng đá cổ địa lý giai đoạn Oligoxen hạ.
Năm 2001-2002, đề tài Nghiên cứu tớng đá cổ địa lý và chuẩn hoá địa tầng
Kainozoi ở mỏ Rồng và Bạch Hổ của Trần Nghi và nnk đã nghiên cứu một cách cụ
thể về đặc điểm tớng đá cổ địa lý giai đoạn Oligoxen-Mioxen và liên kết tỷ mỉ các
tầng chứa giai đoạn này ở mỏ Rồng và mỏ Bạch Hổ.
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu cấu trúc kiến tạo cũng nh nghiên cứu tớng đá
cổ địa lý, tiến hoá môi trờng trầm tích trong bể Cửu Long nói riêng và các bể trầm
tích Đệ Tam nói chung cần phải đợc đẩy mạnh hơn nữa để phục vụ cho công tác tìm
kiếm, đáng giá trữ lợng dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam. Đặc biệt là trong giai
đoạn hiện nay, khi mà nhiệm vụ đặt ra cho ngành dầu khí là phải đẩy mạnh công tác
tìm kiếm thăm dò dầu khí nhằm phát hiện và gia tăng trữ lợng hàng năm bình quân
50-70 triệu m
3
quy dầu nh định hớng phát triển của ngành đến năm 2020.
Cấu tạo Bạch Hổ và Rồng thuộc đới nâng Trung Tâm trũng Cửu Long là một
đới trong cấu trúc địa chất phức tạp của thềm lục địa Việt Nam, là một trong những
cấu trúc có đối tợng chứa dầu khí quan trọng đã đợc tiến hành tìm kiếm và thăm dò
từ những năm 1960. Hiện nay, đây là một khu vực đã hình thành một quần thể khai
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
th¸c dÇu khÝ ®Çu tiªn lín nhÊt trªn thÒm lôc ®Þa ViÖt Nam, gãp phÇn quyÕt ®Þnh vµo
thµnh tÝch khai th¸c 100 triÖu tÊn dÇu th« cña ngµnh dÇu khÝ ViÖt Nam.
NguyÔn ThÞ TrÇm K44 ®Þa chÊt
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ch ơng III: đặc điểm địa chất khu vực
I. Địa tầng khu vực nghiên cứu

1. Đặc điểm về địa tầng
Địa tầng của khu vực nghiên cứu đợc thành lập dựa vào kết quả phân tích
mẫu vụn, mẫu lõi, tài liệu carota và tài liệu phân tích cổ sinh từ các giếng khoan
trong phạm vi khu vực, với mặt cắt địa chất có từ móng tới Pliocen - Đệ tứ (hình
3.1).
Với một cấu trúc địa chất nằm sâu dới mực nớc biển, các tầng trầm tích hầu
nh nằm ngang, các thông tin về địa tầng đạt đợc chủ yếu bằng phơng pháp khoan và
địa chấn thì về mặt nghiên cứu sinh địa tầng là rất hạn chế. Bởi vậy sự liên kết địa
tầng ở đây chủ yếu là dựa vào thành phần thạch học. Dựa vào tài liệu của Tổng Công
Ty Dầu Khí đặc điểm địa tầng bể Cửu Long đợc khái quát nh sau.
1.1. Móng trớc Kainozoi
Dựa vào kết quả phân tích tài liệu khoan, liên kết với tài liệu địa chất đối với
các phức hệ đá móng tìm thấy trên đất liền cho thấy đá móng khu vực nghiên cứu có
thành phần chủ yếu là các thể xâm nhập nhóm granitoid (granitoid, granodiorit và
riolit thạch anh). Granit có màu xám, xám phớt hồng, dạng khối, hạt trung. Một số
mẫu chịu ảnh hởng của quá trình biến đổi thứ sinh và bị vò nát. Bề mặt phong hoá
của móng granit phân bố không đều, không liên tục trên các mặt địa hình cổ. Bề dày
lớp phong hoá trung bình 10 - 20m có nơi đạt hơn 40m (giếng khoan 411 mỏ Bạch
Hổ). Đá móng có tuổi Jura muộn - Kreta sớm (tuổi tuyệt đối khoảng 97 - 178 triệu
năm).
ở khu vực mỏ Rồng, dới tác dụng của các hoạt động kiến tạo, hoạt động
nhiệt dịch và quá trình phong hoá, đá móng bị nứt nẻ khá mạnh và đợc lấp đầy hoàn
toàn hay một phần bởi ximăng canxit và một phần nhỏ là ximăng zeolit màu trắng.
Gắn liền với chúng là các hang hốc có hình dạng rất khác nhau kích thớc khoảng
2cm. Đó là bằng chứng chứng tỏ sự pelit hoá mạnh mẽ của khoáng vật fenspat và sự
tái sắp xếp của các hạt thạch anh đã tạo ra lỗ rỗng và các hang hốc lớn. Độ rỗng
trong đá móng mỏ Rồng dao động trong phạm vi rất lớn từ 1 - 2 % đến 20 - 25%.
ở khu vực mỏ Bạch Hổ, kết quả nghiên cứu trong không gian đá móng cho ta
thấy độ rỗng nứt nẻ không cao, phân bố không đều, trung bình 3 - 5%. Quy luật
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phân bố độ rỗng hết sức phức tạp. Tuy nhiên, đá móng khu vực bể Cửu Long luôn là
đối tợng chứa dầu khí quan trọng.
1.2. Trầm tích Kainozoi
Phủ chồng lên bề mặt móng không đồng nhất trớc Kainozoi là các trầm tích
Kainozoi, các trầm tích này có tuổi từ Oligocen đến Pliocen - Đệ Tứ. Chúng có cấu
trúc phức tạp cả về diện tích lẫn chiều sâu của lát cắt. Trầm tích Kainozoi phủ bất
chỉnh hợp lên móng trớc Kainozoi với độ dày từ 2.5 - 8km, càng đi về trung tâm bồn
trũng độ dày càng tăng.
Hệ Paleogen
Thống Oligocen
Trầm tích Oligocen đợc phát hiện trong hầu hết các giếng khoan và chia làm
hai phụ thống.
Phụ thống Oligocen dới
Hệ tầng Trà Cú (E
3
1
tc)
Thành phần thạch học bao gồm chủ yếu là sét kết (agrilit) chiếm 60 - 90% và
trầm tích lục nguyên (cát kết, sét, bột kết).
Tập 1: Là một tập trầm tích lục nguyên gồm các lớp cát và sét xen kẽ nhau và
có độ dày tơng đối ngang nhau, ngoại trừ khu vực trung tâm mỏ Bạch Hổ và mỏ
Rồng. Chiều dày trên hệ tầng Trà Cú thay đổi rất mạnh từ 100 - 400m. Sét kết có
màu xám tối đến đen hồng, cứng và giòn, thành phần khoáng vật gồm kaolinit,
hydromica, clorit và zeolit. Cát kết chủ yếu hạt trung có màu xám tối, dạng khối với
thành phần khoáng vật bao gồm thạch anh, felspat, nhiều mảnh khoáng vật silicat,
đôi khi gặp các mảnh đá magma.
Tập 2: Là tập trầm tích hạt mịn bao gồm sét kết và bột kết. Tầng trầm tích
này có chiều dày cực đại đạt đến 120m, nhng ở một số khu vực chúng vắng mặt do
bị bào mòn. Thành phần thạch học của tầng trầm tích này là sét kết và bột kết màu

lam xám, xám tối và nâu xẫm. Chúng có cấu trúc phân lớp. Không gặp vi cổ sinh chỉ
thị. Có các tầng sét giàu vật chất hữu cơ nguồn gốc đầm hồ, đồng bằng ven biển,
đây có thể là tầng đá mẹ quan trọng, hơn nữa hệ số cát trung bình khoảng 50%, độ
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
rỗng hiệu dụng thay đổi từ 7 - 16%, nên chúng là đối tợng chứa dầu khí đáng quan
tâm.
Phụ thống Oligocen trên
Hệ tầng Trà Tân (E
3
2
tt)
Trầm tích thuộc hệ tầng Trà Tân có thể bắt gặp trong hầu hết các giếng khoan
của bể Cửu Long với chiều dày thay đổi từ 100 - 900m, bề dày tăng dần từ cánh đến
trung tâm. Thành phần thạch học bao gồm cát kết và sét kết xen kẽ nhau chủ yếu là
argilit màu xám đen, nâu tím chứa nhiều vật chất hữu cơ dạng sapropen. Chiều dày
tập sét kết thờng rất lớn và có chỗ đạt tới hàng trăm mét, có thể gặp một số tầng đá
phun trào xen kẽ các tập trầm tích. Có thể chia tập trầm tích hệ tầng Trà Tân ra làm
3 tập:
Tập 1: Cát kết mỏng xen kẽ giữa các tầng sét kết dày. Có nơi tập trầm tích
này nằm trực tiếp trên đá móng do trầm tích Oligocen dới bị bào mòn trớc đó.
Tập 2: Sét kết là chủ yếu, có xen kẽ một vài tập cát kết mỏng không đáng kể,
gặp phổ biến các vụn đá magma.
Tập 3: Sét kết, cát kết xen kẽ với tỷ lệ cát cao hơn so với hai tập dới. Khoáng
vật sét điển hình của hệ tầng gồm: Kaolinit, hyđromica. Khoáng vật cát điển hình là
thạch anh, mictit. Các dạng bào tử phấn hoa chỉ thị tìm thấy trong hệ tầng bao gồm:
Amphistegina sp., Florschuetzia trilobata, Psilotricolpites sp., Cicatricosisporites sp.,
Quecus sp. Là tập trầm tích có thành phần hạt mịn là chủ yếu, đặc biệt các lớp sét
bột giàu vật chất hữu cơ với môi trờng thành tạo đầm hồ và biển, do đó trầm tích
Oligocen là tầng sinh tốt nhất và đồng thời cũng là tầng chắn trong khu vực. Các lớp

cát phân bố dới dạng thấu kính không liên tục có thể đóng vai trò là tầng chứa dầu
khí tốt
Hệ Neogen
Thống Miocen
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phụ thống Miocen dới
Hệ tầng Bạch Hổ (N
1
1
bh)
Phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng Trà Tân và trầm tích hệ tầng Bạch Hổ có tuổi
Miocen sớm với chiều dày từ 200 - 1500m. Hoá thạch chỉ thị: Rotalia sp.,
Operculina sp., orbulina univesa, Pseudorotalia sp. Nhìn chung, hệ tầng này đợc
chia làm 3 tập và mô tả từ dới lên trên nh sau:
Tập 1: Trầm tích đầm hồ, cửa sông. Chiều dày thay đổi từ 60 - 300m. Thành
phần cát kết thạch anh, màu xám sẫm độ hạt thay đổi. ở phần dới của tập thấy cát
kết và dăm kết. Có gặp các lớp sét chiều dày không quá 5m, chủ yếu là monmoriolit,
chiếm khoảng 20% chiều dày của tập.
Tập 2 : Đặc trng bởi trầm tích hạt mịn là chủ yếu, thỉnh thoảng gặp một số
lớp cát kết với chiều dày không đáng kể và rất ít cuội kết. Tổng chiều dày của tập
khoảng 300m.
Tập 3: Các tầng mỏng cát, cát kết và đặc biệt có tầng sét dẻo dính dễ trơng
nở khi gặp nớc - tầng sét Rotalia. Đây là tầng chắn quan trọng của bể Cửu Long,
mang tính khu vực, hình thành trong điều kiện nớc ấm, nông với sự hoạt động của
các yếu tố động học. Khoáng vật sét bao gồm: Monmoriolit, hyđromica, cacbonat.
Xi măng chủ yếu là sét và cacbonat. Vật chất hữu cơ trong các lớp sét chủ yếu có
nguồn gốc lục địa đợc tích luỹ và bảo tồn trong môi trờng nớc, hàm lợng cacbon hữu
cơ không cao, chỉ có khả năng sinh khí kém. Nhìn chung, cát kết hệ tầng Bạch Hổ
có thành phần thạch anh, acko hạt trung đến thô, đôi khi gặp cuội kết. Tuy nhiên với

độ rỗng 10 - 12%, độ thấm 5 - 300mD, độ bão hoà dầu 57%, có thể nói đây là tầng
chứa tốt.
Phụ thống Miocen giữa
Hệ tầng Côn Sơn (N
1
2
cs)
Phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng Bạch Hổ là trầm tích hệ tầng Côn Sơn có tuổi
Miocen giữa có mặt khắp nơi trên bồn Cửu Long, chiều dày thay đổi từ 566 - 845m.
ở phía nam, hệ tầng này đợc đặc trng bởi các trầm tích lục nguyên hạt thô, bao gồm
cát thạch anh, sỏi, cát kết acko với hàm lợng plaziocla và octoclase khoảng 30%,
gắn kết yếu bằng ximăng cacbonat, cacbonat - monmoriolit, monmoriolit. ở phía
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bắc xuất hiện các tập mỏng trầm tích hạt mịn, đôi nơi lớn hơn 35% tổng chiều dày
tập trầm tích. Thành phần khoáng vật sét bao gồm khoáng vật monmoriolit với oxit
sắt, có màu xám, xám nâu vàng. Môi trờng thành tạo là biển ấm, nông có tác động
của dòng chảy (tam giác châu ven biển, biển nông). Hoá thạch vi cổ sinh khá đa
dạng, các đặc trng định tuổi Miocen giữa gồm: Globorotalia fohsi, orbulina univesa,
Probalina trilobital. Bào tử phấn hoa không có quy luật, các dạng đặc trng gồm:
Florschuezia levipoli, Verrutricolporites sp..
Phụ thống Miocen trên
Hệ tầng Đồng Nai (N
1
3
đn)
Trầm tích Miocen trên ở khu vực nghiên cứu thờng gặp ở độ sâu 600 - 700m
đến 1200 - 1500m. Bề dày tăng dần ra phía cánh cấu tạo và phủ chỉnh hợp lên hệ
tầng Côn Sơn.
Thành phần thạch học đặc trng chủ yếu là cát thạch anh lẫn sạn sỏi xen bột

sét xám, vàng bẩn, gắn kết yếu, phân lớp không đều. Đôi khi gặp các tầng sét và sét
vôi mỏng. Thờng xen kẽ các thấu kính than nâu. Vi cổ sinh và bào tử phấn hoa
phong phú đa dạng, các đặc trng cho phép định tuổi Miocen muộn gồm:
Florschuetzia levipoli, Picea, Carga, Alinus, Globotalia Acostaensis, Globotalia
Menardi... Môi trờng trầm tích là tam giác châu, ven bờ, biển nông. Ximăng thờng
là cacbonat - monmoriolit. Các trầm tích sét vôi có màu xám, nâu, trắng và vàng.
Môi trờng thành tạo là cửa sông nên không có triển vọng chứa dầu khí.
Thống Pliocen
Hệ tầng Biển Đông (N
2
bđ)
Nằm chỉnh hợp lên trầm tích Miocen muộn là trầm tích hệ tầng Biển Đông có
tuổi Pliocen. Trầm tích này gặp trong các giếng khoan ở độ sâu từ 200 - 300m đến
600 - 700m, chiều dày ít thay đổi. Thành phần thạch học gồm cát, cát kết màu vàng,
xám và xám sáng gắn kết yếu. ở đây thờng gặp các tầng sét vôi mỏng với nhiều
mảnh vỏ vôi sinh vật biển cũng nh các lớp sét cacbonat và monmoriolit mỏng. Đặc
biệt, trong trầm tích của hệ tầng Biển Đông còn gặp các hạt glauconit. Hoá thạch vi
cổ sinh khá phong phú và đa dạng, phần lớn là các loại bám đáy đặc trng cho tuổi
Pliocen gồm có: Globigerinoides extremus. Spharoi - dinella dehiscens,
Globoquadrinaaltispira, Globorotalia Margarita, Psedorotalia scherveteriana.. Bào tử
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phấn hoa cũng rất phong phú: Stenoshlaena sp., Pudocapus sp., Flor. Meridionalis,
Rhizophora sp., đặc trng cho môi trờng trầm tích biển. Vì thiếu vắng tầng chắn nên
trầm tích hệ tầng này hoàn toàn không có triển vọng dầu khí.
2. Đặc điểm về magma trong Pliocen - Đệ tứ
Các thành tạo núi lửa trong Pliocen - Đệ tứ là sản phẩm của các quá trình
hoạt động magma kiến tạo Kainozoi muộn. Các thành tạo phân bố rộng rãi trong
khu vực Đông Nam á. Trên thềm lục địa Việt Nam có nhiều biểu hiện của các đá
núi lửa trẻ đợc biểu hiện trên các mặt cắt địa vật lý và cũng đã phát hiện đợc trong

một số giếng khoan dầu khí ngoài khơi. Những dấu hiệu gián tiếp của những núi lửa
trẻ còn liên quan đến các biểu hiện khí cacbonic (CO
2
) đã phát hiện đợc trong nhiều
giếng khoan ngoài khơi trên thềm lục địa Trung Bộ. Cờng độ hoạt động mạnh và
biểu hiện rõ ràng chỉ khoảng 3 triệu năm trở lại cho tới nay. Có thể chia thành 4 giai
đoạn hoạt động núi lửa trên thềm lục địa Việt Nam nh sau:
Giai đoạn Miocen muộn
Giai đoạn Pliocen - Pleistocen sớm
Giai đoạn Pleistocen sớm - giữa
Giai đoạn Holocen - hiện đại
Các hoạt động magma trẻ rất ảnh hởng đến các tích tụ dầu khí đã đợc hình
thành trớc đó. Vì vậy, cần phải phân tích quy luật phân bố và ảnh hởng của chúng
tới các bẫy dầu khí.
II. Cấu trúc - kiến tạo khu vực
1. Vị trí kiến tạo bể Cửu Long
Bể Cửu Long nằm ở phía Đông Nam của thềm lục địa phía Nam Việt Nam,
phía tây của bể giáp với đờng bờ từ Cà Ná - Phan Thiết, Vũng Tàu có xâm nhập và
phun trào Mesozoi, phía đông nam đợc giới hạn bởi đới nâng ngầm Côn Sơn chạy
dọc theo các đảo nhô cao hiện tại nh Hòn Trứng, Hòn Khoai, Côn Sơn. Với hình thái
cấu trúc có dạng oval lớn, sụt lún trong Kainozoi, trầm tích bên trong chủ yếu là
thành tạo lục nguyên từ thô đến mịn. Chiều dày nhất khoảng 7000m. Diện tích của
bể không lớn lắm (200.000km
2
), độ sâu đáy biển hiện tại không quá 50m nớc nên
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
rất thuận lợi cho việc tìm kiếm và thăm dò dầu khí. Vị trí kiến tạo của bể đợc thể
hiện trên bản đồ (hình 3.2).
2. Đặc điểm về cấu trúc

2.1. Cấu trúc đứng
Qua phân tích các mặt cắt địa chất, địa chấn- địa vật lý cùng các bình đồ cấu
trúc thì sự thành tạo các khối nâng Bạch Hổ, Rồng là do chuyển động nâng lên của
móng, đặc điểm cấu trúc của bể Cửu Long thể hiện rõ hai thành phần riêng biệt:
Cấu trúc móng trớc Kainozoi
Cấu trúc lớp phủ Kainozoi phát triển bất chỉnh hợp trên mặt móng trớc
Kainozoi
2.1.1. Cấu trúc móng trớc Kainozoi
Theo thành phần vật chất của đá móng trớc Kainozoi đã lấy đợc qua các mẫu
lõi giếng khoan gặp đá móng và quan sát đợc thấy có sự thay đổi đáng kể theo diện
tích của khu vực. Các mẫu đá bao gồm chủ yếu là các đá granit, granitoid,
granodiorit, có nơi thấy có cả riolit thạch anh. Tuổi đồng vị xác định là Jura - Kreta.
Hình dáng hiện nay của mặt móng đã đợc xác định qua tài liệu địa chấn, từ và đợc
chứng minh bằng tài liệu địa chất. Bản đồ cấu tạo móng âm học đã chứng minh cho
sự phức tạp đó. Móng trớc Kainozoi bao gồm các thành tạo tuổi khác nhau, nhng
chủ yếu là Mezozoi.
2.1.2. Lớp phủ
Trầm tích Kainozoi phủ chồng lên mặt móng có bề dày đáng kể tuỳ theo từng
khu vực và đợc chia ra làm ba tầng cấu trúc khác nhau:
Tầng cấu trúc dới (bồn trầm tích Oligocen)
Tầng cấu trúc trên (bồn trầm tích Mioxen)
Tầng cấu trúc lớp phủ thềm lục địa Pliocen - Đệ tứ
2.1.2.1. Tầng cấu trúc Oligocen
Bao gồm hai hệ tầng trầm tích:
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các đá hệ tầng Trà Cú thuộc hệ Oligocen dới và các đá hệ tầng Trà Tân thuộc
phụ hệ Oligocen trên.
Trầm tích Oligocen dới thay đổi đáng kể và chiều dày có giá trị lớn nhất ở
phía Bắc, Đông Bắc, Đông Nam của khu vực nghiên cứu. ở khối nâng Trung Tâm,

trầm tích này bị mất. Hầu hết các đứt gãy hoạt động mạnh trong thời kỳ Oligocen
sớm.
Trầm tích Oligocen trên phân bố rộng khắp trên toàn bộ khu vực và có chiều
dày thay đổi từ 200 - 300m ở phần trung tâm và ra đến cánh khoảng 1000m. Các đứt
gãy trong giai đoạn này có cờng độ và biên độ giảm hẳn.
2.1.2.2. Tầng cấu trúc trên (bồn trầm tích Miocen)
Tầng cấu trúc này bao gồm các trầm tích lục nguyên. Đó là các trầm tích cát,
bột, sét xen kẽ có độ hạt từ thô đến mịn. Đặc trng của giai đoạn này là quá trình sụt
lún và oằn võng kế tiếp sau thời kỳ tách giãn Oligocen, cờng độ và biên độ các đứt
gãy giảm dần
2.1.2.3. Ttầng cấu trúc lớp phủ thềm lục địa Pliocen - Đệ Tứ
Các thành tạo trong tầng cấu trúc Pliocen - Đệ Tứ bao gồm cát, cát kết gắn
kết yếu, đá acko hạt thô màu xám vàng, xen kẽ các tập sét, sét vôi, điểm đặc trng là
có thế nằm ngang, phân bố rộng rãi trên toàn thềm lục địa.
2.2. Cấu trúc ngang
Cấu trúc bể Cửu Long phụ thuộc cơ bản vào bình đồ cấu trúc bề mặt móng tr-
ớc Kainozoi. Các đới nâng ven rìa của bể từ Phan Rang-Phan Thiết-Vũng Tàu đến
Hòn Khoai, Hòn Trứng. Côn Sơn bao quanh và tách bể khỏi các trầm tích khác.
Hình thái cấu trúc mặt móng gồm các đới trũng địa hào xen các khối địa luỹ và đợc
giới hạn xung quanh bởi các đơn nghiêng:
Đơn nghiêng Tây Bắc của bể thuộc phần lô 15. Các đứt gẫy theo hệ thống
Tây Bắc - Đông Nam và á vĩ tuyến đã phân cắt đơn nghiêng thành cấu trúc bậc
thang có phân dị chi tiết.
Đơn nghiêng Đông Nam ít có sự phân dị hơn. Nó đợc ngăn cách với đới trung
tâm qua đứt gẫy Tây Bắc - Đông Nam, gần nh dọc theo đới nâng Côn Sơn.
Đơn nghiêng phân dị phía Tây: đới này nằm ở phía tây bể ngăn cách với đới
nghiêng Tây Bắc theo các đứt gẫy Đông Tây. Hệ thống đứt gãy Đông Tây hoạt động
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mạnh mẽ trong móng và yếu dần trong Oligoxen và Mioxen. Một số cấu tạo địa ph-

ơng nh: Tam Đảo, Ba Vì, Đu Đủ đợc hình thành trong đơn nghiêng này dọc theo các
hệ thống đứt gãy.
Các trũng quan trọng là các cấu trúc lõm sâu nhất của mặt móng. Chúng th-
ờng là các địa hào (graben) do quá trình tách giãn trong suất Oligoxen đến Mioxen
giữa, sau đó bị oằn võng vào cuối Mioxen. Một số cấu trúc lõm có thể kế thừa các
trũng Mesozoi muộn.
Đới trũng Tây Bạch Hổ: nằm ở rìa Tây của vòm nâng Bạch Hổ. Đây là đới
trũng sâu vớ bề dày trầm tích Kainozoi tới 7400m. Đới này phát triển theo hớng của
hệ thống đứt gãy chính Tây Bắc - Đông Nam.
Đới trũng Đông Bạch Hổ phát triển kéo dài theo hớng của hệ thống đứt gãy
chính Đông Bắc-Tây Nam, ngăn cách với các vòm nâng ở phía Tây. Tuy vậy các đứt
gãy ngang á Vĩ Tuyến cũng đã làm phức tạp cấu trúc lõm này. Trầm tích Kainozoi
của đới này tới trên 6000m.
Đới trũng Bắc Bạch Hổ là cấu trúc lớn và sâu nhất của mặt móng, phát triển
theo hớng đứt gãy Đông Bắc - Tây Nam, kéo dài 80km và rộng 20km, chiều dày mặt
cắt trầm tích đạt tới 8km.
Các đới nâng là các cấu trúc dơng tơng phản với các đới trũng trong bể Cửu
Long. Chúng thờng là các kiến tạo kế thừa các khối nhô móng trớc Kainozoi của bể.
Các đối tợng vòm nâng thờng là đối tợng tìm kiếm thăm dò dâu khí, do vậy các mặt
cắt cấu trúc thờng có giếng khoan kiểm tra.
Đới nâng Trung Tâm (Rồng-Bạch Hổ-Rạng Đông). Đới này hình thành do
hoạt động của hai đứt gãy theo phơng Đông Bắc-Tây Nam, nối liền các cấu tạo Bạch
Hổ, Rồng, Rạng Đông, Chiều dày của đới là 80km, chiều rộng trung bình từ 16-
18km. Đới nâng Trung Tâm đợc ngăn cách với đới trũng phía Đông- Đông Nam và
Tây-Tây Bắc bởi hàng loạt các đứt gãy có phơng Đông Bắc-Tây Nam. Các đứt gãy
này hoạt động mạnh mẽ, xuyên cắt nhau phân cắt móng thành những khối riêng biệt
xen kẽ nhau. Biên độ của các đứt gãy này từ vài trăm mét đến 1000m. Trong đới
nâng Trung Tâm hình thành và tồn tại các cáu tạo Rồng, Bạch Hổ, Rạng Đông.
Ngăn giữa các cấu tạo này là các trũng sâu địa phơng.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đới nâng Trà Tân (15-A)-Đồng Nai (15G0theo phơng Đông Bắc Tây Nam
và có xu thế nối với cấu tạo Ba Vì qua sờn dốc của đôn nghiêng Tây- Bắc.Đặc tính
cấu trúc chỉ dợc thể hiện rõ ở phần bề mặt móng và các thành tạo trớc Mioxen. Đới
nâng đợc khống chế bởi hệ thống đứt gãy Đông Bắc-Tây Nam, đồng thời bị phức
tạp, phân cắt bởi các đứt gãy phơng Tây Bắc-Đông Nam và bị chặn ở phía Tây Nam
bởi đứt gãy á Vĩ Tuyến.
Đới nâng Tam Đảo-Bà Đen dợc phát triển kế thừa trên các khối nhô móng tới
sát trớc Mioxen.Trong đới này, đứt gãy Đông-Tây phân cắt đới thành các cấu tạo
nhỏ hơn và phức tạp nh cấu tạo Đu Đủ, Tam Đảo, Ba Vì.
Đới nâng Ru by-Agate kéo dài theo hớng Bắc Đông Bắc và phân bố ở Đông
Bắc bể Cửu Long.
Đặc tính cấu trúc thể hiện trong móng và các thành tạo trong Mioxen sớm.
Trong đới này có các cấu tạo triển vọng nh: Ruby, Diamond, Emerald, Pearl, Topaz,
Agate.
Bậc I Bậc II
Đới rìa Tây Bắc
Khối nâng Kinh Độ
Khối nâng Tây Nam -GK Ba Vì
Khối nâng Đông Bắc-GK Ba Vì
Đới Trung Tâm
Khối nâng Trà Tân
Khối sụt Nam Ruby
Khối nâng Bắc Bạch Hổ
Khối sụt Bà Đen
Khối sụt Đông Tam Đảo
Đới rìa Tây Nam
Đới nâng Trung Tâm
Rồng-Bạch Hổ-Rạng Đông
Trũng Đông Bạch Hổ

(Theo Phan Văn Quýnh, 1995)
2.3. Đặc điểm về đứt gãy (bảng 3.1)
Cấu trúc của khu vực nghiên cứu bị phân cắt bởi các hệ thống đứt gãy
chính là:
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hệ thống đứt gãy Đông Đông Bắc - Tây Tây Nam
Hệ thống đứt gãy Tây Tây Bắc - Đông Đông Nam
Hệ thống đứt gãy á Kinh Tuyến
Hệ thống đứt gãy á Vĩ Tuyến
Các hệ thống đứt gãy này chủ yếu là những đứt gãy thuận đồng trầm tích đợc
hình thành sớm hơn rất nhiều so với hệ thống đứt gãy chờm nghịch. Các đứt gãy
đồng trầm tích đều đợc vật liệu lấp đầy và trở thành màn chắn ngăn cản không cho
hydrocacbon dịch chuyển từ khối này sang khối khác.
Hệ thống đứt gãy Đông Đông Bắc - Tây Tây Nam thể hiện rõ nét ở phía
Đông và Tây của mỏ Bạch Hổ, góc cắm của hệ thống này thờng từ 65
0
- 80
0



biên độ dịch chuyển từ 500 - 2000m. Có một số đứt gãy chờm nghịch ở phía tây mỏ
Bạch Hổ. Quá trình hoạt động của các đứt gãy này gắn liền với các pha nén ép cục bộ
xảy ra vào cuối Oligocen đầu Miocen. Những đới phá huỷ sinh ra do hệ thống đứt gãy
chờm nghịch trở thành đờng dẫn cho hydrocacbon đi từ nơi sinh vào trong đá móng.
Hệ thống đứt gãy Tây Tây Bắc - Đông Đông Nam phát triển chủ yếu ở phần
trung tâm khu vực nghiên cứu. Chính hệ thống đứt gãy này đã phân chia các khu mỏ
ra các khối khác nhau. Sự sinh thành ra chúng vào giai đoạn đầu của thời kỳ tạo rift
và tiếp tục hoạt động trong suốt quá trình đó rồi ngng nghỉ vào Oligocen muộn. Biên

độ của chúng bé hơn nhiều so với biên độ của hệ thống đứt gãy Đông Đông Bắc -
Tây Tây Nam (khoảng 200 - 600m).
Hệ thống đứt gãy á Kinh Tuyến (theo phơng Bắc và Đông Bắc) thể hiện ở
phần đông bắc và trung tâm mỏ Rồng có biên độ tơng đối lớn (hàng nghìn mét),
chiều dài phát triển hàng chục km.
Hệ thống đứt gãy á Vĩ Tuyến (theo phơng Đông - Tây) đóng vai trò tạo nên
cấu trúc khối, biên độ 200 - 500m, dài khoảng 5 - 15km. Nhìn chung, đặc điểm đứt
gãy phần Đông Bắc mỏ Bạch Hổ có quan hệ với phần cuối Tây Nam của mỏ Rồng.
Hoạt động đứt gãy trong bể Cửu Long đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình hình thành cấu trúc khối, các đơn vị cấu tạo cũng nh không gian rỗng chứa dầu
trong đá móng của bể.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
III. Lịch sử phát triển địa chất khu vực (hình 3.3)
Bể Cửu Long phát triển trên thềm lục địa Việt Nam nên lịch sử tiến hoá của
bể gắn liền với lịch sử tiến hoá địa chất của thềm. Tiến hoá địa chất của thềm có thể
đợc chia làm các giai đoạn chính sau:
1. Thời kỳ Mesozoi muộn đầu Kainozoi sớm (thời kỳ trớc tạo bồn)
Giai đoạn cố kết của móng trớc Kainozoi liên quan đến sự hội tụ của các lục
địa vào cuối Mesozoi, do sự hội tụ của hai mảng ấn - úc và âu - á làm cho toàn bộ
khu vực thềm Sunda nâng lên cao và làm biến mất đại dơng Tethys ở Đông Nam á,
và ở thời kỳ này, tại đây đã xuất hiện dải volcanic - plutonic có tuổi từ Jura đến
Paleoxen.
Do sự va chạm mạnh của các mảng làm cho móng cố kết bị dập vỡ và tạo
thành các đứt gãy phân cắt, phân dị bề mặt móng cổ trớc Kainozoi, tạo nên các khối
nâng, sụt khác nhau. Sau này chính bể Cửu Long đã đợc hình thành và phát triển
trên móng khối sụt uốn nếp của đai núi lửa plutonic và có phơng Đông Bắc - Tây
Nam. Các kết quả nghiên cứu hình thái và hình hài kiến trúc, các tài liệu địa vật lý
nh từ, trọng lực, địa chấn và các tài liệu khoan thu đợc đã chứng minh điều đó.
Tiếp sau đó là thời kỳ ngng nghỉ trầm tích kéo dài trong khoảng từ 10 đến 12

triệu năm. Qua bức tranh địa tầng của bể Cửu Long đã đựơc thiết lập cho đến nay
đều không gặp các trầm tích thuộc thời kỳ Paleocen, điều đó cho thấy vào cuối
Mesozoi đầu Kainozoi thềm Sunda bị nâng lên và bị bóc mòn một cách mạnh mẽ,
tạo nên một mặt bất chỉnh hợp giữa cấu trúc móng trớc Kainozoi và lớp phủ trầm
tích Kainozoi với kiến trúc hoàn toàn khác. Cấu trúc móng bao gồm các thành tạo
uốn nếp bị biến vị mạnh của các đá móng Paleozoi và Mesozoi, cấu trúc lớp phủ bao
gồm các thành tạo Kainozoi từ Eocen đến Đệ tứ là các trầm tích lục nguyên, lục
nguyên vôi.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Thời kỳ Oligocen (tạo bồn trầm tích)
Đây là thời kỳ tách giãn và tạo thành các địa hào, bán địa hào dọc theo các
đứt gãy và tựa vào khối plutonic. Lấp đầy các địa hào và bán địa hào là các vật liệu
trầm tích lục nguyên đợc vận chuyển từ các vùng cao đến, đấy là cuội, sạn và cát hạt
thô đa khoáng và các trầm tích mịn hơn (bột và bột sét).
Giai đoạn này có thể chia làm hai phụ giai đoạn:
Giai đoạn Oligocen sớm:
Thời kỳ này bể Cửu Long đợc ngăn cách với biển bởi đới nâng Côn Sơn ở
phía Đông và Natura ở phía Nam. Vì thế các trầm tích hoàn toàn có tớng lục địa.
Nguồn cung cấp chủ yếu về vật liệu trầm tích là các khối granit và
granodiorit bị phong hoá. Các thành tạo chủ yếu là trầm tích hạt thô deluvi, aluvi
nh cuội, sỏi, cát kết, bột kết ximăng gắn kết chúng là cacbonat, sét, zeolit giàu mảnh
đá núi lửa. Xen kẽ các lớp cát kết là các lớp bột kết và sét kết. Phía Đông Nam của
bể đợc ngăn bởi đới nâng Côn Sơn và phía Tây Nam bởi đồng bằng Cửu Long.
Giai đoạn Oligocen muộn
Các thành tạo thời kỳ này điển hình là delta, prodelta bao gồm các trầm tích
thuộc tớng aluvial fan, fluvial xen kẽ các trầm tích đầm hồ, vũng vịnh. Càng về cuối
giai đoạn Oligocen muộn các trầm tích lowerdelta phát triển chủ yếu các tập hạt mịn
dày, giàu vật chất hữu cơ mà sau này chúng trở thành các tầng sinh và chắn dầu khí
trong bể Cửu Long. Các doi cát aluvial fan và fuvial đã trở thành các bẫy chứa dầu

khí mà ngày nay đã đợc phát hiện tại khu vực mỏ Bạch Hổ đều đợc các tập sét dày
bao phủ mà ta có thể bắt gặp qua các giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí.
Vào cuối Oligocen, các địa hào trong bể Cửu Long đợc lấp đầy và liên kết
với nhau trở thành một đầm hồ lớn. Nếu nh Oligocen sớm - muộn bể gần nh hoàn
toàn khép kín thì đến giai đoạn cuối của Oligocen muộn bể trở thành một hồ lớn, có
cửa liên thông với Biển Đông qua một kênh hẹp ở phía đông bắc tạo nên hiện tợng
khi triều lên nớc biển tràn vào hồ, khi nớc rút thì nớc trong hồ chảy ra biển. Điều
này đợc chứng minh qua các mẫu thu đợc từ những giếng khoan ở phần cuối của
mặt cắt địa tầng Oligocen muộn.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. Thời kỳ Miocen (sụt võng của bồn)
Vào đầu Miocen sớm, bắt đầu một chu kỳ kiến tạo mới của bể Cửu Long, vào
cuối thời kỳ này vai trò của các hệ thống đứt gãy không còn vì hầu nh toàn bộ các
đứt gãy đều ngng nghỉ cuối giai đoạn đồng tạo rift. Biển bắt đầu tiến vào bể Cửu
Long khá mạnh mẽ. Do ảnh hởng của quá trình biển tiến mà các trầm tích lục địa đ-
ợc đẩy lùi về phía Nam và Tây Nam gần nguồn cung cấp vật liệu.
Môi trờng trầm tích với động năng giảm mạnh, các tích tụ mịn đợc tăng lên,
chủ yếu là các trầm tích bột, bột sét và sét là chủ yếu. Đặc biệt là sét tạp và sét lục
Rotalia, tập sét này đợc phát triển mạnh cả về không gian và thời gian, chiếm hầu
hết diện tích bể Cửu Long và nó đã trở thành một màn chắn dầu khí lý tởng.
Vào thời kỳ Miocen giữa, một chu kỳ biển lùi toàn cục đã xảy ra và bể Cửu
Long đợc nâng lên, các trầm tích biển giảm mạnh và nhờng chỗ cho các trầm tích
deltaplain với các lớp sét kết, bột kết và than.
Đến Miocen muộn, một chu kỳ biển tiến diễn ra mạnh mẽ trên toàn bộ bể
Cửu Long do đó phát triển trầm tích biển, biển nông, biển ven bờ.
Cuối Miocen muộn, sự tham gia tích cực của sông Mêkông đổ vào bể đã làm
thay đổi hẳn môi trờng vật liệu trầm tích. Bể Cửu Long đợc mở rộng về phía đồng
bằng châu thổ hiện tại và về phía tây nam. Các vật liệu trầm tích châu thổ tăng lên
trong đó có nhiều dấu vết thực vật thợng đẳng hay vật chất hữu cơ loại III.

Giai đoạn Miocen là giai đoạn bể Cửu Long nhận đợc nhiều nhất về vật liệu
trầm tích. Với khối lợng lớn, cộng với các trầm tích giai đoạn đồng tạo rift trớc đó,
làm cho bể trầm tích bị quá tải về trọng lợng nên bể bị oằn võng mạnh.
4. Thời kỳ Pliocen - Đệ Tứ
Đây là giai đoạn sau sụt lún và oằn võng, đợc bắt đầu vào Pliocen và kéo dài
trong suốt Pliocen - Đệ tứ. Đây là một giai đoạn kiến tạo mới, không những chỉ
trung tâm bể Cửu Long sụt lún mà còn cả đới nâng Côn Sơn cũng sụt lún mạnh dần
về phía Đông. Đến đây, bể Cửu Long không còn là một cấu trúc riêng biệt nữa mà
nó đã hoà chung cùng các bể Nam Côn Sơn, bể Phú Khánh và bể Sông Hồng tạo
thành một cấu trúc chung của toàn thềm lục địa Việt Nam và các vùng kế cận.
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
IV. Tiềm năng dầu khí mỏ Bạch Hổ
Qua các tài liệu sinh, chứa, chắn và các dạng bẫy, tiềm năng dầu khí mỏ
Bạch Hổ đợc khái quát nh sau:
1. Đá mẹ
Qua kết quả phân tích địa hoá ở các giếng khoan, trầm tích Oligoxen của mỏ
Bạch Hổ có hàm lợng cacbon hữu cơ (TOC) từ 0,6% (ở GK-15A-1X) đến 2,4%
(GK-BH-1) và trung bình khoảng 2%. Đó chính là tầng đá mẹ có khả năng sinh dầu
và khí đốt tốt. Phần lớn chất hữu cơ thuộc Kerogen loại I và II nên tạo dầu là chính.
Cửa sổ tạo dầu ở độ sâu 2950m đến 4200m, pha tạo dầu mạnh nhất xảy ra cách đây
khoảng 21 triệu năm, nghĩa là vào thời kỳ Mioxen giữa.
2. Đá chứa
Theo nghiên cứu thì trong mỏ Bạch Hổ đã phát hiện đợc các loại đá chứa sau:
Khối đá nóng nứt nẻ phong hoá.
Trầm tích cát kết Oligoxen, Mioxen hạ.
Đá phun trào Vocanic tuổi Oligoxen.
Khối đá nóng nứt nẻ phong hoá
Là thân dầu cho sản phẩm cao nhất có dạng khối, thành phần hang hốc nứt nẻ
trong đá móng bao gồm granit, granodionit, hydromica và biotit bị kaolitnit hoá,

xerixit hoá (từ 45 đến 93%). Tính colecto của chúng đợc tạo bởi những quá trình địa
chất nh phong hoá, khử kiềm những khoáng vật không bền bằng các dung dịch thuỷ
nhiệt, nứt nẻ kiến tạo, đứt gãy chuyển dịch cùng với việc tạo thành các đới milonit
(đới phá huỷ kiến tạo) dọc theo các mặt trợt, nứt và co lại của khối macma đông
nguội. Kết quả tạo thành đá chứa dạng hang móc nứt nẻ mà thể tích chứa chủ yếu là
các hang hốc, còn kênh dãn chủ yếu là khe nứt. Đặc trng chứa tốt của dá đảm bảo
cho lu lợng cao phát triển ở phạm vi vòm Trung Tâm và dọc theo sờn Tây của vòm
Bắc. ở đây thân dầu dạng khối, tất cả đã colecto từ mặt móng cho tới ranh giới dới
cảu thân đều bão hoà dầu, cha phát hiện đợc chiều sâu ranh giới dới của thân dầu,
mặc dù chiều cao thân dầu đã đợc chứng minh tới 1000m. Bản chất của ranh giới d-
ới cũng cha rõ ràng nó ứng với ranh giới dầu nớc hay không, hay do đá chứa chuyển
dần thành đá không chứa. Thân dầu với viền dầu liên tục bao trùm vòm Trung Tâm
Nguyễn Thị Trầm K44 địa chất

×