Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Quan hệ giữa doanh nghiệp với tổ chức tín dụng.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.46 KB, 32 trang )

TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
Mục lục
Nội dung Trang
1. Tiền tệ 2
2. Tín dụng và lãi suất tín dụng 6
3. Quan hệ giữa doanh nghiệp với tổ chức tín dụng 15
4. Phân tích hoạt động của ngân hàng thương mại 29
5. Tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế 31
Written byNguyễn Duy Đào 1/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
1. Tiền tệ
Định nghĩa: Tiền là bất kỳ một phương tiện nào được thừa nhận chung để thanh toán cho
việc giao hàng và thanh toán công nợ. Nó là một phương tiện trao đổi.
Chức năng của tiền tệ
Theo Karl Marx và các trường phái kinh tế học cổ điển: Tiền tệ có 5 chức năng:
- Thước đo giá trị: Thước đo giá trị là chức năng cơ bản thứ 1 của tiền tệ thông qua giá
trị của tiền tệ để đo lường và biểu hiện giá trị cho các hàng hoá khác và chuyển giá trị
của hàng hoá thành giá cả.
- Phương tiện lưu thông: Đây là chức năng cơ bản thứ 2 của tiền tệ. Với chức năng này
tiền được dùng làm trung gian môi giới cho quá trình trao đổi hàng hoá, là phương
tiện để thực hiện giá trị của hàng hoá, là phương tiện để tạo sự chuyển hoá CT H-T-
H’.
- Phương tiện thanh toán: Tiền trong chức năng phương tiện thanh toán xuất hiện như 1
phương tiện để thanh toán các khoản nợ. Đặc điểm của tiền trong chức năng thanh
toán là sự vận động của tiền độc lập tương đối với sự vận động của hàng hoá và dịch
vụ, giữa chúng có sự tách rời cả về không gian và thời gian.
- Phương tiện cất trữ: Phương tiện cất trữ là chức năng xã hội vốn có của tiền tệ. Trong
chức năng này, tiền được rút ra khỏi lưu thông để cất trữ để thoả mãn các nhu cầu
mua hàng sau này.
- Tiền tệ thế giới: Tiền tham gia với tư cách là thước đo chung, phương tiện mua hàng
và thanh toán chung đồng thời là phương tiện để di chuyển của cải.


Theo trường phái kinh tế hiện đại , tiền tệ cũng có 3 chức năng: Phương tiện trao đổi, đơn
vị đánh giá và phương tiện dự trữ giá trị.
• Chức năng phương tiện trao đổi
- Nội dung:
Là một phương tiện trao đổi tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian trong
việc trao đổi hàng hoá dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lý do
tại sao tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá.
- Ý nghĩa :
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai giao dịch bán
và mua cùng với một người khác. Điều đó là đơn giản trong trường hợp chỉ có rất ít
người tham gia vào trao đổi, nhưng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí
để tìm kiếm người có thể thực hiện cùng một lúc hai giao dịch đó là quá cao. Vì vậy
người ta cần sử dụng tiền làm môi giới trong quá trình này, tức là người ta trước hết sẽ
đổi hàng hoá của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua hàng hoá mình cần. Rõ ràng việc
thực hiện lần lượt các giao dịch bán và mua với hai người dễ dàng và chi phí thấp hơn
nhiều so với thực hiện đồng thời hai giao dịch đối với cùng một người.
Như vậy, là một phương tiện trao đổi, tiền đã góp phần nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế, khi nó tạo thuận lợi cho các giao dịch, làm giảm thời gian bỏ ra co việc giao
dịch đồng thời tạo điều kiện cho việc chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội.
- Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định:
(7 tiêu chuẩn)
 Được chấp nhận rộng rãi: Nó phải được con người chấp nhận rộng rãi trong
lưư thông, bởi vì chỉ khi mọi người cùng chấp nhận nó thì người có hàng hoá mới
đồng ý đổi hàng hoá của mình lấy tiền
 Dễ nhận biết: Con người phải nhận biết nó dễ dàng
 Có thể chia nhỏ được: để tạo thuận lợi cho việc trao đổi giữa các hàng hoá
có giá trị rất khác nhau
 Dễ vận chuyển: tiền tệ phải đủ gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi hàng
hoá ở những khoản cách xa
Written byNguyễn Duy Đào 2/32

TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
 Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng
 Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng: Để đảm bảo số lượng của nó đủ
dùng trong trao đổi
 Có tính đồng nhất: Các đồng tiền cùng mệnh giá phải có sức mua ngang
nhau
• Chức năng là đơn vị đánh giá:
- Nội dung chức năng:
Chức năng thứ 2 của tiền là một đơn vị đánh giá, tức là tiền tệ được sử dụng làm đơn vị
để do giá trị các hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này,
giá trị của các hàng hoá, dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền, như việc đo khối lượng
bằng Kg, đo độ dài bằng m …. Nhờ đó mà việc trao đổi hàng hoá được diền ra thuận
tiện hơn.
- Ý nghĩa:
Nếu giá trị hàng hoá không có một đơn vị đo chung là tiền, mỗi hàng hoá sẽ được định
giá bằng tất cả các hàng hoá còn lại, và như vậy số lượng giá các mặt ahngf trong nền
kinh tế ngày nay sẽ nhiều đến mức người ta không còn thời gian cho việc tiêu dùng
hàng hoá, do phần lớn thời gian đã dnàh cho việc đọc giá hàng hoá. Khi giá của các
hàng hoá, dịch vụ được thể hiện bằng tiền, không những thuận tiện cho người bán hàng
hoá mà việc đọc bảng giá hàng hoá cũng sẽ đơn giản hơn rất nhiều với chi phí thời gian
ít hơn sử dụng cho các giao dịch.
Là một đơn vị đánh giá, nó tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử dụng tiền làm phương tiện
trao đổi, nhưng cũng chính trong quá trình trao đổi sử dụng tiền làm trung gian, các tỷ
lệ trao đổi được hình thành theo tập quán – tức là ngay khi mới ra đời, việc sử dụng tiền
làm phương tiện trao đổi đã dẫn tới việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá.
Đầu tiên những phương tiện được sử dụng làm tiền để biểu hiện giá trị hàng hoá cũng
có giá trị như các hàng hoá khác. Cơ sở cho việc tiền biểu hiện giá trị các hàng hoá
khác chính là tiền cũng có giá trị sử dụng như các hàng hoá khác ( Theo phân tích của
Marx về sự phát triển của các hình thái biểu hiện giá trị hàng hoá: giá trị hàng hoá được
biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hoá đóng vai trò vật ngang giá, vật ngang giá

chung). Vì vậy trong thời đại ngày nay, mặc dù các phưong tiện được sử dụng là tiền
không còn có giá trị như các hàng hoá khác nhưng nó được mọi người chấp nhận trong
lưu thông (có giá trị sử dụng đặc biệt), do đó vẫn được sử dụng để đánh giá giá trị các
hàng hoá. Trong bất kỳ nền kinh tế tiền tệ nào việc sử dụng tiền làm đơn vị đo lường
giá trị đều mang tính chất trừu tượng, vừa có tính pháp lý, vừa có tính quy ước.
• Chức năng là phương tiện dự trữ giá trị:
- Nội dung:
Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi
người ta nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có điều kiện để chi tiêu
ngay, tiền là một phương tiện để giúp cho việc cất giữ sức mua trong trường hợp này
hoặc người ta giữ tiền đơn thuần là việc để lại của cải.
Việc cất giữ như vậy có thể thực hiện bằng nhiều phưong tiện ngoài tiền như: Cổ phiếu,
trái phiếu, đất đai, nhà cửa…, một số loại tài sản như vậy đem lại một mức lãi cao hơn
cho người giữ hoặc có thể chống đỡ lại sự tăng cao về giá so với việc giữ tiền mặt. Tuy
nhiên người ta vẫn giữ tiền với mục đích dự trữ giá trị bởi vì tiền có thể chuyển đổi một
cách nhanh chóng ra các tài sản khác, còn các tài sản khác nhiều khi đòi hỏi một chi phí
giao dịch cao khi người ta muốn chuyển đổi nó sang tiền. Những điều đó cho thấy, tiền
là một phương tiện dự trữ giá trị bên cạnh các loại tài sản khác.
- Ý nghĩa:
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đên đâu tuỳ thuộc vào
sự ổn định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định bằng khối lượng hàng
Written byNguyễn Duy Đào 3/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
hoá mà nó có thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, mức giá của tiền sẽ giảm đi và ngược
lại. Sự mất giá nhanh chóng của tiền sẽ làm người ta ít muốn giữ nó, điều này thường
xảy ra khi lạm phát cao. Vì vậy để thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của
tiền phải ổn định.
Sử dụng các chức năng của tiền tệ trong quản lý kinh tế
- Mở rộng và phát triển kinh tế hàng hoá: nhờ có tiền tệ thamg gia trong chức năng thước
đo giá trị và phương tiện lưu thông làm cho việc đo lường và biểu hiện giá trị của hàng

hoá vừa đơn giản, thuận lợi vừa thống nhất làm cho sự vận động hàng hoá trong lưu
thông được tiến hành 1 cách trôi chảy, giúp người SXKD hạch toán được chi phí và kết
quả SX, thực hiện tích luỹ để mở rộng quy mô SX.
- Thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế: Tiền tệ trở thành phương tiện cho việc thực
hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Nhờ đó mà các mối quan hệ nhiều mặt giữa các
quốc gia trên TG được hình thành và phát triển làm cho xu thế hoà nhập trên các lĩnh
vực: kinh tế, kỹ thuật, tài chính, tiền tệ,… có cơ hội phát triển.
Khái quát về ổn định tiền tệ
- Ổn định tiền tệ chính là ổn định giá trị của đồng tiền, theo nghĩa rộng bao gồm ổn định
giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của tiền tệ.
Trong chế độ lưu thông tiền tệ có đầy đủ giá trị, tiền giấy và tiền vàng có giá trị như
nhau. Tiền tệ có giá trị nội tại, có khả năng tự điều hoà số lượng tiền tệ cần thiết trong
lưu thông. Khi tiền lên giá, dự trữ tiền của các cá thể tăng trong lưu thông và ngược lại.
Giá trị của tiền tệ thường ngang bằng với sức mua. Tuy nhiên sự thống nhất này chỉ là
tương đối. Sự ổn định của tiền tệ phụ thuộc vào sự ổn định của chính kim loại tiền tệ.
Vai trò can thiệp của Nhà nước chủ yếu là tăng khối lượng vàng bạc dự trữ để sẵn sàng
đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ.
Trong chế độ lưu thông tiền dấu hiệu, giá trị danh nghĩa của tiền tệ bị tách rời khỏi giá
trị nội tại của nó và được thể hiện dưới hình thức sức mua: nó có khả năng tự phát điều
hoà số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông như tiền đầy đủ giá trị. Vì vậy ổn định
tiền tệ chính là ổn định sức mua của tiền tệ. Vai trò can thiệp của Nhà nước hết sức to
lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế – chính trị – xã hội.
- Ổn định tiền tệ thể hiện qua việc kiểm soát lạm phát. Lạm phát xảy ra khi chỉ số giá của
một năm tăng lên so với năm trước, sức mua của đồng tiền giảm sút. Việc kiểm soát
lạm phát và duy trì lạm phát ở mức độ thấp, tiền lương thực tế của người lao động được
đảm bảo, góp phần ổn định và nâng cao mức sống của nhân dân. Lạm phát ở mức thấp
cũng tạo ra sự tin tưởng của các nhà đầu tư, người tiêu dùng vào giá trị của đồng tiền,
qua đó thúc đẩy mở rộng và chi tiêu đầu tư, tiêu dùng, làm tăng tổng cầu, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại, khi lạm phát ở mức độ cao, sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng
trưởng kinh tế.

- Ngoài việc kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ còn bao gồm cả việc chống tình trạng
thiểu phát. Bởi vì nếu thiểu phát xảy ra, tổng cầu suy giảm, sẽ làm chậm tốc độ tăng
trưởng kinh tế, thu nhập của dân cư giảm, có thể gia tăng thất nghiệp và gây ra hậu quả
xấu đối với xã hội.
Biện pháp ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát và thiểu phát
Ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát
- Lạm phát là sự gia tăng kéo dài trong mức giá chung của nền kinh tế. Khi lạm phát xảy
ra, sức mua đồng tiền giảm sút, giá cả chung của hàng hoá, dịch vụ tăng lên. Nền kinh
tế lạm phát ở mức độ cao sẽ gây ra việc phân phối lại của cải, thu nhập, phá huỷ hệ
thống thông tin – kinh tế, gây mất lòng tiền vào đồng tiền nội tệ, khối lượng sản phẩm
tăng chậm, gây suy thoái nền kinh tế,…
Written byNguyễn Duy Đào 4/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
- Trong điều kiện lạm phát, ổn định tiền tệ chính là kiểm soát và duy trì lạm phát ở mức
độ hợp lý. Để kiểm soát lạm phát, Chính phủ có thể sử dụng các chính sách nhằm tác
động tới các yếu tố gây nên sự tăng lên của mức giá bao gồm:
+ Chính sách tăng trưởng kinh tế: Chính sách tăng trưởng kinh tế được thực hiện nhằm
phát huy vai trò tự điều tiết của nền kinh tế thị trường và thúc đẩy việc nâng cao hiệu
quả của nền kinh tế. Chính sách tăng trưởng kinh tế tập trung vào việc xây dựng cơ chế
vận hành nền kinh tế, động viên và phát huy các nguồn lực dự trữ của nền kinh tế tạo
điều kiện cho nền kinh tế có thể di chuyển dọc theo đường tổng cung khi tăng tổng cầu.
+ Chính sách tài chính: Lạm phát cao bao giờ cũng gắn với sự thâm hụt NSNN ở mức
cao. Vì vậy, để chống lạm phát cao, chính sách tài chính phải được sử dụng để hạn chế
mức độ thâm hụt NSNN bao gồm:
. Khai thác tối đa các nguồn thu cho NSNN: Tăng thuế. Việc tăng thuế làm hạn chế chi
tiêu tiêu dùng, chi tiêu đầu tư, làm giảm tổng cầu, ngăn chặn lạm phát cao.
. Kiểm soát chi tiêu NSNN: Khi lạm phát cao, Chính phủ thường cắt giảm chi tiêu
NSNN. Việc cắt giảm chi tiêu NSNN được thực hiện dựa trên quá trình cải cách hành
chính, tinh giảm và nâng cao hiệu quả bộ máy hành chính, xoá bộ tình trạng bao cấp
tràn lan đối với các khu vực của nền kinh tế, tiết kiệm, nâng cao hiệu quả chi tiêu, nâng

cao hiệu quả cơ chế quản lý và kiểm soát tài chính.
. Cân đối ngân sách một cách tích cực, ưu tiên khai thác nội lực
+ Chính sách tiền tệ: Sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ:
Trong điều kiện nền kinh tế và hệ thống tài chính chưa phát triển, NHTW chủ yếu sử
dụng các công cụ trực tiếp như trực tiếp ấn đinh lãi suất, giới hạn KL tín dụng cung
cấp:
. Ấn định lãi suất: bao gồm việc ấn định lãi suất tiền gửi, ấn định khung lãi suất tiền
gửi và cho vay: tăng lãi suất
. Ấn định hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng để giảm việc cấp tín dụng cho
người vay
. Phát hành tín phiếu NHTW: để làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông
Với những nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, hệ thống NH đã phát triển ở
mức độ cao, NHTW chủ yếu sử dụng các công cụ gián tiếp:
. Dự trữ bắt buộc: Là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo quy định của NHTW. Nó
được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi trong một khoảng
thời gian nhất định.
Dự trữ bắt buộc =
Tổng số tiền gửi phải
tính dự trữ bắt buộc
x Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khi lạm phát cao, NHTW quy định tăng dự trữ bắt buộc. Trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi, làm giảm khả năng cho và đầu tư của Tổ chức TD. Do đó làm giảm
tiền trong lưu thông.
. Lãi suất chiết khấu: giảm lãi suất chiết khấu
. Phát triển thị trưởng mở: NHTW bán giấy tờ có giá trên thị trường tài chính, nhằm
mục tiêu giảm lượng tiền trong lưu thông.
+ Chính sách thu nhập: là tập hợp các chính sách về giá cả vàtiền lương của Chính phủ.
Đẻ chống lạm phát cao, Chính phủ có thể thực hiện việc kiểm soát về tiền lương và giá
cả. Chính phủ xây dựng hệ thống giá áp dụng cho thị trường và kiểm soát chặt chẽ việc
tăng tiền lương. Thực tế cho thấy biện pháp kiểm soát trực tiếp giá cả và tiền lương ko

có hiệu quả. Lạm phát cao, kéo dài việc kiểm soát trực tiếp của CP có thể kéo theo việc
hình thành chợ đen, làm teo nhỏ thị trường chính thức và việc kiểm soát giá trở lên mất
tác dụng.
+ Chính sách kinh tế đối ngoại: bao gồm chính sách về quản lý TGHĐ, giao dịch vốn,
chính sách ngoại thương, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài,…Trong điều kiện
Written byNguyễn Duy Đào 5/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
lạm phát cao, CP sử dụng chính sách này để đẩy mạnh XK, hạn chế NK, ưu tiên thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và các khoản tài trợ của nước ngoài.
Ổn định tiền tệ trong điều kiện thiểu phát
- Thiểu phát xảy ra khi mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống và kéo dài. Trong
điều kiện thiểu phát, sức mua của đồng tiền tăng lên, biểu hiện ra bên ngoài là giá cả
chung của các hàng hoá giảm xuống, làm cho người tiêu dùng trì hoãn việc mua hàng,
làm chi tiêu tiêu dùng , đầu tư giảm, mức cung tiền giảm, thu nhập của người lao động
giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.
- ổn định tiền tệ trong điều kiện thiểu phát bao gồm những biện pháp thúc đẩy tổng cầu,
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế
+ Chính sách tài chính:
. Tăng chi tiêu của chinh phủ: chi đầu tư phát triển (tập trung vào các DA phát triển cơ
sở hạ tầng, các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng nhu cầu của CP về hàng
hàng hoá dịch vụ, tạo động lực kích thích tăng chi tiêu tiêu dùng và chi tiêu đầu tư), chi
giải quyết công ăn việc làm, chi phúc lợi xã hội
. Giảm thuế: để kích thích chi tiêu
+ Chính sách tiền tệ:
Công cụ trực tiếp:
. Giảm lãi suất thị trường
. Nới lỏng các hạn chế của việc cấp tín dụng cho người đi vay, kích thích đầu tư và tiêu
dùng
Công cụ gián tiếp:
. Giảm dự trữ bắt buộc

. Nghiệp vụ thị trường mở: mua các giấy tờ có giá trên thị trường để tăng lương tiền
trong lưu thông
+ Chính sách kinh tế đối ngoại: Tăng cường đầu tư trực tiếp, đầy mạnh xuất khẩu, hạn
chế nhập khẩu
2. Tín dụng và lãi suất tín dụng
Định nghĩa: Tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa
các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá.
Chức năng của tín dụng (2):
• Tập trung và phân phối lại tiền tệ nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả
Các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá luôn ở trong 2 trạng thái : Tạm thời
thừa và tạm thời thiếu vốn. Hai thái cực này là mâu thuẫn vốn có của nền kinh tế hàng hoá.
Mẫu thuẫn này được giải quyết bằng hoạt động của các laọi hình tín dụng. Việc diều hoà
này của tín dụng hoặc trực tiếp từ nơi thừa sang nơi thiếu tài sản hoặc gián tiếp qua các
trugn gian tài chính như qua hoạt động của hệ thống NH. Song sự điều hoà này mang tính
chất tạm thời (phải hoàn trả sau một thời gian) và thông thuờng phải trả giá - đây cũng là
nguyên tắc cao nhất của tín dụng.
Như vậy quá trình tập trung và phân phối lại vốn của tín dụng là quá trình tập trung và
phân phối lại nguồn hàng hoá - vật tư, thiết bị.. và sức lao động trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Với chức năng phân phối lại của cải trong xã hội, tín dụng có tác động mạnh mẽ đến đời
sống kinh tế – xã hội xét cả về mặt tích cực cũng như tiêu cực. Nếu việc phân phối lại này
phù hợp với nhu cầu khách quan cuỉa đời sống kinh tế – xã hội sẽ góp phần thúc đẩy sx
kinh doanh phát triển và ngược lại nó sẽ hoặc kìm hãm sản xuất kinh doanh hoặc đẩy sx
kinh doanh phát triển quá mức, tiêu dùng vượt quá khả năng hiện thực góp phần tạo ra lạm
phát hoặc thiểu phát.
• Giám đốc bằng tiền đối với các hoạt động kinh tế xã hội:
Written byNguyễn Duy Đào 6/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
Trong quá trình phân phối lại của cải xã hội, các chủ thể tín dụng sẽ thực hiện sự kiểm
tra,giám sát lẫn nhau nhằm trước hết là bảo vệ lợi ích của mình. Đồng thời sự kiểm tra

giám sát ấy sẽ góp phần tác động đến việc thực hiện cấc hạot động kinh tế xa hội theo đúng
lợi ích của toàn xã hội.
Trọng tâm chức năng này là giám sát việc nhận, sử dụng đối tượng tín dụng của người đi
vay, từ đó mà bảo đảm hoàn trả đối tượng tín dụng một cách toàn vẹn, đúng hạn đã cam
kết. Việc giám sát này không phải thực hiện trước, trong và sau khi người vay nhận tiền
vay cho đến khi người vay hoàn trả xong nợ.
Các trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng trong quá trình này với tư cách là người đi
vay để cho vay. Sự giám đốc này không phải chỉ vì lợi ích của bản thân cacs trung gian tài
chính đó mà còn vì lợi ích của các doanh nghiệp, của dân cư và của toàn xã hội
Vai trò của tín dụng (3)
• Thúc đầy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển với tốc độ nhanh:
+ Nhờ có tính dụng xã hội có thể tạo dựng các nguồn lực tài chính bổ sung nhưng hết
sức quan trọng để mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật
+ Tín dụng góp phần điều chỉnh quy mô sản xuất kinh doanh, cơ cấu ngành nghề phù
hợp với sự biến động của chu kỳ SXKD, sự biến động của thị trường trong nước và thị
trường quốc tế
+ Góp phần thúc đầy quá trình tích tụ và tập trung vốn trong từng đơn vị sản xuất KD,
từng ngành, từng nước từ đó tạo ra những DN, tổ hợp DN lớn làm nòng cốt cho sự phát
triển quốc gia.
• Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế
+ Nhà nước sử dụng tín dụng làm phương tiện cân đối thu chi Ngân sách, đảm bảo
nguồn lực thực thi các chính sách kinh tế – xã hội
+ Nhà nước sử dụng tín dụng làm công cụ điều hành quá trình lưu thông tiền tệ, bảo
đảm sự cân đối tiền hàng, ổn định thị trường, giá cả và sức mua của đồng tiền, đồng
thời phát huy cao độ vai trò tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội của tín dụng trong việc
sử dụng tiền trong sản xuất KD cũng như trong phân phối và tiêu dùng sản phẩm trong
xã hội
+ Nhà nước SD tín dụng làm công cụ thực thi các quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ
các nguồn lực tài chính từ bên ngoài, phát huy vai trò đối tác tin cậy của cộng đồng

quốc tế.
• Góp phần nâng cao đồi sống vật chất – văn hoá của người lao động
Các hình thức tín dụng
Căn cứ vào chủ thể tín dụng người ta phân biệt các laọi tín dụng thành: Tín dụng thương
mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng.
• Tín dụng thương mại:
Định nghĩa: Tín dụng thương mại là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp, được thực hiện dưới hình thức mua, bán chịu hàng hoá.
Đặc điểm của TDTM: 3 đặc điểm
- Thứ nhất: Đối tượng của TDTM là hàng hoá. Nghĩa là vốn cho vay còn tồn tại dưới
đạng hàng hoá, là một bộ phận của vốn sản xuất được chuyển hoá thành tiền (H’ – T’)
chứ chưa phải là tiền nhàn rỗi.
- Thứ hai: Người đi vay và cho vay là các doanh nghiệp đang trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong quan hệ này người cho vay là người
bán chịu, người chủ nợ. Còn người đi vay là người mua chịu, là con nợ.
Written byNguyễn Duy Đào 7/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
- Thứ ba: Quá trình vận động và phát triển của tín dụng thương mại gắn liền với sự vận
động của quá trình tái sản xuất xã hội. Bởi vì khối lượng TDTM lớn hay nhỏ tuỳ thuộc
và tổng giá trị của khối lượng hàng hoá được đưa ra mua bán chịu.
TDTM là khâu không thể thiếu được của quá trình tái sx xh. Nó giúp cho quá trình tái sx xh
không bị gián đoạn, bởi vì các đơn vị vay chưa có tiền nhưng vẫn có hàng hoá để tiếp tục
quá trình sản xuất. Còn các đơn vị bán không sợ hàng hoá ứ đọng, vì chúng được tiêu thụ
ngay khi chu kỳ sx chưa kết thúc. Như vậy mua bán chịu làm cho quá trình sx xh đảm bảo
được tính liên tục.
Hạn chế của TDTM:
- Thứ nhất : TDTM bị giới hạn về quy mô tín dụng, nghĩa là nó bị giới hạn bởi khối
lượng hàng hoá bán chịu. Đơn vị cho vay không thể bán quá số hàng mà mình có, và
đơn vị đi vay không thể mua quá số hàng mà mình muốn mua. Như vậy mâu thuẫn giữa
nhu cầu và khả năng cung cấp hàng hoá bán chịu – cho vay trong TDTM là hiện tượng

tất yếu.
- Thứ hai: TDTM là tín dụng ngắn hạn, nó không thể thoả mãn nhu cầu của người xin
vay dài hạn. Bởi vì vốn cho vay- số lượng giá trị hàng hoá bán chịu chưa thoáy khỏi
chu kỳ sx để chuyển hoá thành tiền, cho nên số vốn này chưa phải là tiền nhàn rỗi theo
đúng nghĩa của nó. Do đó, người cho- bán chịu cũng chỉ có thể bán chịu trogn một thời
gian ngắn, sau đó phải thu hồi vốn về một mặt để tiến hành quá trình sx tiếp theo, mặt
khác để lấy ra một phần lợi nhuận để đàu tư vào mục đích khác.
- Thứ ba: TDTM chỉ đầu tư một chiều chứ không có quan hệ cho vay ngược lại. Nghĩa
là hàng hoá của đơn vị bán chịu chỉ có thể là nguyên liệu của đơn vị mua chịu, hoặc là
đơn vị mua chịu tiếp tục quá trình tiêu thụ sản phẩm của đvị bán chịu. Chính vì thế
TDTM ko thể mở rộng đầu tư vào mọi ngành trong nền kinh tế quốc dân.
 Công cụ lưu thông của TDTM: Thương phiếu
Thương phiếu cũng là một trong những phương tiện chuyển tái giá trị và là một loại dấu
hiệu giá trị được luật pháp thừa nhận, nhưng nó bị giới hạn bởi thời gian và phạm vi sử
dụng.
Đặc điểm của thương phiếu;
Trừu tượng: Thương phiếu không nêu rõ nguyên nhân dẫn đến quan hệ tín dụng, mà chỉ
ghi các yếu tố: Tổng số tiền nợ, người được hưởng, người mắc nợ và thời hạn hoàn trả.
Bắt buộc: Hay còn gọi là không tranh cãi, nghĩa là trên thương phiếu luôn có dòng chữ
‘lệnh trả tiền vô điều kiện’ Đến hạn thanh toán, người mắc nợ phải thanh toán ngay cho
chủ nợ, mà không được trình bày bất cứ khó khăn gì về tài chính. Điều này được luật
pháp của nhà nước bảo hộ.
Lưu thông: Trong thời gian hiệu lực, thương phiếu được sử dụng làm phương tiện
thanh toán, chúng được chuyển từ người này sang người khác. Mỗi lần chuyển là một
số nợ được thanh toán.
Phân loại thương phiếu:
Dựa vào phương thức ký chuyển nhượng:
+ Thương phiếu vô danh: Không ghi tên người hưởng. Loại này không cần ký chuyển
nhượng. Tất cả những người cầm nó một cách hợp pháp đều có quyền đòi tiền người
nhận nợ khi đến hạn thanh toán

+ Thương phiếu đích danh: Ghi rõ tên người hưởng số tiền trên thương phiếu. Loại này
không được ký chuyển nhượng, người mặc nợ chỉ chấp nhận thanh toán cho người có
tên trên thương phiếu
+ Thương phiếu ký danh: Cũng ghi tên người được hưởng, nhưng nó khác thương
phiếu đích danh ở chỗ người sở hữu có quyền ký chuyển nhượng cho người khác. Loại
thương phiếu này được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường
Dựa trên cơ sở ngưòi lập thương phiếu:
Written byNguyễn Duy Đào 8/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
+ Lệnh phiếu thương mại: Do người mua chịu lập, cam kết sau một thời gian sẽ thanh
toán toàn bộ số nợ cho người bán chịu.
+ Hối phiếu: Do người bán chịu lập, yêu cầu người mua chịu khi đến hạn, phải thanh
toán tiền ngay cho người bán chịu hay cho bất cứ người nào xuất trình hối phiếu này.
Phân biệt hối phiếu và lệnh phiế u
“Thương phiếu” là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu
gồm hối phiếu và lệnh phiếu.
Lệnh phiếu Hối phiếu
“Lệnh phiếu” là chứng chỉ có giá do người phát
hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một
số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời
gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
“Hối phiếu” là chứng chỉ có giá do người ký
phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán
không điều kiện một số tiền xác định khi có
yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng.
Lệnh phiếu phải có đầy đủ các nội dung sau đây:
a) Từ “Lệnh phiếu” được ghi trên mặt trước của
lệnh phiếu;

b) Cam kết chi trả không điều kiện một số tiền xác
định;
c) Thời hạn thanh toán lệnh phiếu;
d) Địa điểm thanh toán lệnh phiếu;
đ) Tên và địa chỉ của người thụ hưởng;
e) Địa điểm và ngày ký phát hành;
g) Tên, địa chỉ và chữ ký của người phát hành.
Hối phiếu phải có đầy đủ các nội dung sau
đây:
a) Từ “Hối phiếu” được ghi trên mặt trước
của hối phiếu;
b) Lệnh yêu cầu thanh toán không điều kiện
một số tiền xác định;
c) Thời hạn thanh toán hối phiếu;
d) Địa điểm thanh toán hối phiếu;
đ) Tên và địa chỉ của người bị ký phát;
e) Tên và địa chỉ của người thụ hưởng;
g) Địa điểm và ngày ký phát hành;
h) Tên, địa chỉ và chữ ký của người ký phát.
Người phát hành lệnh phiếu có nghĩa vụ thanh toán
lệnh phiếu cho người thụ hưởng khi đến hạn.
Người ký phát chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc ký phát hành hối phiếu và có
nghĩa vụ thanh toán số tiền trên hối phiếu nếu
người bị ký phát từ chối chấp nhận một phần
hoặc toàn bộ số tiền trên hối phiếu khi hối
phiếu được xuất trình đề nghị chấp nhận đúng
hạn.
1. Cho đến khi tới hạn thanh toán, người thụ
hưởng có thể xuất trình hối phiếu cho người

bị ký phát để chấp nhận. Người bị ký phát
thực hiện việc chấp nhận ngay khi hối phiếu
được xuất trình. Hối phiếu được coi là bị từ
chối chấp nhận, nếu không được người bị ký
phát ký chấp nhận ngay khi xuất trình.
2. Người thụ hưởng phải xuất trình hối phiếu
cho người bị ký phát để đề nghị chấp nhận
trước khi chuyển nhượng hoặc trong trường
hợp hối phiếu được thanh toán sau thời hạn
xác định, kể từ ngày hối phiếu được chấp
nhận.
. Hình thức chấp nhận
1. Việc chấp nhận phải được thể hiện bằng
việc người bị ký phát ghi trên tờ hối phiếu từ
“chấp nhận”, số tiền đã ghi trên hối phiếu,
ngày ký chấp nhận và chữ ký của mình.
2. Trong trường hợp chỉ chấp nhận một phần
số tiền đã ghi trên hối phiếu, người bị ký phát
phải ghi rõ từ “chấp nhận”, số tiền chấp nhận,
ngày ký chấp nhận và chữ ký của mình.
Cam kết chấp nhận
- Việc chấp nhận của người bị ký phát là
không điều kiện.
Written byNguyễn Duy Đào 9/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
- Khi đến hạn thanh toán, người chấp nhận có
nghĩa vụ thanh toán số tiền đã chấp nhận ghi
trên hối phiếu.
Nghĩa vụ của người chấp nhận
Bằng việc chấp nhận một hối phiếu, người

chấp nhận có các nghĩa vụ sau đây:
1. Cam kết thanh toán hối phiếu theo các nội
dung đã chấp nhận;
2. Công nhận sự tồn tại của người ký phát và
sự thanh toán đúng hạn hối phiếu của người
ký phát cho người thụ hưởng đã được chuyển
nhượng hối phiếu theo các quy định tại
Chương IV của Pháp lệnh này.
Tác dụng của TDTM:
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã góp phần hoàn thiện quan hệ TDTM về
nhiều mặt. Ngược lại, TDTM có tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế thị
trường. Thể hiện:
- TDTM góp phần đẩy nhanh quá trình sx và lưu thông hàng hoá, vì nó đã làm cho
chu kỳ sx rút ngắn lại.
- TDTM tham gia vào quá trình điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực
tiếp, không thông qua một cơ quan trung gian nào
- TDTM góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông và do đó giảm chi
phí lưu thông xh.
• Tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng NH là quan hệ tín dụng giữa một bên là NH, còn một bên là các tác nhân và thể
nhân khác trong nền kinh tế quốc dân.
Đặc điểm của TDNH:
- Huy động vốn và cho vay đều được thực hiện dưới hình thức tiền tệ
Tất cả những nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi hoặc nhàn rỗi lâu dài trong nền kinh tế
quốc dân, bằng những cơ chế thích hợp, NH huy động về quỹ của mình đê hình thành
nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở nguồn vốn đã có, NH cũng bằng những cơ chế và chính
sách phù hợp, tiến hành cho các tác nhân và thể nhân vay để bổ xung vào nguồn vốn sx và
kinh doanh. Huy động vốn và cho vay dưới hình thức tiền tệ là loại hình tín dụng phổ biến,
linh hoạt và đáp ứng với mọi đối tượng trong nền kinh tế quốc dân.
- Các NH đóng vai trò là tổ chức trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay

Hoạt động TDNH bao gồm 2 nghiệp vụ độc lập tương đối : Huy động vốn và cho vay.
Thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, NH là người đi vay. Sử dụng nguồn đầu tư cho các tác
nhân và thể nhân, NH là người cho vay. Như vậy, NH là người đóng vai trò là tổ chức kih
tế trung gian: Đi vay để cho vay
- Quá trình vận động và phát triển của TDNH độc lập tương đối với ự vận động và phát
triển của quá trình tái sx xh
Vốn TD là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình tái sx xh. Như vậy nếu khối
lượng hàng trong lưu thông tăng lên, thì nhu cầu vốn trong đó có vốn TDNH cũng tăng lên.
trường hợp này, vốn của TDNH vận động phù hợp với sự vận động và phát triển của quá
trình tái sx xh. Nhưng trong nhiều trường hợp, vốn TDNH khồng tham gia vào quá trình sx
và lưu thông hàng hoá. Màchúng được sử dụng vào mục đích phi sx như tái chiết khấu
hoặc tái cầm cố các thương phiếu ‘khống’ , các loại trái khoán chính phủ. Hoặc trong thời
kỳ kinh tế bị khủng hoảng, sx và lưu thông hàng hoá bị co hẹp, nhưng nhu cầu tín dụng vẫn
gia tăng nhưng không phải cho mục đích tái sx mà để trả nợ. Ngược lại trong thời kỳ kinh
tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở mang sx, hàng hoá luân chuyển và tăng rất mạnh
nhưng TDNH lại không đáp ứng kịp.
Written byNguyễn Duy Đào 10/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
Công cụ lưu thông của TDNH: rất đa dạng và phong phú. Để tập trung các nguồn tiền tệ
trong xã hội NH sử dụng các công cụ như kỳ phiếu NH, chứng chỉ tiền gửi, các số tiết
kiệm,…Để cung ứng tín dụng cho các DN, NH sử dụng công cụ chủ yếu là các khế ước
vay, hợp đồng tín dụng,…
Tác dụng của TDNH (ưu thế hơn so với TDTM)
- TDNH mở rộng cho mọi đối tượng xã hội, xâm nhập vào các ngành, các lĩnh vực với
các quy mô lớn, nhỏ khác nhau.
- TDNH có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế với số lượng rất lớn, với nhiều thời hạn
khác nhau đáp ứng vốn KD, nâng cao năng lực SX của các DN, đẩy nhanh tốc độ phát
triển của nền kinh tế
- Có tác động và ảnh hưởng lớn đối với tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước: nhờ
hoạt động TDNH vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử dụng tối đa cho nhu cầu

phát triển kinh tế, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn là điều kiện quan trọng để ổn định
lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả thị trường.
• Tín dụng Nhà nước
Định nghĩa: TDNN là quan hệ vay mượn giữa NN và xh và do NN là ngtười tổ chức thực
hiện để phục vụ cho việc thực thi các chức năng của NN
Đặc điểm:
Công cụ lưu thông: Trái phiếu Nhà nước
Tác dụng của TDNN: Đáp ứng nhu cầu chi tiêu NS của NN trong điều kiện nguồn thu
không đủ để đáp ứng.
• Tín dụng tiêu dùng:
Định nghĩa: Tín dụng tiêu dùng là quan hệ vay mượn phục vụ cho tiêu dùng của dân cư
với người tiêu dùng là người đi vay và doanh nghiệp và cá nhân là người cho vay.
Đặc điểm:
Tác dụng
- Tín dụng tiêu dùng là một khâu không thể thiếu trong hệ thống tín dụng quốc dân
trong xã hội hiện đại.
- TDTD là công cụ quan trọng góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của dân cư
và từ tác dụng này, TDTD tác động tích cực đến sx kinh doanh.
Để TDTD phát triển mạnh và lành mạnh, điều quan trọng là phải nắm được khả nằn thu
nhập hiện tại cũng như tương lai của người vay. Ngoài ra, người cho vay phải định ra lãi
suất hợp lý có sức thuyết khuyến khích người tiêu dùng mạnh dạn sử dụng TDTD.
Lãi suất TD
Định nghĩa: Lãi suất TD là tỷ lệ so sánh giữa số lợi tức thu được với số vốn cho vay phát
ra trong một thời gian nhất định. Tỷ số này còn gọi là suất lợi tức tín dụng.
Lãi suất được tính theo CT sau:
Lãi suất TD trong kỳ =
Tổng số lợi tức thu được trong kỳ
x
100
%

Tổng số vốn cho vay phát ra trong kỳ
• Các loại lãi suất:
 Dựa vào tiêu thức thời gian vay mượn: Lãi suất ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
 Dựa vào tiêu thức biến động của giá trị tiền tệ trong vay mượn: lãi suất danh nghĩa,
lãi suất thực.
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất mà người cho vay được hưởng, không tính
đến sự biến động của giá trị tiền tệ.
- Lãi suất thực: Là lãi suất sau khi đã loại trữ sự biến động của giá trị tiền tệ,
như làm phát hoặc lên giá tiền tệ.
 Căn cứ vào tiêu thức loại tiền vay mượn: lãi suất nội tệ, lãi suất ngoại tệ
Written byNguyễn Duy Đào 11/32
TIỀN TỆ - TÍN DỤNG Nguyễn Duy Đào
 Căn cứ vào mức độ ưu đãi đối với người vay: lãi suất thương mại, lãi suất ưu đãi
 Căn cứ vào tiêu thức dao động của lãi suất trong thời hạn vay mượn: lãi suất cố
định, lãi suất khả biến
 Căn cứ vào tiêu thức quản lý: lãi suất chỉ đạo và lãi suất kinh doanh
- Lãi suất chỉ đạo do Ngân hàng Trung ương công bố dưới các dạng như lãi suất tái
chiết khấu, lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ bản,…Tác dụng của lãi suất chỉ đạo
dùng để điều khiển hoạt động tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, làm căn
cứ cho việc xác định lãi suất kinh doanh.
+ Lãi suất tái chiết khấu: Là lãi suất cho vay ngắn hạn mà NHTW dành cho các
NHTM, trong trường hợp tái cấp vốn cho NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết
khấu và giấy tờ có giá. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc của các NHTM để từ
đó các NHTM ấn định nên lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác trong khung
lãi suất được phép.
+ Lãi suất sàn và lãi suất trần: Là lãi suất thấp nhất và cao nhất trong một khung lãi
suất nào đó mà NHTW ấn định cho các NHTM. Hoặc do NHTM quy định trong hệ
thống của mình nhằm thống nhất các hoạt động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các NHTM và các
TCTD ấn định lãi suất kinh doanh

- Lãi suất kinh doanh do các tổ chức tín dụng, trong đó các ngân hàng TM quy định
để triển khai các hoạt động đi vay và cho vay.
• Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng
- Cung cầu tín dụng: Cung TD là lượng NV được dùng để cho vay. Cầu TD là lượng vốn
mà XH đòi hỏi cho vay. Tương quan cung và cầu TD trong điều kiện nhất định là nhân
tố quyết định đến mức lãi suất. Nừu cung > cầu thì mức lãi suất sẽ hạ xuống và ngược
lại
- Suất doanh lợi bình quân của xã hội: Hoạt động của DN là nền tẳng của hoạt động TD.
Do đó mức doanh lợi bình quân của xã hội là nền tảng để xác định lãi suất tín dụng.
Nhìn chung lãi suất TD không thể lớn hớn mức doanh lợi bình quân của XH.
- Sự ổn định của tiền tệ và mức lạm phát: Sự tăng, giảm mức lạm phát kép theo sự mất
giá của tiền, ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người cho vay. Nừu lạm phát tăng thì lãi
suất TD phải tăng theo và ngược lại.
- Sự biến động của TGHĐ và giá vàng:
- Vai trò can thiệp của NN: NN thông qua NHTW can thiệp vào TTTD nhằm duy trì sự
vận động TD trong một giới hạn nhất định. Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như
công bố biểu lãi suất chung cho từng thời kỳ, can thiệp gián tiếp qua công bố lãi suất cơ
bản, lãi suất tái chiết khấu,…
Sự ra đời và phát triển các tổ chức tín dụng ở VN
- Đầu thế kỷ 19, Việt Nam hầu như chưa có hoạt động NH do nền kỹ nghệ và TM chưa
hình thành, hoạt động SXKD mang tính chất gia đình, làng xã nên ko cần nhiều vốn.
- Từ nửa cuối thế kỷ 19, với sự xâm chiếm và thống trị của TD Pháp, VN xuất hiện
những tổ chức TD do người nước ngoài sở hữu như: NH Đông Dương (Pháp) 1875,
NH Hồng Kông – Thượng Hải 1865,…
- Sau chiến tranh thế giới 1 đến 8/1945, một số NH mở chi nhánh ở VN và 1 số NH của
các nhà tư bản VN.
- Từ năm 1945 đến 1975 trên VN tồn tại 2 hệ thống các tổ chức TD của CQ cách mạng
và chính quyền TD Pháp + chính quyền Nam Việt Nam. Hệ thống các tổ chức TD của
CQ thực dân Pháp trước CM tháng 8/45 tồn tại đến 5/1955 khi TD Pháp rút về nước.
Từ 5/1955 đến T4/975, CQ miền Nam VN đã tạo dụng 1 hệ thống TD của nền ktế thị

trường phân thành 2 cấp rõ rệt: NH quốc giá VN đóng vai trò là NHTW, các tổ chức
Written byNguyễn Duy Đào 12/32

×