Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Quản lý hoạt động thu BHXH khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.1 KB, 132 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT ĐỀ TÀI
Chính sách BHXH đối với người lao động làm việc trong khu vực
ngoài nhà nước được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Thực hiện
các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng,
bao gồm Bảo hiểm xã hội (BHXH) đối với người lao động thuộc các thành
phần kinh tế”[20].
Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân
(KTTN) gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã phát triển
rộng khắp trong cả nước, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, huy
động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân, tăng tích lũy, góp phần giữ vững ổn định chính trị -
xã hội.
Kinh tế tư nhân hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy
mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu ;
nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện đúng những quy định pháp luật
đối với người lao động, chẳng hạn như hợp đồng lao động, tiền lương, tiền
công, bảo hộ lao động… đối với người lao động đặc biệt là chưa tham gia
BHXH cho người lao động [27].
Vì vậy, vấn đề tham gia BHXH cho người lao động thuộc khu vực
KTTN cần phải được nghiên cứu thỏa đáng nhằm tìm ra những giải pháp để
một mặt nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về việc thực hiện chế
độ chính sách BHXH đối với khu vực này, mặt khác bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho người lao động, đồng thời tăng thêm nguồn thu để tăng trưởng và
phát triển quỹ BHXH.
1
Đến nay công tác thu BHXH đối với những khu vực truyền thống như
doanh nghiệp Nhà nước, hành chính sự nghiệp, liên doanh có vốn đầu tư nước
ngoài đã đi vào nền nếp ổn định. Các đơn vị thuộc những khối này nhìn chung
có ý thức tự giác trong việc tham gia BHXH. Do vậy, ngành BHXH cần tập


trung nguồn lực khai thác thu BHXH ở những khu vực mới, nhiều tiềm năng
có khả năng, triển vọng cũng như nhu cầu tham gia BHXH rất lớn chẳng hạn
như khu vực KTTN.
Trong những năm qua, BHXH tỉnh TT Huế đã có nhiều cố gắng trong
việc triển khai thu BHXH đối với khu vực KTTN. Kết quả đã đem lại nhiều
khả quan trong việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên, đến số
đơn vị và số lao động tham gia BHXH vẫn còn thấp, chưa tương xứng tiềm
năng. Đến thời điểm 31/12/2007, mặc dù đã có nhiều cố gắng, cả nước mới có
khoảng 47.852 đơn vị đã tham gia BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc,
chiếm 35,99% trong tổng số đơn vị KTTN, và 1.669.466 lao động đã tham gia
chiếm khoảng 43,33% so với tổng số lao động. Với lý do đó chúng tôi thực
hiện nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động thu BHXH khu vực kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung: Nhằm góp phần thực hiện tốt công tác thu bảo hiểm xã
hội ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.2. Mục tiêu cụ thể
* Mục tiêu cụ thể của đề tài là:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH để xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ của hệ thống BHXH, chỉ ra được phương hướng và
nhiệm vụ công tác quản lý thu BHXH khu vực KTTN trong thời gian tới.
- Phân tích, đánh giá được thực trạng quản lý thu BHXH khu vực
KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm qua; những khó
khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện thu BHXH khu vực KTTN; Xác
2
định các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu BHXH khu vực KTTN trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia hoặc
chưa tham gia BHXH bắt buộc của doanh nghiệp được điều tra. Từ đó, đề
xuất phương hướng và hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao quản lý hoạt

động thu BHXH khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn
đề kinh tế xã hội khu vực KTTN (Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ
phần, Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh); Công tác triển khai và thực
hiện thu BHXH khu vực KTTN của cơ quan BHXH tỉnh Thừa Thiên Huế;
Điều tra 80 chủ sử dụng lao động doanh nghiệp khu vực KTTN đại diện về
những yếu tố tác động đến việc tham gia hoặc chưa tham gia BHXH bắt buộc
cho người lao động.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Về nội dung
Nghiên cứu quy trình quản lý thu BHXH, đánh giá thực trạng tham gia
BHXH khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, từ đó đưa ra hệ thống
các giải pháp nhằm nâng cao quản lý hoạt động thu BHXH khu vực KTTN.
3.2.2 Phạm vi không gian
Vùng nghiên cứu là địa bàn Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, do hạn chế về
thời gian nên khi điều tra, phỏng vấn trực tiếp các doanh nghiệp khu vực
KTTN để đánh giá những nhân tố tác động đến tham gia BHXH bắt buộc.
Chúng tôi chỉ điều tra, phỏng vấn chủ sử dụng lao động của 80 doanh nghiệp
đã tham gia và chưa tham gia BHXH bắt buộc theo tỷ lệ 1:1 tại địa bàn thành
3
phố Huế, là nơi có số lượng doanh nghiệp khu vực KTTN chiếm tỷ trọng lớn
nhất của tỉnh.
3.2.3 Phạm vi thời gian
Các tài liệu phục vụ đánh giá thực trạng được thu thập trong khoảng
thời gian từ 2003 đến 2007. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra
doanh nghiệp năm 2007.
3.2.4 Hạn chế của đề tài
Đề tài chưa đánh giá hiệu quả chính sách BHXH đối với khu vực

KTTN, không đánh giá, phân tích được những tác động chính sách BHXH đối
với doanh nghiệp khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ
HỘI VÀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI
KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
1.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm
Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do trong thực tế cuộc sống có
nhiều rủi ro xảy ra, gây nên tổn thất về người và của. Mặc dù con người đã
luôn chú ý phòng tránh nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau
nhằm kiểm soát cũng như hậu quả của rủi ro gây ra. Hiện nay, theo quan điểm
của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu
quả do rủi ro gây ra – đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các
biện pháp tài trợ rủi ro.
- Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh
rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được
sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc
sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện
pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức là loại trừ cơ hội dẫn đến
tổn thất. Chẳng hạn. để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại,...
để tránh tai nạn lao động người ta chọn những nghề không nguy hiểm... Tránh
né rủi ro chỉ với nhũng rủi ro có thể tránh né được. Nhưng cuộc sống có rất
nhiều rủi ro bất ngờ không thể tránh né được.
+ Ngăn ngừa tổn thất - các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các
hành động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra.
5

Ví dụ, để giảm thiểu các tai nạn lao động người ta tổ chức các khóa học nâng
cao chất lượng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động; đề phòng chống hỏa
hoạn, người ta thực hiện tốt phòng cháy chữa cháy...
+ Giảm thiểu tổn thất - người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua
các biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi
có hỏa hoạn, để giảm thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng
được hay trong một tai nạn giao thông, để làm giảm thiểu các thiệt hại về
người và của người ta đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và
điều trị...
Mặc dù biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn
hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường
hết được hiệu quả.
- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro: bao gồm các biện pháp chấp nhận
rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra
với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro- đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự chấp
nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự
bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro,
tuy nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: Chấp nhận rủi ro thụ động và chấp
nhận rủi ro chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động, người ta gặp tổn thất
không có sự chuẩn bị trước và có thể phải vay mượn để khắc phục hậu quả tổn
thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quỹ dự trũ, dự phòng
và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất do rủi ro gây ra. Tuy nhiên,
việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng một cách tối ưu hoặc
nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất...
+ Bảo hiểm – đây là một phần quan trọng các chương trình quản lý rủi
ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi
6
ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã
hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do

việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về tổn thất khi
chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây
ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc
sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và
không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày
nay, sự giao lưu kinh tế, văn hóa giữ các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm
cũng ngày càng mở rộng [19].
1.1.2 Lợi ích của bảo hiểm
- Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia
trước tổn thất do rủi ro gây ra.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống
con người an toàn hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh
tế – xã hội.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các
nước thông qua hoạt động tác bảo hiểm.
- Bảo hiểm thu hút một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp
phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo
hiểm cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong
ngành bảo hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản phẩm trong nước
(GDP) của quốc gia.
- Cuối cùng, bảo hiểm là chổ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức
kinh tế – xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt
7
động sản xuất kinh doanh. Bởi vì, với một giá khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo
hiểm có thể giúp đỡ các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả những rủi ro
khôn lường. [33]
1.1.3 Bản chất của bảo hiểm

Hoạt động bảo hiểm đã có từ lâu và cho đến nay cũng đã có rẩt nhiều
định nghĩa về bảo hiểm, cụ thể:
- Dưới góc độ tài chính người ta định nghĩa: “Bảo hiểm là quá trình lập
quỹ dự phòng bằng tiền nhằm phân phối lại những chi phí, mất mát không
mong đợi”.
- Dưới góc độ pháp lý: “Bảo hiểm là sự cam kết bồi thường hoặc chi trả
về mặt kinh tế, trong đó người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm phải đóng
một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm cho đối tượng được bảo hiểm theo các
điều kiện bảo hiểm đã quy định. Ngược lại, người bảo hiểm có trách nhiệm
bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro, sự
cố bảo hiểm”.
- Trên phương diện Thống kê toán, người ta định nghĩa: “Bảo hiểm là
hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy luật thống
kê) cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm
vi với điều kiện người tham gia bảo hiểm nộp một khoản phí cho chính anh ta
hoặc cho người thứ ba”.
- Trên phương diện kinh tế – xã hội, các chuyên gia Pháp định nghĩa:
“Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ
cấp nhờ vào một khoản đóng góp của mình hoặc cho người thứ ba trong
trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức chi trả, tổ chức
này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù thiệt hại theo các
phương pháp thống kê”.
8
- Nếu xem xét một cách toàn diện thì: “Bảo hiểm là một hoạt động được
tổ chức hợp lý bởi tập hợp những người có cùng chung rủi ro có thể xảy ra
hoặc các sự kiện bảo hiểm, các khoản đóng góp về tài chính của họ cho phép
bồi thường hoặc chi trả theo quy luật thống kê những thiệt hại mà một số
người trong tập hợp hoặc người thứ ba phải gánh chịu khi tổn thất hoặc sự
kiện bảo hiểm xảy ra” [33].
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.2.1 Khái niệm, đặc trưng và vai trò của bảo hiểm xã hội
1.2.1.1 Khái niệm về bảo hiểm xã hội
“BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng,
thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính, do sự đóng góp của
các bên tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người
lao động và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội” [33].
Tuy nhiên, tùy từng giác độ tiếp cận theo chuyên môn đã có cách hiểu
khác nhau về BHXH. Ví dụ:
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao
động, sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và
được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được
bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, TNLĐ,
thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu) hoặc chết.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là cách thức chia sẻ rủi ro về tài chính
giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Từ giác độ quản lý vĩ mô: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi
ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội [33].
9
1.2.1.2 Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội
- Bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động. Nói
cách khác, khi đã tham gia vào hệ thống BHXH, người lao động được bảo
hiểm cho đến lúc chết.
- Các sự kiện bảo hiểm và các “rủi ro xã hội” của người lao động có
liên quan trực tiếp đến thu nhập của họ như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm, già yếu, chết... Do những sự kiện và rủi
ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ cần phải có
khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng rất cơ

bản của BHXH.
- Người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH thì phải có
nghĩa vụ đóng phí BHXH. Người chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng phí
BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp của các bên
tham gia BHXH là nguồn hình thành quỹ BHXH. Quỹ BHXH dùng để chi trả
các trợ cấp khi có các nhu cầu phát sinh về BHXH.
- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các
chế độ BHXH cũng do luật định và Nhà nước bảo hộ các hoạt động BHXH [33].
1.2.1.3 Vai trò của bảo hiểm xã hội đối với người lao động và đối với xã hội
Đối với người lao động: BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho những người
lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh, nhanh chóng khắc phục những khó khăn
bằng cách tạo cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện sinh hoạt
thuận lợi... giúp họ ổn đinh cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ
niềm tin vào tương lai, từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao
động cũng như tinh thần nỗ lực vì sự phát triển của doanh nghiệp, cơ quan họ
đang làm nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
Đối với xã hội: Trước hết, cần phải khẳng định rằng, BHXH là một loại
dịch vụ công. Hoạt động BHXH giống như một “doanh nghiệp” sản xuất ra
10
những dịch vụ “bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ cần cho mọi
người chứ không phải chỉ là cán bộ, công nhân viên chức. Khi các tổ chức
này sản xuất và cung ứng ngày càng nhiều loại dịch vụ bảo hiểm, đáp ứng đa
dạng các nhu cầu người dân, thì giá trị của những dịch vụ này ngày càng tăng
và là một bộ phận trực tiếp làm gia tăng tăng tổng sản phẩm xã hội. Dưới giác
độ này, BHXH được xem là một ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế.
Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế- xã hội của
Nhà nước, BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với
người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm
việc, khả năng sáng tạo của họ và tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng
suất lao động xã hội. Thông qua sự trợ giúp của BHXH đối với người lao

động khi họ gặp rủi ro, bằng cách tạo ra thu nhập thay thế, BHXH đã gián tiếp
tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia, kích thích tiêu dùng của xã hội,
hổ trợ và bổ sung các chính sách vĩ mô khác của Chính phủ.
Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh
mẽ tới hệ thống tài chính quốc gia, tới hoạt động của hệ thống tín dụng, tiền
tệ, ngân hàng. Chính vì vậy, trong các hoạt động của BHXH, luôn đặt ra một
yêu cầu: quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển bằng nhiều hình thức khác
nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ. Đây là
một trong những kênh vốn quan trọng, có tác động không nhỏ tới quá trình
phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những nguồn đầu tư lớn tạo ra
những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần tạo ra công ăn việc làm cho
người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho
người lao động và tăng tổng sản phẩm quốc dân.
Thứ tư, BHXH cũng là một chính sách nhằm thực hiện công bằng xã
hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự
11
phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối lại giữa
người khỏe và người già, người làm việc và người đã về nghỉ hưu, người trẻ
tuổi và người cao tuổi, giữa nam và nữ, người đang hưởng trợ cấp và người
chưa được hưởng trợ cấp. Đây được gọi là phân phối lại theo chiều ngang.
Còn phân phối lại theo chiều dọc là thực hiện điều tiết giữa người có thu nhập
cao và người có thu nhập thấp, giữa người giàu và người nghèo. Đây là một
mục tiêu quan trọng trong các chính sách kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô [33].
1.2.2 Chức năng và tính chất bảo hiểm xã hội
1.2.2.1 Chức năng bảo hiểm xã hội
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia BHXH.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng

cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội [33].
1.2.2.2 Tính chất của bảo hiểm xã hội
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian
và không gian.
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính
dịch vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành,
bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải
12
được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên
phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp
người lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho
người lao động theo các điều kiện của BHXH. Thực chất, phần đóng góp của
mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn
khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào
quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới
góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang
trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà
nước BHXH góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ
BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã
hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều
có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo
hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ
tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó.
Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã
hội hóa của BHXH cũng ngày càng cao [33].

1.3 NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC TRONG QUẢN LÝ
THU BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.3.1 Cơ chế thu bảo hiểm xã hội ở một số nước trên thế giới
Hệ thống BHXH được thực hiện nguyên tắc: Có tham gia BHXH mới
được hưởng các chế độ BHXH. Nguồn thu của hệ thống BHXH được tập hợp
chủ yếu từ các khoản đóng góp của người lao động và chủ sử dụng lao động.
Ngoài ra ở một số nước còn có sự hổ trợ của Chính phủ với mức đóng góp và
hình thức đóng góp khác nhau phụ thuộc vào quy định của Luật pháp.
13
Bảng 1.1: Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới
ĐVT: %
Tên nước Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp
của người lao
động so với
tiền lương
Tỷ lệ đóng góp của
người sử dụng lao
động so với quỹ
lương
CHLB Đức Bù thiếu 14,8÷18,8 16,3÷22,6
CH Pháp Bù thiếu 11,82 19,68
Inđônêxia Bù thiếu 3,0 6,5
Philipin Bù thiếu 2,85÷9.25 6,85÷8.05
Malaixia
Chi toàn bộ chế độ ốm
đau, thai sản
9,5 12,75
( Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Mức đóng góp vào quỹ BHXH của mỗi nước rất khác nhau phụ thuộc

vào tiềm năng kinh tế của mỗi nước. Về việc phân chia trách nhiệm đóng góp
cho người lao động và chủ sử dụng lao động cũng khác nhau. Đa số các nước
bắt buộc chủ sử dụng lao động phải đóng góp nhiều hơn người lao động. Một
số nước như CHLB Đức, CH Pháp, Inđônêxia, Philipin được Chính phủ trả
chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại của người lao động và
người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số
nước khác lại quy định chẳng hạn như nước Malaixia thì Chính phủ chi toàn
bộ chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động [24].
1.3.2 Những bài học rút ra từ kinh nghiệp hoạt động bảo hiểm xã hội của
các nước trên thế giới
Qua nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của các nước có nền kinh tế phát
triển cũng như các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi,
có thể rút ra một số kinh nghiệm trong công tác thu BHXH như sau:
Bài học thứ nhất: Xây dựng chính sách BHXH phải dựa vào khả năng
kinh tế và xã hội cụ thể của mỗi nước.
14
Bài học thứ hai: Việc thực hiện BHXH thông qua hệ thống thuế không
cần đến một hệ thống BHXH riêng biệt và thu thuế tính trên cơ sở tiền lương
của người lao động từ bản thân người lao động và chủ sử dụng lao động như ở
Thụy Điển không phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam.
Bài học thứ ba: Qua kinh nghiệm của Mỹ, Anh và một số nước cho
thấy, hoạt động BHXH phải thực hiện theo nguyên tắc bắt buộc để thu hút
càng được nhiều đối tượng càng đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH [24].
1.3.3 Cơ chế thu bảo hiểm xã hội nước ta từ năm 1995 đến nay
1.3.3.1 Quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội
Tháng 1/1997, quy định về quản lý thu BHXH được thực hiện theo Quyết
định số 177/BHXH ngày 30/12/1996 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam.
Tháng 1/2000, căn cứ Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội
Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 26/01/1998 của
Thủ tướng Chính phủ; Thông tư số 85/1998/QĐ-BTC ngày 25/06/1998 của Bộ

Tài chính hướng dẫn Quy chế quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt
Nam; quy trình quản lý thu được thực hiện theo Quyết định số 2902/1999/QĐ-
BHXH ngày 23/11/1999 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Quyết định
này đã quy định rõ hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm, của các bên tham gia BHXH
trong việc thu nộp BHXH; về quản lý và tổ chức thu BHXH.
Tháng 7/2003, căn cứ Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bảo hiểm xã hội Việt Nam; căn cứ Quyết định số 02/2003/QĐ-TTg ngày
02/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ban hành về Quy chế quản lý
tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam; quy trình quản lý thu BHXH,
BHYT bắt buộc được thực hiện theo Quyết định số 722/QĐ-BHXH-BT ngày
26/5/2003 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Tháng 01/2007 Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 có hiệu
lực thi hành; căn cứ Quyết định số 41/2007QĐ-TTg ngày 29/3/2007 của Thủ
15
tướng Chính phủ về quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam; quy trình
quản lý thu BHXH, BHYT được ban hành theo Quyết định số 902/QĐ-
BHXH-BT ngày 26/6/2007 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam phù hợp
với quy định Luật BHXH. Đến tháng 01/2008 BHXH Việt Nam ban hành
Quyết định số 1333/QĐ-BHXH ngày 26/02/2008 về việc sửa đổi bổ sung một
số điều được quy định tại Quyểt định 902/QĐ-BHXH-BT ngày 26/6/2007.
Như vậy từ năm 1995 đến nay, Bảo hiểm xã hội Việt nam đã 5 lần thay
đổi quy định về công tác quản lý thu BHXH. Đây là vấn đề tất yếu khách quan
nhằm chuẩn hóa hệ thống tổ chức và quản lý thu BHXH sao cho phù hợp với
tình hình thực tế, đồng thời phản ánh ngành BHXH ngày càng lớn mạnh cả về
lượng và chất; bên cạnh đó cũng cho thấy rằng công tác quản lý thu nói chung
và đối với khu vực KTTN nói riêng ngày càng đa dạng và phức tạp.
1.3.3.2 Mục đích thu bảo hiểm xã hội
- Tạo lập quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở đóng góp của người
sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước, tách quỹ độc lập với ngân

sách nhà nước và thực hiện nguyên tắc hạch toán cân đối thu chi và được Nhà
nước bảo hộ. Quỹ BHXH được quản lý và sử dụng theo chế độ tài chính của
Nhà nước, bảo đảm chi ổn định, lâu dài các chế độ BHXH, giảm dần sự cấp
phát từ ngân sách Nhà nước.
- Tạo lập mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH.
- Thực hiện nguyên tắc có đóng có hưởng, đảm bảo sự công bằng giữa
cống hiến và hưởng thụ. Góp phần khắc phục các tiêu cực trong giải quyết
chế độ chính sách BHXH.
1.3.3.3 Đối tượng thuộc diện thu bảo hiểm xã hội
16
Hệ thống BHXH bắt đầu hoạt động từ tháng 07/1995, đối tượng thu
BHXH bắt buộc bao gồm những người lao động trong các doanh nghiệp khu
vực KTTN có sử dụng từ 10 lao động trở lên [11].
Đến tháng 1/2003, Nghị định 01/NĐ-CP ngày 09/01/2003 đã mở rộng
các doanh nghiệp có dưới 10 lao động và cả những lao động ký hợp đồng lao
động (HĐLĐ) từ 3 tháng trở lên hoặc HĐLĐ dưới 3 tháng sau đó tiếp tục ký
HĐLĐ mới thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc [12]; Riêng thu BHYT, thực
hiện theo Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13/08/1998 của Chính phủ đối
tượng thuộc diện thu BHYT bắt buộc áp dụng đối với những doanh nghiệp có
sử dụng từ 10 lao động trở lên [13].
Nghị định số 63/2003/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ đã mở
rộng đối tượng thuộc diện thu BHXH,BHYT bắt buộc đối với doanh nghiệp
có sử dụng dưới 10 lao động [14].
Đối tượng thuộc diện thu BHXH, BHYT bắt buộc khu vực KTTN bao
gồm: Người lao động làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên đối với doanh nghiệp thành
lập hoạt động theo Luật doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác [34].
1.3.3.4 Mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Mức đóng BHXH hàng tháng bằng 20% mức tiền lương, tiền công ghi
trong hợp đồng lao động trong đó: Người lao động đóng 5%; Người sử dụng

lao động đóng 15% [17];
Mức đóng BHYT hàng tháng bằng 3% mức tiền lương, tiền công tháng,
trong đó: Người lao động đóng 1% ; Người sử dụng lao động đóng 2% [14].
Hàng tháng, chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng, người sử dụng
lao động có trách nhiệm đóng BHXH, BHYT trên quỹ tiền lương, tiền công
của người lao động; đồng thời trích từ tiền lương, tiền công tháng của từng
người lao động để đóng cùng vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH
17
mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước, trong đó: nộp 23% tiền lương,
tiền công đối với toàn bộ số lao động thuộc đối tượng thu BHXH, BHYT; Chỉ
nộp 3% tiền lương, tiền công đối với những người thuộc đối tượng thu nêu
trên nhưng đang trong thời gian nghỉ thai sản, nghỉ ốm trên 14 ngày trong
tháng; nghỉ ốm dài ngày, nghỉ chờ việc không hưởng lương, nghỉ việc do
chuyển công tác hoặc nghỉ việc mà chưa trả lại thẻ BHYT[17].
Từ tháng 01/2007 người lao động có mức tiền lương, tiền công cao hơn
20 tháng tiền lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng
BHXH bằng 20 tháng lương tối thiểu chung [34].
1.3.3.5 Trình tự công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc
Kể từ khi bắt đầu hoạt động, doanh nghiệp có trách nhiệm lập 02 bản
“Danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH, BHYT bắt buộc”
(Mẫu số 02a-TBH). Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày ký HĐLĐ
hoặc quyết định tuyển dụng, người sử dụng lao động phải nộp toàn bộ hồ sơ
(Bản sao Quyết định thành lập hoặc chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc
giấy phép hoạt động; HĐLĐ hoặc quyết định tuyển dụng cùng 03 bản “ Tờ
khai tham gia BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 01-TBH) hoặc sổ BHXH
người lao động (nếu có) cho cơ quan BHXH.
Người sử dụng lao động tham gia BHXH, BHYT đóng trụ sở chính ở
địa bàn nào thì đăng ký tham gia đóng BHXH, BHYT tại địa bàn đó theo
phân cấp quản của cơ quan BHXH.
Hàng tháng doanh nghiệp có trách nhiệm thu phần phải đóng của người

lao động để chuyển cùng với phần đơn vị phải đóng vào quỹ BHXH theo tài
khoản thu chuyên thu của cơ quan BHXH.
Hàng tháng hoặc tháng đầu của kỳ sau (đơn vị đóng theo kỳ), căn cứ hồ
sơ đăng ký tham gia BHXH, BHYT và hồ sơ bổ sung (nếu có), các chứng từ
chuyển tiền đóng BHXH, BHYT của đơn vị; giấy báo có của Ngân hàng hoặc
18
Kho bạc Nhà nước trong tháng, trong kỳ để kiểm tra, đối chiếu và xác định số
người tham gia BHXH, BHYT, tổng quỹ lương lương, số tiền phải đóng, số
tiền đã đóng, số tiền đóng thừa, thiếu và số tiền lãi chưa đóng, chậm đóng
(nếu có). Cơ quan BHXH lập 02 bản “ Thông báo kết quả đóng BHXH,
BHYT bắt buộc” (Mẫu 08-TBH) gửi 01 bản cho đơn vị sử dụng lao động
trước ngày 10 tháng sau, 01 bản lưu tại đơn vị [30].
1.3.3.6 Phân cấp quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Quyết định số 177/BHXH ngày 30/12/1996 và Quyết định số
2902/1999/QĐ-BHXH ngày 23/11/1999 chưa phân cấp trách nhiệm của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam trong công tác thu. Từ Quyết định số 722/QĐ-BHXH-
BT ngày 26/5/2003 và Quyết định số 902/QĐ-BHXH ngày 26/6/2007 mới
quy định rõ trách nhiệm.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Chỉ đạo, hướng dẫn, và kiểm tra tình hình
thực hiện công tác quản lý thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT trong toàn ngành;
Đối chiếu tình hình thu nộp BHXH, BHYT, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; Thẩm
định số thu BHXH, BHYT bắt buộc hàng năm; Xác định mức lãi suất bình
quân trong năm của hoạt động đầu tư quỹ BHXH và thông báo cho BHXH
tỉnh [29].
Bảo hiểm xã hội tỉnh:
- Căn cứ tình hình thực tế của địa phương để phân cấp quản lý thu
BHXH, BHYT cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
- Xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu liên quan đến người lao động tham
gia BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện công

tác thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT theo phân cấp quản lý và quyết toán số tiền
thu BHXH, BHYT đối với BHXH huyện theo định kỳ quý, 6 tháng, năm và
19
lập “Biên bản thẩm định số liệu thu BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 12-
TBH) [29].
Bảo hiểm xã hội huyện, thành phố: Tổ chức, hướng dẫn thực hiện thu
BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT đối với người sử dụng lao động và
người lao động theo phân cấp quản lý [29].
1.3.3.7 Lập và giao kế hoạch thu hàng năm
Bảo hiểm xã hội huyện: Căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả
năng mở rộng người lao động tham gia BHXH, BHYT trên địa bàn, lập 02
bản “Kế hoạch thu BHXH, BHYT bắt buộc” năm sau (Mẫu số 13-TBH), gửi
01 bản đến BHXH tỉnh trước ngày 05/11 hàng năm.
Bảo hiểm xã hội tỉnh
- Lập 02 bản dự toán thu BHXH, BHYT đối với người sử dụng lao
động do tỉnh quản lý, đồng thời tổng hợp toàn tỉnh, lập 02 bản “Kế hoạch thu
BHXH, BHYT bắt buộc” năm sau (Mẫu số 13-TBH), gửi BHXH Việt Nam
01 bản trước ngày 15/11 hàng năm.
- Căn cứ dự toán của BHXH Việt Nam giao, tiến hành phân bổ dự toán
thu BHXH, BHYT cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện
trước ngày 20/01 hàng năm.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch năm
trước và khả năng phát triển lao động năm sau của các địa phương, tổng hợp,
lập và giao dự toán thu BHXH, BHYT cho BHXH tỉnh và BHXH thuộc Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ trước ngày 10/01 hàng
năm [29].
1.3.3.8 Quản lý tiền thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
- Thu BHXH, BHYT bằng hình thức chuyển khoản. Trường hợp người
sử dụng lao động hoặc người lao động đóng BHXH bằng tiền mặt thì cơ quan
BHXH phải hướng dẫn thủ tục nộp tiền vào tài khoản chuyên thu của cơ quan

20
BHXH. Nếu người sử dụng lao động hoặc người lao động nộp tiền mặt trực
tiếp tại cơ quan BHXH thì chậm nhất sau 3 ngày làm việc, cơ quan BHXH
phải nộp vào tài khoản chuyên thu mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
- BHXH tỉnh và BHXH huyện không được sử dụng tiền thu BHXH,
BHYT vào bất cứ mục đích gì (trường hợp đặc biệt phải được Tổng giám đốc
BHXH Việt Nam chấp thuận bằng văn bản).
Bảo hiểm xã hội huyện chuyển tiền thu BHXH, BHYT về tài khoản
chuyên thu của BHXH tỉnh vào ngày 10 và ngày 25 hàng tháng. Riêng tháng
cuối năm chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH, BHYT của huyện về BHXH tỉnh
trước 24 giờ ngày 31/12 [29].
1.3.3.9 Thông tin báo cáo
BHXH tỉnh, huyện mở Sổ chi tiết thu BHXH, BHYT bắt buộc (Mẫu số
07-TBH); thực hiện ghi sổ theo hướng dẫn sử dụng mẫu biểu.
BHXH tỉnh, huyện thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXH,
BHYT bắt buộc (Mẫu số 09,10,11-TBH) định kỳ tháng, quý, năm; BHXH
như sau:
+ BHXH huyện: Báo cáo tháng trước 22 hàng tháng; báo cáo quý trước
ngày 20 tháng đầu quý sau; báo cáo năm trước ngày 25/01 năm sau.
+ BHXH tỉnh: Báo cáo tháng trước 25 hàng tháng; báo cáo quý trước
ngày cuối tháng đầu quý sau; báo cáo năm trước ngày 15/02 năm sau[29].
1.3.3.10 Quản lý hồ sơ, tài liệu
- BHXH tỉnh, huyện cập nhật thông tin, dữ liệu của người tham gia
BHXH, BHYT để phục vụ kịp thời cho công tác nghiệp vụ và quản lý.
- BHXH tỉnh xây dựng hệ thống mã số đơn vị tham gia BHXH áp dụng
trong địa bàn tỉnh theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Mã số tham gia
BHXH cấp cho đơn vị để đăng ký tham gia BHXH được sử dụng thống nhất
trên hồ sơ giấy tờ; sổ sách và báo cáo nghiệp vụ.
21
- BHXH các cấp tổ chức phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ, tài liệu

thu BHXH, BHYT đảm bảo khoa học để thuận tiện khai thác; sử dụng. Thực
hiện ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý người tham gia BHXH, BHYT,
cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho người tham gia BHXH, BHYT bắt buộc [29].
1.4 TÌNH HÌNH THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA KHU VỰC
KINH TẾ TƯ NHÂN
1.4.1 Đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân
Khu vực KTTN ở nước ta hiện nay theo tinh thần nghị quyết Đại hội
Đảng IX bao gồm: 1) Kinh tế cá thể, tiểu chủ và 2) kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế cá thể: là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá
nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao
động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và
điều hành, hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
có sử dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư
nhỏ, sử dụng lao động có tính chất mùa vụ, khoán việc.
Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm toàn bộ hoạt động của các doanh
nghiệp đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu là của các
thể nhân hoặc pháp nhân trong nước, vốn đó có thể là của tư nhân, của một
pháp nhân không phải Nhà nước hoặc của một pháp nhân mà vốn Nhà nước <
50% vốn cổ phần hoặc Nhà nước không nắm cổ phần chi phối hoặc cổ phần
đặc biệt. Thành phần kinh tế này bao gồm:
+ Doanh nghiệp tư nhân được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn có một thành viên mà chủ sở hữu vốn
không phải là Nhà nước; hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên
trở lên là thể nhân và pháp nhân không phải Nhà nước được thành lập và hoạt
động theo Luật doanh nghiệp.
22
+ Công ty cổ phần mà các bên góp cổ phần là tư nhân hoặc Công ty cổ
phần được cổ phần hóa từ doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước giữ cổ phần
< 50% hoặc không nắm giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt được

thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
+ Công ty hợp danh được thành lập và hoạt động theo Luật doanh
nghiệp[8].
1.4.2 Những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân
- Đóng góp lớn nhất và quan trọng nhất của khu vực kinh tế tư nhân
(KTTN) là tạo công ăn việc làm. Trong điều kiện ở nước ta, vấn đề lao động
và việc làm đang là vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách. Hệ thống các doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta hiện đang trong quá trình cải cách không tạo thêm
được nhiều làm mới; khu vực hành chính đang giảm biên chế và tuyển dụng
mới không nhiều. Do đó khu vực KTTN chính là nơi thu hút, tạo việc làm
mới cho xã hội. Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp)
đã sử dụng khoảng 16% lực lượng lao động xã hội với khoảng hơn 6 triệu
người.Trong 3 năm (2000-2002), các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể
mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ việc làm[27].
- Khu vực KTTN đã đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Thực tiễn cho thấy, trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 thành
phần kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ cao, tỷ trọng đóng góp vào ngân
sách nhà nước lớn. Theo số liệu thống kê, công nghiệp ngoài quốc doanh (bao
gồm cả kinh tế tư nhân) tuy vẫn là khu vực nhỏ nhất so với các khu vực khác,
nhưng có nhịp độ tăng trưởng cao nhất: năm 2000 chiếm 24,6% trong giá trị
sản xuất theo giá thực tế của toàn ngành công nghiệp, năm 2003 là 27,5%,
năm 2004 tăng lên 28,5% và năm 2005 đạt trên 37% [36].
- Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách. Theo số liệu
thống kê của Bộ Thương mại, đến năm 2002, khu vực KTTN trong nước đã
đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam [27].
23
- Đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh vào ngân sách nhà nước
đang có xu hướng tăng nhanh, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm
2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm
2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra, khu vực

KTTN còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế môn bài, VAT trong
nhập khẩu và các khoản phí khác [27].
- Khu vực KTTN đã có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn
vốn đầu tư xã hội. Tính đến cuối năm 2003, đầu tư của khu vực KTTN chiếm
27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân
doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tê
địa phương. Chẳng hạn, năm 2002 đầu tư của các doanh nghiệp ở thành phố
Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư xã hội trên địa bàn, cao hơn tỷ
trọng vốn đầu của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách gộp lại (36,5%)[27].
- Khu vực KTTN góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, thúc
đẩy phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, xóa đói giảm nghèo.
Sự phát triển của khu vực KTTN là nhân tố chủ yếu tạo môi trường
cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số
doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn
với cơ chế kinh tế mới. Các loại thị trường bắt đầu hình thành và phát triển
(thị trường hàng hóa – dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường
bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ). Quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta sẽ không thể thực hiện nếu không có sự tham gia của khu
vực KTTN [27].
24
1.4.3 Một số hạn chế của kinh tế tư nhân Việt Nam
Một là, hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN ở nước ta mới
được thành lập, hơn 90% là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kinh nghiệm
và năng lực cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương. Theo số liệu của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hơn 61% doanh nghiệp mới thành lập
thiếu nguồn lực cơ bản như vốn, năng lực quản lý, thị trường, đất đai, khó tiếp
cận với nguồn cung ứng hổ trợ.
Hai là, Khu vực KTTN ở nước ta nhìn chung năng lực cạnh tranh thấp,

trình độ công nghệ và năng lực quản lý kém.
Ba là, Các DNTN mới chủ yếu tập trung kinh doanh trong các ngành
thương mại và dịch vụ sơ cấp. Số lượng doanh nghiệp trong các ngành công
nghiệp chế biến và dịch vụ cao cấp còn rất ít.
Bốn là, KTTN, nhất là các doanh nghiệp mới tập trung phát triển ở một
số thành phố lớn. Trong khi đó, ở nhiều vùng nông thôn, miền núi... hầu như
có rất ít các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN.
Năm là, nhiều đơn vị KTTN chưa thực hiện tốt những quy định của
pháp luật về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền
công, bảo hộ lao động, giờ làm việc... đối với người lao động.. Nguyên nhân
của tình trạng này xuất phát từ cả phía chủ doanh nghiệp lẫn người lao động.
- Từ chủ doanh nghiệp, hoặc là không biết (do thiếu thông tin, trình độ
thấp), hoặc là biết mà không thực hiện (do tính răn đe của pháp luật không
nghiêm hoặc không có chế tài cụ thể để thực hiện Luật).
- Từ người lao động, hoặc là không biết (do trình độ thấp, do thiếu
thông tin hoặc do biết nhưng không dám đòi hỏi).
Sáu là, một số doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm pháp luật,
trốn lậu thuế, kinh doanh trái phép, chưa thực hiện đúng Luật doanh nghiệp
và các quy định về đăng ký kinh doanh.
25

×