Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.27 KB, 13 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”

SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC SINH HỌC 9
I.LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN:
Thực hiện theo NQ 40/2010/QH của Quốc Hội, toàn quốc đã tiến hành thực hiện đổi
mới giáo dục phổ thơng. Q trình đổi mới tồn diện trên nhiều lĩnh vực của giáo dục phổ
thông mà quan trọng là đổi mới chương trình giáo dục để đáp ứng yêu cầu xây dựng đạt
được mục tiêu việc “dạy chữ, dạy người, dạy nghề”, định hướng nghề nghiệp cho học sinh
trong hoàn cảnh mới của xã hội Việt Nam hiện đại. Trọng tâm của đổi mới chương trình và
sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy
học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của HS với sự tổ chức và hướng dẫn
thích hợp của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành phương pháp
và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong
học hành
Để thực hiện mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
theo cách lấy người học làm trung tâm. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là
phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người GV cần nhận thức rõ ràng là quy luật
nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo và thái độ chứ khơng phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều HS học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ
kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kĩ năng tư duy. HS chỉ học bài nào biết bài
đấy, cô lập nội dung của các mơn, phân mơn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì
vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng bản đồ tư duy
(BĐTD) giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
Từ những lí do trên, tơi hình thành ý tưởng đó là ứng dụng BĐTD trong các nội dung
bài học để có thể phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học tập. Vì
vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng BĐTD trong dạy học Sinh học 9” trong các tiết dạy môn
sinh học 9 của mình nhằm nâng cao kết quả dạy-học.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng:


a. Thuận lợi:
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội,
phụ huynh, HS…
- Chương trình mơn Sinh học THCS có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp
giảng dạy dùng BĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho HS lĩnh hội kiến
thức
- Về cơ sở vật chất khá đầy đủ tạo điều kiện cho hoạt động học tập: máy chiếu, phòng
thực hành, bảng phụ…
- GV được tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng BĐTD trong giảng
dạy.
b. Khó khăn

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

1


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”
- Đây là phương pháp dạy học mới nên GV và HS không tránh khỏi lúng túng trong
một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng…
- Nội dung môn Sinh học THCS, đặc biệt là sinh học lớp 9 khơ, khó, trừu tượng.
- Địi hỏi GV phải có nhiều kĩ năng khác ngồi kĩ năng sư phạm.
- GV khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng HS.
- Năng lực HS không đồng đều nên đôi khi việc vẽ BĐTD trong học tập là sự máy
móc khơng hiệu quả.
Tôi đã tiến hành khảo sát ở 2 lớp 9 kết quả khảo sát đầu năm như sau:
Giỏi
Khá
T. Bình

Yếu
Kém
Sĩ số
8,0-10
6,5-7,9
5,0-6,4
3,0-5,0
0,0-3,0
91
37
7
12
12
5
1
92
35
7
9
11
5
Nhận xét Chưa áp HS trình độ ở 2 lớp khá đồng đều
dụng
BĐTD
2. Hướng giải quyết:
Là người GV trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ thơng
thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng các phương
tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng với từng hoạt động giúp
HS tích cực trong tìm tịi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, BĐTD là một công cụ dùng
để phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải là một giải

pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tơi đã áp dụng nhiều phương
pháp, nhiều kĩ thuật nhưng chú trọng là tôi sử dụng BĐTD. Sau đây tôi xin đưa ra một số
kinh nghiệm có hiệu quả trong việc sử dụng BĐTD cho các phần của bài học, các kiểu bài
khác nhau.
2.1 Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong các tiết
dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo khơng khí sinh
động trong lớp học và giúp HS học tập có hiệu quả hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà GV có thể
áp dụng thêm cách kiểm tra miệng như sau bằng cách sử dụng BĐTD. Sử dụng BĐTD vừa
giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của HS đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm
tra bài cũ tương đối ngắn nên các BĐTD tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thơng tin, u cầu
HS điền các thơng tin cịn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thơng tin
với từ khóa trung tâm.
Ví dụ 1: Để kiểm tra bài củ bài: “Môi trường và các nhân tố sinh thái” GV yêu cầu HS hoàn
thành BĐTD sau:
- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hồn thành trọn vẹn thì tơi thường xun
hướng dẫn HS cách lập bản đồ tư duy trong việc hình thành kiến thức mới sẽ được thể hiện

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

2


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”
ở phần sau, cách ghi chép, cùng HS hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng
BĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức mà HS cần nắm vững.
- Tùy theo lượng thời gian phân phối cho phần kiểm tra bài cũ và nội dung kiến thức
bài trước mà tơi có thể cho HS hồn thành trọn vẹn BĐTD dưới hình thức cuộc thi chẳng
hạn HS nào nhanh nhất, chính xác nhất sẽ được tuyên dương và sẽ đạt điểm cao.

Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu HS đã rất hào hứng và nhiệt tình tham gia, làm cho
phần trả bài khơng cịn là áp lực với HS, các em khơng phải chỉ cịn đọc thuộc lịng từng câu
chữ, mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp học.
2.1 Sử dụng BĐTD trong việc dạy kiến thức mới
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận
dụng kiến thức mới của HS, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách học của trò là yếu
tố quyết định.
Sử dụng BĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông hiểu, vận
dụng kiến thức mới của HS. Với đặc thù của môn sinh 9 thì nội dung tương đối dài nên từ
đầu năm học, theo định hướng của ngành chống đọc chép, tôi đã giới thiệu đến HS các kiểu
ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu trích dẫn,…... Thực tế, các kiểu ghi chép này các em cũng
đã thực hiện rồi nhưng ít được biết đến tên và tác dụng cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi.
Thông thường, tôi nhận thấy ở trường HS thường được hướng dẫn ghi chép bài học theo
kiểu đề mục, trích dẫn,…. Nhưng các kiểu ghi chép trên nếu được kết hợp với việc hệ thống
kiến thức bài học theo kiểu BĐTD sẽ giúp HS nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê
học tập hơn cho HS, giúp cho các kiến thức ấy "đi thẳng vào đầu" HS một cách nhanh
chóng, hiệu quả hơn.
Để sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới, tơi đã tổ chức các hình thức sau
cho HS:
Khi dạy HS hồn tồn bằng bảng tơi thường dành một góc bảng bên phải để cùng HS
hồn thiện BĐTD. Ví dụ khi dạy bài “Đột biến gen” Sinh học 9, sau khi đã kiểm tra bài cũ,
tơi đi theo tiến trình và cách trình bày như sau:
Bảng ghi được chia làm 2 phần chủ yếu
Đột biến gen
(Ở bảng bên phải cũng xuất hiện
I. Khái niệm và các dạng đột biến gen
từ khóa “Đột biến gen”)
1. Khái niệm
Khái
2. Các dạng đột biến gen

Đột biến niệm
(GV và HS cùng tìm hiểu phần I. Sau khi học xong
Mất
gen
phần I, BĐTD xuất hiện thêm 2 nhánh “Khái niệm”;
Các
“Các dạng” và thêm các nhánh con, ví dụ như: “mất”
dạng
Thêm
“thêm” “thay thế” )
…………
Thay thế
Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ thì
BĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc GV và HS đã hồn
thành xong BĐTD cho bài học.
Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tơi cho HS hoạt động nhóm: Sau khi đã học
xong nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập, củng cố tôi cho HS hồn
thành BĐTD theo nhóm hoặc hồn thành theo kĩ thuật “khăn phủ bàn”.

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

3


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”
Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó HS phải lên
trình bày, thuyết minh thơng qua BĐTD mà GV và HS hoặc nhóm mình đã hồn thành. HS
khác nhận xét, bổ sung. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh BĐTD từ đó
dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. GV giới thiệu BĐTD là một sơ đồ mở nên
khơng u cầu tất cả các nhóm HS có chung 1 kiểu BĐTD, tôi chỉ chỉnh sửa cho HS về mặt

kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức (nếu cần).
Ví dụ: BĐTD hình thành sau khi học xong bài “Hệ sinh thái”

Qua việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy phần kiến thức mới tơi nhận thấy HS dần
dần có những thay đổi đáng kể, các em chủ động nắm được nội dung bài học và có sự tư
duy logic hơn. Tơi nghĩ rằng việc hệ thống kiến thức sẽ rất dễ dàng với các em khi các em
đã quen với cách làm việc có hệ thống như trên.
2.3 Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức:
Củng cố bài giảng là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố dẫn đến sự
thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp HS nhớ lại và khắc sâu kiến thức hơn.
Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, HS cịn có thể tự đánh giá kết quả học tập của
mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp. Bằng các
phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, GV sẽ giúp HS phát huy tính tích cực, chủ động
trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và phát triển tư duy cho HS. Củng cố
bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa GV và HS. Điều đó tạo hứng thú học tập cho HS,
ni dưỡng bầu khơng khí lớp học, tạo điều kiện để HS phát biểu ý kiến.

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

4


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”
Trước đây tôi thường dùng một số phương pháp củng cố bài thường dùng: Củng cố
bài giảng bằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập, Củng cố bài giảng bằng việc tổ chức
các trò chơi, củng cố bài giảng bằng cách cho HS tự tổng kết kiến thức.
Mỗi phương pháp có một ưu nhược điểm riêng nhưng khi dùng BĐTD, chúng ta có
thể khắc phục các nhược điểm, phát huy tối đa các ưu điểm. Sử dụng BĐTD gần như là một
biện pháp có thể kết hợp các phương pháp trên với nhau một cách linh hoạt, hiệu quả (Đó là
trị chơi, là sơ đồ tổng kết, có những câu hỏi củng cố…). Tôi nhận thấy rằng BĐTD là công

cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm hứng và niềm say mê
học tập cho HS.
Từ đó, tơi đã mạnh dạn vạch ra kế hoạch để hướng dẫn HS học tập theo BĐTD này.
Khi mới áp dụng BĐTD vào việc củng cố bài học ở lớp nói riêng và áp dụng cho các kiểu
bài nói chung, tơi thơng qua trị chơi cho HS là sắp xếp các cụm từ cho sẳn thành 1 sơ đồ.
Ví dụ sau khi học xong bài: Đột biến số lượng NST (tiếp theo) tôi đã thực hiện việc
củng cố như sau:
Tôi cho HS chuẩn bị trước các cụm từ như sau:
ĐỘT BIẾN NST

HIỆN TƯỢNG ĐA BỘI

HIỆN TƯỢNG DỊ BỘI

ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST

ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

MẤT ĐOẠN
LẶP ĐOẠN
ĐẢO ĐOẠN

Sau đó, tơi u cầu các nhóm từ 3-5 HS tổ chức thi đua hoàn thành bằng cách dán
trên bảng sắp xếp và nối các đường liên kết từ các cụm từ lại sao cho hợp lí nhất. Kết quả
thu được sau củng cố bài là ba dạng sơ đồ như sau:
Dạng sơ đồ thứ nhất:
ĐỘT BIẾN NST

ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST


MẤT
ĐOẠN

LẶP
ĐOẠN

ĐẢO
ĐOẠN

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

HIỆN
TƯỢNG DỊ
BỘI

HIỆN
TƯỢNG
ĐA BỘI

5


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”

Dạng sơ đồ thứ 2:
MẤT
ĐOẠN


ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST

ĐẢO
ĐOẠN

LẶP
ĐOẠN
ĐỘT
BIẾN NST
HIỆN
TƯỢNG DỊ
BỘI
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

Dạng sơ đồ thứ 3:

HIỆN
TƯỢNG
ĐA BỘI
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST

ĐỘT
BIẾN NST

MẤT
ĐOẠN

ĐẢO

ĐOẠN

LẶP
ĐOẠN

HIỆN
TƯỢNG DỊ
BỘI

HIỆN
TƯỢNG
ĐA BỘI

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện có thể các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến
thức yêu cầu, cần có sự góp ý của GV , nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được
học, tự tin khi thuyết trình trước mọi người về BĐTD của nhóm mình hoặc của nhóm khác.
Sau đó, tơi khuyến khích, gợi mở, hướng dẫn các em đúng sơ đồ chuẩn. Bên cạnh đó, tơi
cũng phát hiện ở các em có nhiều sáng tạo rất hay trong việc sắp xếp các cụm từ như ở ví dụ
minh họa trên.

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

6


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”
Nhưng sau khi HS đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng BĐTD thì khơng
phải tiết nào cũng củng cố qua cách sắp xếp các cụm từ vì như vậy sẽ gây nhàm chán, mất
thời gian. Vì thế một biện pháp khác tơi sẽ dùng một bảng phụ kẻ sẳn sơ đồ tư duy và dùng
giấy dán lại sau đó tơi sẽ đưa ra các câu hỏi cho HS lần lượt trả lời các câu hỏi mỗi câu trả

lời của học sinh là một nhánh của sơ đồ sẽ được mở ra.
Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em nhớ bài nhanh
hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với việc củng cố bài học, khi
HS đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tơi thường dành vài phút đề phân tích nhằm khắc sâu kiến
thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi
mục đích cuối cùng của tơi là giúp các em có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan
được hệ thống thành một BĐTD hoàn hảo.
Ví dụ: Củng cố bài “Hệ sinh thái”, tơi đã dùng như sau:
GV: Vừa rồi chúng ta đã cùng tìm hiểu các nội dung kiến thức trong bài Hệ sinh thái.
Bây giờ các em hãy trình bày những kiến thức trọng tâm đã được học. GV treo bảng phụ sơ
đồ đã kẽ sẳn
GV đưa ra hệ thống câu hỏi:
? Bài Hệ sinh thái chúng ta tìm hiểu mấy nội dung kiến thức? Đó là những nội dung
nào?
- HS: trả lời giáo viên sẽ mở các nội dung kiến thức đó ra.
- GV tiếp tục sử dụng câu hỏi tiếp theo và gọi HS trả lời để dần dần sơ đồ tư duy sẽ
được mở ra.
? Nêu khái niệm hệ sinh thái.
? Nêu thành phần, cấu trúc của hệ sinh thái
? Nêu các kiểu hệ sinh thái.

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

7


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”

Sau khi xuất hiện BĐTD đầy đủ cùng với các hình ảnh, GV nên để cho HS trình bày
lại đầy đủ các nội dung và để thời gian cho các em quan sát, ghi nhớ. Cuối cùng GV là

người chốt lại, khắc sâu kiến thức cho HS.
2.4 Sử dụng BĐTD trong việc dạy tiết ôn tập, tổng kết kiến thức
Những điểm cần chú ý về mặt phương pháp khi tiến hành bài ôn tập, tổng kết
Bài ôn tập tổng kết không phải chỉ là sự tái hiện lại kiến thức cho học sinh mà phải thể hiện
được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận dụng, nâng cao toàn diện kiến thức của phần
cần ơn tập cho học sinh. Vì vậy cần có sự xác định mục tiêu rõ ràng cho bài ôn tập về kiến
thức, kỹ năng cần hệ thống, khái quát và mức độ phát triển kiến thức cho phù hợp với khả
năng nhận thức của học sinh.
Khi chuẩn bị bài ôn tập cần sắp xếp các kiến thức cần khái quát, hệ thống cho một
chương hay một phần theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát triển của kiến
thức, cùng các kỹ năng cần rèn luyện.
BĐTD là một công cụ khá mạnh trong những tiết bài tập, ôn tập. Thông thường tôi
tiến trình theo ba bước: 1. Sơ đồ hóa kiến thức  2. Nội dung cần ôn tập  3. Ôn tập tổng
kết.
Bước 1. Thông thường tơi thường giao cho HS về nhà hồn thiện (Cách làm này
cũng được áp dụng dạy kiến thức mới khi HS đã thành thạo với BĐTD) Trước khi vào nội
dung 2 tôi dành thời gian kiểm tra sự chuẩn bị cũng như kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức của
HS bằng cách gọi một vài HS lên bảng trình bày những nội dung kiến thức mà mình đã thể
hiện trong BĐTD. Riêng phần này tôi cho các em thoải mái trình bày theo những ý tưởng đã
sắp xếp, HS khác và tôi chỉ làm thêm nhiệm vụ là bổ sung những nội dung còn thiếu trong
những phần đã học trong BĐTD.
Bước 2. Tôi hướng dẫn HS ôn tập theo những chủ điểm đã có trong BĐTD.
Bước 3. Tơi cho HS hồn thiện BĐTD của mình như phần củng cố bài học: Chú ý
phân phối thời gian hợp lý: Thời gian 1 tiết học 45 phút, nên vấn đề cần quan tâm để đạt
hiệu quả là việc phân phối thời gian hợp lý. Do đó, tơi dùng thời gian của những bài học
ngắn khoảng 5 - 9 phút để thực hiện.
Khoảng 2 - 4 phút: Các em bổ sung ý tưởng riêng của mình và trao đổi với các bạn cùng
nhóm.
Khoảng 2 - 3 phút tiếp theo: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm mình.


Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

8


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”
Thời gian còn lại, tơi cùng các HS góp ý, đánh giá, trình chiếu sơ đồ mà tôi đã vẽ để
các em đối chiếu, so sánh, chỉnh sửa lại cho hợp lí.
Qua BĐTD hệ thống kiến thức, tôi chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc biệt là các
từ khóa và để HS hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên sơ đồ. Có thể nói, đây là
một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong trí nhớ được sâu và dài hơn so với các
phương pháp khác.
Kết quả bài khảo sát của hai lớp 91 (Sử dụng BĐTD) và 92 (Khơng sử dụng BĐTD)
(hai lớp có số HS và lực học tương đương) cụ thể qua bảng so sánh sau:
Sĩ số

Giỏi

Khá

T. Bình

Yếu

Kém

8,0-10
6,5-7,9
5,0-6,4
3,0-5,0

0,0-3,0
91
37
9
13
13
2
92
35
6
10
11
7
1
Nhận xét Áp dụng HS từ TB trở lên tăng, đặc biệt HS yếu, kém giảm
BĐTD
điểm giỏi
III. KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tế công tác giảng dạy, tôi rút ra một số kinh nghiệm bản thân như sau:
Với những biện pháp trên tôi đã áp dụng vào các kiểu bài dạy: Dạy bài học tìm hiểu
kiến thức mới, tiết ôn tập tổng kết… và áp dụng trong các phần như: kiểm tra bài cũ, củng
cố kiến thức hoặc xuyên suốt quá trình của một tiết học thì tôi nhận thấy rằng HS tiếp cận
kiến thức một cách nhẹ nhàng hơn, nắm vững kiến thức sâu hơn và có khả năng nhớ lâu
hơn. Theo chủ quan tơi phân ra 5 cấp độ cho HS khi học theo BĐTD
Cấp độ 1: HS quan sát BĐTD theo mẫu đã vẽ sẵn
Cấp độ 2: HS tái hiện lại BĐTD sau khi đã quan sát, đã học về kiến thức cần trình
bày trong BĐTD
Cấp độ 3: HS tự vẽ được BĐTD sau khi đã học xong nội dung kiến thức
Cấp độ 4: HS tự đọc kiến thức mới và tự tổng kết được bằng BĐTD

Cấp độ 5: HS trình bày được các nội dung kiến thức đã học, đã tìm hiểu mà khơng
cần bất kì tài liệu nào.
Bằng những kinh nghiệm có được qua những giờ lên lớp, trao đổi với các bạn đồng
nghiệp, qua những tiết dự giờ. Dù đã rất cố gắng song khơng thể tránh khỏi những thiếu sót.
Với 1 số biện pháp trên tơi trình bày như trên. Tôi hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến trao
đổi, chân thành của quý thầy cô để sáng kiến của tơi đưa ra được hồn thiện hơn và cũng có
thể áp dụng rộng rãi hơn.
2.Kiến nghị
- Cần tổ chức cho giáo viên được học bồi dưỡng sử dụng thiết bị, sử dụng phần mềm
Buzan's iMindMap.
- Nhà trường, tổ chuyên môn cần có những chuyên đề, thảo luận về sử dụng BĐTD
và xây dựng thư viện BĐTD để GV và HS có thể khai thác, sử dụng.

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

9


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”
Trên đây là một số ý kiến của tơi, kính mong các cấp lãnh đạo nghiên cứu và xem xét
để đề tài được áp dụng rộng rãi nhằm thực hiện tốt mục tiêu đổi mới giáo dục và giảng dạy
bộ môn đạt hiệu quả cao.
An Thạnh 1, ngày 16 tháng 10 năm 2014
Người viết

Phan Thị Thúy Hằng

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

10



Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

11


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

12


Sáng kiến kinh nghiệm “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học 9”

Giáo viên thực hiện: Phan Thị Thúy Hằng

13



×