Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Phương thức vượt thoát thực tại trong thơ mới Việt Nam 1932-1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 118 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ TRANG NGUYÊN



PHƢƠNG THỨC VƢỢT THOÁT THỰC TẠI
TRONG THƠ MỚI VIỆT NAM 1932 - 1945



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lí luận Văn học
Mã số: 60 22 32



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam



Hà Nội - 2014

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên Lớp CHVH - K54
Lêi C¶m ¬n
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, em đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình của các thầy, cô giáo của khoa Văn học Trường Đại học


KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - Tiến sĩ
Nguyễn Văn Nam, thầy đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành
luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong tổ bộ môn Lí luận Văn học,
khoa Văn học, phòng Sau đại học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn - ĐHQGHN đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người
thân yêu đã luôn động viên và dành cho em sự giúp đỡ, sẻ chia về mọi mặt
trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu.
Với trình độ còn hạn chế của người viết, Luận văn chắc chắn không
tránh khỏi khiếm khuyết. Em hy vọng sẽ nhận được những ý kiến nhận xét,
góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và bạn bè về những vấn đề
được triển khai trong Luận văn được hoàn thiện và trọn vẹn hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên Lớp CHVH - K54
Lời cam đoan
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, tôi đã hoàn thành xong Luận
văn Thạc sĩ của mình với đề tài Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ
Mới Việt Nam 1932 - 1945. Tôi xin cam đoan Luận văn này là kết quả nghiên
cứu nghiêm túc của tôi dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Nguyễn Văn
Nam. Kết quả này chưa hề được công bố trong bất cứ công trình khoa học
nào, mọi tài liệu tham khảo đều được trích dẫn rõ ràng. Nếu lời cam đoan
trên là không đúng, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 18 tháng 12 năm 2014
Nguyễn Thị Trang Nguyên


Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên Lớp CHVH - K54
MỤC LỤC
Lêi C¶m ¬n
Lời cam đoan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: PHƢƠNG THỨC VƢỢT THOÁT THỰC TẠI VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 12
1.1. Thơ Mới trong dòng chảy của chủ nghĩa lãng mạn 12
1.1.1. Về chủ nghĩa lãng mạn 12
1.1.1.1. Nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa lãng mạn 15
1.1.1.2. Đặc trƣng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn 17
1.1.2. Bối cảnh xã hội và sự ra đời của Thơ Mới 21
1.1.2.1. Bối cảnh văn hóa - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 21
1.1.2.2. Thơ Mới - sự ra đời tất yếu 25
1.2. Phƣơng thức vƣợt thoát thực tại và cảm hứng sáng tác trong Thơ Mới
1932 - 1945 27
1.2.1. Phƣơng thức vƣợt thoát thực tại và vấn đề vƣợt thoát trong văn học
27
1.2.2. Cảm hứng sáng tác trong văn học 30
1.2.3. Phƣơng thức vƣợt thoát thực tại nhƣ là cảm hứng chủ đạo trong
sáng tạo Thơ Mới 32
Tiểu kết chƣơng 1 35
CHƢƠNG 2: CÁC LOẠI HÌNH PHƢƠNG PHÁP VƢỢT THOÁT
THỰC TẠI TRONG THƠ MỚI 36
2.1. Lí tƣởng hóa quá khứ 37
2.2. Lí tƣởng hóa thiên nhiên 43
2.3. Lí tƣởng hóa tình yêu 53


Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên Lớp CHVH - K54
2.4. Lí tƣởng hóa tôn giáo - nghệ thuật 57
Tiểu kết chƣơng 2 65
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC VƢỢT THOÁT THỰC TẠI - SỰ VẬN
ĐỘNG CỦA HÌNH THỨC BIỂU HIỆN 67
3.1. Sự vận động của thể thơ và ngôn ngữ thơ 68
3.1.1. Thể thơ vƣợt khỏi khuôn khổ thơ ca truyền thống 68
3.1.2. Ngôn ngữ thơ vƣợt lên sự sáo mòn 74
3.1.2.1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính 75
3.1.2.2. Ngôn ngữ thơ đa nghĩa 77
3.1.2.3. Ngôn ngữ tự do, phá cách 79
3.2. Sự mở rộng của Không - Thời gian nghệ thuật 83
3.2.1. Không gian nghệ thuật 83
3.2.1.1. Không gian làng quê, không gian “trở về” của các thi sĩ Thơ
Mới 85
3.2.1.2. Không gian mộng tƣởng 91
3.2.2. Thời gian nghệ thuật 93
3.2.2.1. Thời gian tuyến tính 94
3.2.2.2. Thời gian hoài cổ 98
Tiểu kết chƣơng 3 103
KẾT LUẬN 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 1 Lớp CHVH - K54
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lí luận văn học lãng mạn cho thấy, vƣợt thoát thực tại nhƣ một cảm

hứng chủ đạo, thể hiện thái độ của ngƣời nghệ sĩ trƣớc cuộc đời. Đó nhƣ một
cách ứng xử của ngƣời nghệ sĩ lãng mạn trƣớc một sự chuyển biến tổng quát
về tâm lí, cảm xúc, ý thức hệ, ảnh hƣởng sâu đậm đến đời sống tinh thần của
con ngƣời. “Đó là vấn đề của một thế hệ ý thức đƣợc rằng mình đang sống
một “khúc gãy” trong tiến trình của nhân loại, cảm nhận đƣợc rằng, sau biến
động xã hội đó, xã hội không bao giờ còn trở lại đƣợc nhƣ cũ” [46;52]. Với
tinh thần luôn hƣớng về và truy tìm lí tƣởng, vƣợt lên trên hiện thực, các nhà
lãng mạn dùng lí tƣởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan, dốc toàn lực
để biểu hiện một viễn cảnh cuộc sống mà con ngƣời nên có. Schiller từng nói
sáng tác của mình là “lấy lí tƣởng đẹp đẽ để thay thế hiện thực thiếu thốn”
(Schiller bình truyện, NXB Hội Nhà văn, 1955, tr55). Nhận thấy mâu thuẫn
gay gắt giữa lí tƣởng và thực tại, các nhà lãng mạn tìm cách vƣợt thoát thực
tại đó bằng mọi hƣớng: tìm vào thế giới nội tâm, thoát ly trong không gian,
trong thời gian. Chính khát vọng vƣợt thoát thực tại đó là cơ sở quy định hệ
thống chủ đề cũng nhƣ hình tƣợng yêu thích của trào lƣu lãng mạn.
Trong dòng chảy văn học dân tộc giai đoạn 1930 - 1945, cùng với văn
học cách mạng, văn học hiện thực thì văn học lãng mạn, mà trong đó phong
trào Thơ Mới 1932 - 1945 là hạt nhân, ra đời và đánh dấu một cuộc cách
mạng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Trƣớc hoàn cảnh xã
hội đƣơng thời với những biến động về chính trị, văn hóa, tƣ tƣởng, với tâm
hồn dễ rung động và nhạy cảm trƣớc những biến động của cuộc sống, các tác
giả lãng mạn muốn vƣợt thoát thực tại đó bằng một thế giới lí tƣởng, bằng
chính tài năng nghệ thuật của mình. Họ “bác bỏ cuộc sống tầm thƣờng của xã
hội”, “hƣớng về một thế giới khác mà thƣờng họ tìm thấy trong các truyền

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 2 Lớp CHVH - K54
thuyết và sáng tác dân gian, trong các thời đại lịch sử đã qua, trong các bức
tranh kì diệu của thiên nhiên, trong đời sống, sinh hoạt, tập quán của các dân
tộc và đất nƣớc xa xôi”. Họ đem những ƣớc vọng cao cả và những biểu hiện

cao nhất của đời sống tinh thần nhƣ nghệ thuật, tôn giáo, triết học, đối lập với
thực tiễn vật chất tầm thƣờng. Các phƣơng thức vƣợt thoát thực tại, vƣợt thoát
quy phạm của môi trƣờng cũ đã quy định tới tinh thần, tƣ tƣởng thẩm mỹ của
ngƣời nghệ sĩ lãng mạn, làm nên giá trị, thành tựu nhất định của trào lƣu.
Phong trào Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945 với những thành tựu rực rỡ
của nó đã thực sự đem đến cho thi ca Việt Nam một thời đại mới, mở đầu cho
tiến trình hiện đại hóa của thơ Việt còn tiếp tục cho đến ngày nay. Phong trào
Thơ Mới đƣợc đánh giá là cuộc cách mạng trong thơ ca xuất phát từ sự bùng
nổ của tƣ duy sáng tạo với sự hội ngộ của hai nền văn hóa, văn học phƣơng
Đông và phƣơng Tây trên cơ sở văn chƣơng Việt, thi pháp Việt.
Từ khi Thơ Mới ra đời cho đến nay, việc nhận thức Thơ Mới đã trải
qua một chặng đƣờng gần một thế kỷ với nhiều bƣớc thăng trầm. Thơ Mới đã
trở thành đối tƣợng nghiên cứu của rất nhiều công trình, chuyên luận, luận án
khoa học và đã đƣợc nhìn nhận, đánh giá lại đúng thực chất của nó. Vấn đề
phƣơng thức vƣợt thoát thực tại đã có ít nhiều các công trình đề cập đến, song
do những mục đích khoa học cụ thể, các tác giả chƣa lƣu ý đến vấn đề này
một cách tập trung và hệ thống; đồng thời chƣa chú trọng đúng mức đến
phƣơng thức vƣợt thoát thực tại nhƣ là một cảm hứng chủ đạo trong sáng tạo
của các nhà Thơ Mới, thể hiện đặc trƣng thi pháp cũng nhƣ nguyên tắc sáng
tác của chủ nghĩa lãng mạn. Cũng chính điều đó tác động đến sự phát triển
của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945.
Đây chính là lí do mà chúng tôi lựa chọn vấn đề Phương thức vượt
thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945 cho đề tài luận văn của
mình. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng góp phần bổ sung vào việc

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 3 Lớp CHVH - K54
nghiên cứu Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945 ở khía cạnh mỹ học sáng tạo.
Xem đây nhƣ một vấn đề lí luận cần phải đƣợc lƣu tâm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Chúng tôi chia lịch sử vấn đề nghiên cứu làm ba thời kỳ, tƣơng ứng với
ba giai đoạn khác nhau của lịch sử là trƣớc năm 1945, từ 1945 đến 1986, từ
1986 đến nay. Ở mỗi chặng đƣờng tuy có khác nhau về hoàn cảnh, nhƣng đều
có những công trình có những đóng góp về nội dung và hình thức của Thơ
Mới dƣới nhiều góc độ. Các công trình ít nhiều đều có nhắc tới vấn đề vƣợt
thoát thực tại, tiêu biểu có thể kể tới những công trình sau:
2.1. Những công trình trước năm 1945
Cùng với việc liên tục in Thơ Mới, các báo ở hai miền Bắc - Nam đã
cho đăng các bài “bút chiến” tranh luận thơ cũ - thơ mới, phê bình Thơ Mới.
Trong các bài viết đó, vấn đề cá nhân, cái tôi đƣợc đề cập đến khá sâu sắc.
Qua các bài viết của các tác giả quan trọng nhất nhƣ Tản Đà, Hoài Thanh ở
Tiểu thuyết thứ bảy, Lê Tràng Kiều ở Hà Nội báo, Trịnh Đình Rƣ ở Phụ nữ
tân văn, Thế Lữ, Xuân Diệu ở Ngày Nay… ý thức cá nhân, cái tôi trữ tình
đƣợc nhắc tới ở sự vận động từ thơ cũ sang thơ mới.
Trong giai đoạn này có thể nói, Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài
Thanh, Hoài Chân là một công trình mang tính bao quát và có chiều sâu đối
với Thơ Mới. Với Thi nhân Việt Nam tác giả của nó đã đƣa đến cho ngƣời
đọc một cách tiếp cận thú vị đối với Thơ Mới. Không chỉ tái hiện quá trình
vận động, diện mạo của Thơ Mới, tác giả còn tìm cách lí giải hiện tƣợng Thơ
Mới từ nguyên nhân ra đời cho đến phong cách mỗi nhà thơ. Thi nhân Việt
Nam cho thấy, một trong những nguyên nhân tạo ra Thơ Mới, ngoài những
nguyên nhân về lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học nhƣ lối sống, tƣ tƣởng, tình
cảm thì sự xuất hiện của cái tôi trữ tình đã thể hiện quan niệm cá nhân, tự do
cá nhân của con ngƣời. Đây là một cách tiếp cận Thơ Mới theo hƣớng đi sâu

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 4 Lớp CHVH - K54
vào tâm lí, ý thức con ngƣời lúc bấy giờ. Tác giả khẳng định: “Thơ ta phải
mới, mới văn thể, mới ý tƣởng” [50;24]. Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh
cũng là một trong những ngƣời phát hiện ra sự xuất hiện của cái tôi cá nhân

trong thơ lãng mạn khác với cái ta trong thơ trung đại. Bên cạnh đó, việc
tuyển chọn những tác giả, tác phẩm xuất sắc trong hàng ngàn bài thơ thời ấy
là nguồn tƣ liệu quý giá cho những ngƣời làm công tác nghiên cứu Thơ Mới.
Và đây cũng là nguồn tƣ liệu chính về tác giả, tác phẩm mà luận văn tham
khảo, khảo sát phƣơng thức vƣợt thoát thực tại trong Thơ Mới.
Trong Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan đã đƣa ra ý kiến và
nhận xét về mƣời nhà thơ. Những ý kiến đó đã chứng minh “những áng Thơ
Mới từ những lối thật cũ đến những lối thật mới trong thơ hiện đại” [42; 653].
Vũ Ngọc Phan đề cập đến sự vận động của Thơ Mới trong sự tƣơng quan giữa
thơ cũ và thơ mới.
Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dƣơng Quảng Hàm nêu nguyên
nhân sự ra đời của Thơ Mới. Công trình đã đề cập đến sự hình thành ý thức tự
do của “một lối thơ phá bỏ luật lệ của lối thơ cũ và đã đƣợc mệnh danh là Thơ
Mới” (trang 421). Đây là sự ra đời của một lối thơ: “Các thi gia muốn phá bỏ
các luật lệ nghiêm ngặt ấy để đƣợc tự do diễn tình đạt ý” (trang 421).
Nhƣ vậy, các công trình đều đã đề cập đến cái tôi trữ tình, ý thức cá
nhân trên cơ sở phân định ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới, đồng thời biểu
dƣơng những sáng tạo nghệ thuật của Thơ Mới. Có thể thấy, trƣớc năm 1945
chƣa có công trình nào nghiên cứu phƣơng thức vƣợt thoát thực tại trong Thơ
Mới một cách chuyên biệt, hầu hết chỉ dừng lại ở những nhận xét chung, có
tính khái quát về phong trào Thơ Mới.
2.2. Những công trình từ năm 1945 - 1986
Đây là thời kỳ đặc biệt của lịch sử dân tộc. Trong cuộc kháng chiến, ý
thức dân tộc và trách nhiệm con ngƣời công dân đối với Tổ Quốc đƣợc đặt lên

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 5 Lớp CHVH - K54
hàng đầu. Theo đó, Thơ Mới ít đƣợc nghiên cứu rộng rãi. Nói chung, có nhiều
ý kiến đánh giá khác nhau.
Ở miền Nam, Thơ Mới đƣợc đánh giá cao, đƣợc đƣa vào giảng dạy

trong nhà trƣờng. Các công trình: Việt Nam văn hoc sử giản ước tân biên (TB
1998) của Phạm Thế Ngũ, Văn học sử Việt Nam (1976) của Bùi Đức Tịnh, Từ
Thơ Mới đến thơ tự do (1967) của Bằng Giang, Khuynh hướng thi ca tiền
chiến (1968) của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh… nhìn nhận cái tôi cá nhân
trong cái nhìn tĩnh tại. Cái tôi cá nhận đƣợc đề cập đến ở nhiều phƣơng diện,
tuy có lúc bị hiểu sai lệch.
Ở miền Bắc, do hoàn cảnh lịch sử, việc nghiên cứu Thơ Mới giai đoạn
này còn ít, sự đánh giá chƣa đƣợc thỏa đáng, nhất là về mặt nội dung. Tiêu
biểu nhƣ: Phan Cự Đệ với Phong trào Thơ Mới 1932 - 1945 (1966), Bùi Văn
Nguyên - Hà Minh Đức với Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại (1971).
Với Phong trào Thơ Mới 1932 - 1945, Phan Cự Đệ đã đánh giá Thơ
Mới từ góc nhìn xã hội học. Ở đây, tác giả đã khảo sát Thơ Mới trên nhiều
mặt: lịch sử Thơ Mới, quan điểm mỹ học của các nhà Thơ Mới lãng mạn, con
đƣờng bế tắc của chủ nghĩa cá nhân tƣ sản, yếu tố tích cực và tiến bộ của Thơ
Mới. Phan Cự Đệ cho rằng: “Sự xuất hiện của giai cấp tƣ sản và tiểu tƣ sản
thành thị là nguyên nhân chính làm cho phong trào Thơ Mới ra đời [20;17].
Sự ra đời của phong trào Thơ Mới “là để đáp ứng những nhu cầu tình cảm của
một tầng lớp thanh niên mới” [20;21-22]. Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh
ảnh hƣởng của tƣ tƣởng mỹ học phƣơng Tây hiện đại vào Thơ Mới. Mặc dù
còn nặng về phê phán và phủ nhận, nhƣng với công trình này, Phan Cự Đệ đã
chỉ ra đƣợc mạch ngầm trong tâm thức sáng tạo của mỗi nhà thơ đó là ý thức
tự do sáng tạo, vƣợt khỏi sự gò bó của cuộc sống thực tại, khát vọng cởi trói
thơ ca vƣợt khỏi khuôn khổ thơ ca truyền thống…

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 6 Lớp CHVH - K54
Trong Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại (1971), tác giả Bùi Văn
Nguyên và Hà Minh Đức đã dành nguyên một chƣơng viết về thể thơ, vần
thơ, nhịp điệu của Thơ Mới. Chính “hình thức thơ thích hợp nên trạng thái
cảm xúc và lối cấu tứ của các nhà Thơ Mới phong phú và đa dạng hơn… và

mỗi trạng thái đều mang tính chất cá thể riêng biệt” [38;81]. Đây cũng là biểu
hiện của phƣơng thức vƣợt thoát thực tại trong sáng tạo của nhà thơ.
Ở khía cạnh nào đó, dù không trực tiếp chỉ rõ là vƣợt thoát, nhƣng các
tác giả đã phần nào cho thấy một sự vận động vƣợt khỏi thi pháp thơ ca
truyền thống, những lối thơ, tƣ duy thơ cũ của Thơ Mới. Cho thấy sự vƣợt lên
cái cũ, vƣợt lên truyền thống, vƣợt lên hạn chế của văn hóa để tiếp cận những
tƣ tƣởng, nghệ thuật hiện đại.
2.3. Những công trình từ 1986 đến nay
Hòa bình lập lại, tƣ tƣởng và những giá trị của văn học lãng mạn đã
đƣợc nhìn nhận đánh giá lại một cách khách quan, khoa học hơn, trong đó có
phong trào Thơ Mới. Nhiều công trình nghiên cứu, các chuyên luận riêng về
Thơ Mới ra đời: Lê Đình Kị, Thơ Mới những bước thăng trầm (1989); Đỗ Lai
Thúy, (1992); Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, (1997),
Chuyên luận, NXB Giáo dục; Hà Minh Đức, Một thời đại trong thi ca (1997);
Trần Đình Sử, Văn học và thời gian (2002)…
Con mắt thơ của Đỗ Lai Thúy đặt ra vấn đề ý thức cá nhân trong Thơ
Mới. Có thể nói Con mắt thơ là một công trình nghiên cứu phong cách các
nhà Thơ Mới bằng con đƣờng thi pháp học và nó đã thực sự mang lại những
phát hiện mới. Theo tác giả: “Thơ Mới là tiếng nói của tầng lớp trí thức đô thị
mới xuất hiện” [55;12] và sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân, của cái tôi cá
nhân… là một biểu hiện, một giai đoạn của cái tôi Việt Nam trên “hành trình
đau khổ” của nó” [55;12]. Phƣơng thức vƣợt thoát thực tại ở đây đƣợc đề cập
đến ở phƣơng diện ngôn từ, hình tƣợng thơ hay ở nội dung biểu hiện. Ông cho

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 7 Lớp CHVH - K54
rằng mô hình về thế giới của các nhà thơ mới dựa vào sự lựa chọn của họ. Đó
là sự lựa chọn con đƣờng giải thoát cô đơn, tình yêu và tuyệt vọng, những
khắc khoải siêu hình… Trên cơ sở đó, Đỗ Lai Thuý phát hiện chiều sâu của
cái nhìn nghệ thuật của các nhà Thơ Mới, phát hiện quan niệm về con ngƣời

của thơ mới ở chiều kích tâm linh, cũng nhƣ dựng lại cấu trúc cảm hứng
của các thi sĩ. Đây là một công trình nghiên cứu đem lại nhiều gợi ý để chúng
tôi tiếp cận đề tài.
Tác giả Lê Đình Kỵ trong Thơ Mới những bước thăng trầm cho rằng,
Thơ Mới tôn thờ cá nhân, “mới không chỉ ở hình thức, ở thể cách, mà ở cảm
hứng, ở nội dung” [25;38] và “tự do cá nhân mới lạ nên càng thấy quý, thấy
đời dù sao cũng đáng sống đáng quý” [25;42]…
Tác giả Hà Minh Đức đã tập hợp trong Một thời đại trong thi ca rất
nhiều bài viết về một số tác giả tiêu biểu rong phong trào Thơ Mới nhƣ: Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Vũ
Hoàng Chƣơng. Tác giả cho rằng, “Thơ Mới là tiếng nói thơ ca trăn trở để tìm
đến sự giải phóng bản ngã, nhân tố trọng yếu tạo nên cá tính trong đời, trong
thơ” [17;30-31]. Những bài viết này đã đề cập đến ý thức tự do của thi nhân
trên phƣơng diện nội dung: tình yêu quê hƣơng đất nƣớc, giá trị nhân bản và
thơ tình lãng mạn. Tác giả khẳng định “Thơ Mới đã đem thơ về gần với mạch
suy nghĩ gần gũi của mọi ngƣời, con ngƣời trong cuộc sống hàng ngày đang
vui buồn, yêu đƣơng, mong ƣớc” [17;54]. Ở đây, tác giả đã đi sâu thể hiện
khát vọng của cái tôi cá nhân, sự tự do bản ngã của con ngƣời.
Văn học và thời gian của Trần Đình Sử nhấn mạnh sự đổi mới của
ngôn ngữ thơ, gắn với ngữ điệu của con ngƣời hiện đại. Với công trình này,
tác giả khẳng định, ngôn ngữ tự do có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo tâm
thế sáng tạo cho thơ ca. Chính ngôn ngữ Thơ Mới “cho phép nhà thơ tự biểu
hiện mình toàn vẹn và đầy đặn hơn, thành thực hơn, tự do hơn. Sức dung

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 8 Lớp CHVH - K54
chứa của nhãn quan thơ này rất lớn” [50;103]. Vấn đề khát cọng tự do đƣợc
tác giả đề cập đến, đó là “khát vọng” cởi trói cho thơ ca… khát vọng biểu
hiện cái tôi đã đƣợc ý thức” [50;104]. Tác giả còn cho rằng: “Thơ Mới đã
đem lại câu thơ tự do, giải phóng khỏi niêm, đối, bằng trắc định sẵn. Câu thơ

mới chủ yếu lấy giọng điệu, ngữ điệu lời nói tự nhiên làm nền tảng” [50;
316]. Đó là biểu hiện của phƣơng thức vƣợt thoát trên phƣơng diện hình thức.
Ngoài những công trình nói trên còn phải kể đến những chuyên luận đi
sâu vào những bình diện khác nhau của Thơ Mới thể hiện cảm hứng vƣợt
thoát ở các góc cạnh khác nhau: ở cái tôi trữ tình luôn muốn vƣợt ra khỏi
hoàn cảnh, khỏi ràng buộc của truyền thống; ở những phong cách riêng, độc
đáo của mỗi nhà thơ, ở hình thức thể hiện, trong ngôn từ và ý tứ thơ: Ba đỉnh
cao Thơ Mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử (2003) của Chu Văn;
Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ 20 của tác giả Mã Giang Lân;
Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca của Vũ Tuấn Anh (Tạp
chí Văn học số 1/1996); Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính trước cách
mạng tháng Tám (Đoàn Đức Phƣơng, Tạp chí Văn học, số 10/1996) và Huy
Cận với sự cảm nhận thời gian (Trần Khánh Thành, Tạp chí Văn học, số
10/1996)…
Ngoài ra, còn có một số luận án nghiên cứu về Thơ Mới trong hơn
mƣời năm trở lại đây. Đó là: Thơ tình Xuân Diệu (1994) của Lƣu khánh Thơ,
Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám - 1945 (1995) của Lí Hoài Thu,
Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8 - 1945 (1998)
của Lê Quang Hƣng, Bản sắc thơ Nguyễn Bính trước cách mạng tháng 8 -
1945 (1998) của Đoàn Đức Phƣơng, Kết cấu thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại
hình) (1999) của Phan Huy Dũng, Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên
(1999) của Hồ Thế Hà, Quan niệm nghệ thuật qua các tác phẩm của các nhà
thơ thuộc phong trào Thơ Mới 1932 - 19445 (1999) của Nguyễn Thị Hồng

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 9 Lớp CHVH - K54
Nam, Thi pháp thơ Huy Cận (2001) của Trần Khánh Thành, Thơ Mới nhìn từ
góc độ văn hóa - văn học (2007) của Hoàng Thị Huế, Ý thức tự do trong
phong trào Thơ Mới (2008) của Đặng Thị Ngọc Phƣợng…
2.4. Kết luận

Qua các công trình nghiên cứu về Thơ Mới, có thể thấy, Thơ Mới đƣợc
nghiên cứu chuyên sâu trên nhiều mặt: quá trình hình thành và phát triển,
những cách tân về hình thức, nội dung và nghệ thuật; các nguồn ảnh hƣởng
đến Thơ Mới (văn học Pháp, thơ Đƣờng, thơ ca dân tộc), cái tôi cá nhân,
phong cách nghệ thuật của các tác giả, hạn chế cũng nhƣ những đóng góp của
Thơ Mới trong tiến trình hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Những công trình trên
chú ý đến những bƣớc thăng trầm của Thơ Mới, cho thấy việc nghiên cứu
Thơ Mới đang cần một cách tiếp cận mới nhằm phát hiện những tầng nghĩa
sâu hơn.
Tuy các công trình trên chƣa có công trình nào đề cập đến Thơ Mới về
phƣơng thức vƣợt thoát thực tại một cách cụ thể, chuyên biệt, coi đó nhƣ là
cảm hứng chủ đạo trong sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ, một vấn đề của lí luận
văn học, nhƣng đó là những gợi ý quý báu để chúng tôi vận dụng, tiếp cận
vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống.
Với kiến thức và năng lực còn hạn hẹp, chúng tôi mong muốn kế thừa
các ý kiến của những ngƣời đi trƣớc, tổng kết và có một số ý kiến bổ sung
nhằm tạo nên một bức tranh tổng quát về Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945. Hy
vọng luận văn thể hiện sự đánh giá mang tính khách quan và khoa học về một
vấn đề của một thời kỳ văn học đã qua.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Phong trào Thơ Mới là một hiện tƣợng văn học phức tạp, có thể nghiên
cứu phong trào Thơ Mới dƣới nhiều góc độ: lịch sử (sự hình thành và phát
triển của Thơ Mới); thể loại; ảnh hƣởng của văn hóa, văn học phƣơng Tây;

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 10 Lớp CHVH - K54
phƣơng pháp sáng tác; phong cách nghệ thuật… Ở đây, chúng tôi đi sâu
nghiên cứu phƣơng thức vƣợt thoát thực tại tập trung biểu hiện qua phƣơng
diện nội dung và nghệ thuật dƣới góc nhìn lí luận lãng mạn và tâm lí học sáng
tạo văn học của nền thơ lãng mạn 1932 - 1945.

Nghiên cứu vấn đề phƣơng thức vƣợt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt
Nam 1932 - 1945 chúng tôi tiến hành khảo sát các tác phẩm của phong trào
thơ này và tập trung ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu có liên quan đến đề
tài. Tƣ liệu khảo sát chủ yếu là bộ hợp tuyển Thơ mới 1932 - 1945 tác giả và
tác phẩm của Lại Nguyên Ân (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1998) và Thi nhân
Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân. Sở dĩ chọn hai hợp tuyển này, bởi vì
chúng tôi nhận thấy hợp tuyển đã cung cấp một cách khá toàn diện diện mạo
của phong trào Thơ Mới từ các tác giả, tác phẩm điển hình cho đến những tác
giả, tác phẩm ít đƣợc biết đến. Ngoài ra chúng tôi cũng khảo sát thêm ở một
số tuyển tập của các nhà Thơ Mới tiêu biểu khác.
4. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
Tìm hiểu và nghiên cứu phong trào Thơ Mới dƣới góc độ lí luận và
cảm hứng sáng tác về vấn đề vƣợt thoát thực tại và các phƣơng thức vƣợt
thoát cho thấy đƣợc sự khác biệt giữa thơ mới và thơ cũ, thấy đƣợc đóng góp
của các nhà thơ trên phƣơng diện nội dung và nghệ thuật, góp phần khẳng
định giá trị của bộ phận thơ từng chịu nhiều định kiến này. Một mặt, khẳng
định vƣợt thoát thực tại nhƣ một cảm hứng chủ đạo chi phối hệ thống chủ đề,
cũng nhƣ hình tƣợng yêu thích của phong trào Thơ Mới. Vƣợt thoát ở đây
không chỉ đơn thuần là sự vƣợt thoát trƣớc thực tại ngột ngạt của cuộc sống
của cái tôi Thơ Mới, đó còn là vƣợt lên cái cũ, vƣợt lên truyền thống, vƣợt lên
hạn chế của văn hóa để tiếp cận những tƣ tƣởng, nghệ thuật hiện đại. Mặt
khác, cho thấy chính phƣơng thức vƣợt thoát thực tại đã quy định tới tinh

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 11 Lớp CHVH - K54
thần, tƣ tƣởng thẩm mỹ của các nhà Thơ Mới, làm nên giá trị, thành tựu nhất
định của phong trào Thơ Mới trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu sau:

Thi pháp học, phong cách học
Đây là hƣớng tiếp cận chủ yếu của luận văn xét cả về cấu trúc lẫn quá
trình triển khai đề tài. Vận dụng thi pháp học hiện đại và phong cách học để
khảo sát các hình thức nghệ thuật của Thơ Mới, chỉ ra những đặc trƣng nghệ
thuật của một số tác giả nhằm khẳng định những thành công của Thơ Mới
trên phƣơng diện vƣợt thoát thực tại.
Phương pháp tổng hợp liên ngành
Sự kết hợp của nhiều phƣơng pháp nghiên cứu là tính tất yếu của một
công trình khoa học.
Để làm phong phú, sáng tỏ thêm cảm hứng vƣợt thoát trên nhiều
phƣơng diện, chúng tôi vận dụng những yếu tố của các phƣơng pháp nghiên
cứu văn học khác nhƣ: lịch sử xã hội, phƣơng pháp cấu trúc, phƣơng pháp
loại hình, xã hội học, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… để tập trung
xem xét, hệ thống hóa các vấn đề lịch sử nghiên cứu, hình thức thể loại, thể
thơ và tiến hành khảo sát phƣơng thức vƣợt thoát thực tại trong Thơ Mới và
trong dòng chảy chung của thơ ca Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số thao tác, kỹ thuật nhƣ: bình
giảng tác phẩm văn học…
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn của chúng tôi gồm 3 chƣơng chính với các nội dung cụ thể sẽ đƣợc
trình bày nhƣ ở dƣới đây.

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 12 Lớp CHVH - K54
CHƢƠNG 1
PHƢƠNG THỨC VƢỢT THOÁT THỰC TẠI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN
1.1. Thơ Mới trong dòng chảy của chủ nghĩa lãng mạn
1.1.1. Về chủ nghĩa lãng mạn

Lãng mạn đƣợc hiểu theo nghĩa chiết tự là sóng tràn bờ, chỉ một sự
phóng khoáng, tự do, vƣợt lên trên mọi ràng buộc. Xung quanh từ lãng mạn
có rất nhiều thuật ngữ khác nhau mà chủ nghĩa lãng mạn chỉ là một trong số
đó nhƣ: “phƣơng thức lãng mạn”, “hình thái lãng mạn”, “tính chất lãng
mạn” Khái niệm chủ nghĩa lãng mạn là một trong những khái niệm phức tạp
nhất, rối rắm nhất và đƣợc lí giải theo những cách khác nhau nhất trong
nghiên cứu văn học.
Biêlinxki trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa: Chủ nghĩa
lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và
trái tim.
M.Gorki đã viết: Đã có nhiều công thức về chủ nghĩa lãng mạn, nhưng
một công thức chính xác, hoàn toàn đầy đủ và có tầm khái quát, một công
thức mà mọi nhà nghiên cứu lịch sử văn học đều có thể chấp nhận thì cho đến
nay vẫn chưa có, chưa được làm ra.
Có những quan niệm cho lãng mạn là tất cả những gì hoang đƣờng,
khác thƣờng, do trí tƣởng tƣợng tạo ra. Cũng chính vì thế mà văn chƣơng
lãng mạn, một nền văn chƣơng khác với tất cả những gì đã có trƣớc đó
trong nghệ thuật, ở đó trí tƣởng tƣợng bay bổng chiếm vị trí lớn chƣa từng
có, đƣợc gọi là Romantism. Văn học lãng mạn (romanticism) đề cao cá
nhân, tự do sáng tạo, chủ trƣơng phóng túng, không để tâm hồn bị ràng
buộc trong khuôn khổ cũ. Trong tiến trình sáng tác thơ văn, sự tƣởng tƣợng
và tri giác đƣợc đề cao và ngự trị bởi cá thể. Tác gia văn học trở thành

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 13 Lớp CHVH - K54
trung tâm điểm trong việc sáng tác. Các nguyên tắc về khuôn mẫu và kiến
trúc đã có từ trƣớc của thi ca bị vất bỏ để thỏa mãn nhu cầu cần thiết của
bản năng tự nhiên. Ngôn ngữ thơ đƣợc viết tự do và tự nhiên không còn bị
gò bó trong thể luật. Tác phẩm là tiếng lòng đƣợc thể hiện toàn vẹn, triệt để
và vô hạn bằng sự tƣởng tƣợng và xúc động không che dấu, không bị trói

buộc bởi những ƣớc lệ luân lí của xã hội.
Chủ nghĩa lãng mạn ra đời và phát triển từ cuối thế kỉ 18 đến những
năm 30, 40 của thế kỉ 19, đầu tiên hình thành ở Đức, sau đó lan sang Anh,
Pháp, Nga… nhanh chóng phát triển thành phong trào văn học rộng khắp
châu Âu, tạo ra rất nhiều tác giả, tác phẩm có ảnh hƣởng lớn. Đến thế kỉ 19 ở
Pháp, chủ nghĩa lãng mạn phát triển thành một trào lƣu có hệ thống luận
điểm, có phƣơng pháp sáng tác riêng, phổ biến trên mọi lĩnh vực: thơ, kịch,
tiểu thuyết nhƣ trong các tác phẩm của Lamartine, Muyxê, Vigny, V.Hugo
Ra đời trong thời đại quá độ từ hình thái xã hội phong kiến sang hình thái xã
hội tƣ sản, với tất cả những đặc trƣng và hệ lụy của thời quá độ đã in dấu sâu
sắc lên nghệ thuật lãng mạn. Cuộc cách mạng tƣ sản Pháp năm 1789, đánh đổ
chế độ phong kiến, là một bƣớc ngoặt vĩ đại không chỉ đối với Pháp mà còn
đối với cả Châu Âu. Chính sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự hình thành
quan hệ xã hội mới đã tác động sâu sắc đến tƣ tƣởng tình cảm của mọi tầng
lớp trong xã hội.
Sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn có quan hệ mật thiết với tƣ
tƣởng triết học ở châu Âu đƣơng thời. Triết học duy tâm cổ điển Đức bản thân
nó chính là phong trào lãng mạn trong lĩnh vực triết học. Đại biểu của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan Kant, Johann Fichte đƣa tâm hồn con ngƣời lên địa
vị chủ đạo trong sáng tạo thế giới khách quan, nhấn mạnh thiên tài, tình cảm,
tính năng động chủ quan; đại biểu của chủ nghĩa duy tâm khách quan
Schelling, Hegel đề cao vị trí của tinh thần khách quan trong việc phái sinh

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 14 Lớp CHVH - K54
thế giới vật chất, đƣa con ngƣời đến đỉnh cao của sự phát triển tinh thần, cho
rằng con ngƣời không chỉ cho mình mà còn vì mình, trên ý nghĩa cho mình, vì
mình, nhân tài mới là tuyệt đối, tự do, vô hạn. Những điều này đề cao sự tôn
nghiêm của con ngƣời, thức tỉnh dân tộc, thúc đẩy ƣớc muốn, khao khát độc
lập tự do, cung cấp cơ sở lí luận cho chủ nghĩa lãng mạn trong văn học.

Mặt khác, sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn cũng có cội nguồn từ
kinh nghiệm lịch sử và đấu tranh trong bản thân văn học. Văn học cảm
thƣơng chủ nghĩa Anh thế kỉ 18, yêu cầu giải phóng cá tính, chủ trƣơng tự do
tình cảm, quay trở lại tự nhiên thuần phác của Rousseau, nhấn mạnh cá tính,
sắc thái tình cảm mãnh liệt trong phong trào cách tân với đại biểu là Goethe,
nghiên cứu về tính bi kịch, ngợi ca, vẻ đẹp đăng đối của Kant, Schiele; sự
thƣởng thức nghệ thuật bắt đầu bằng việc đặt nghệ thuật trong dòng phát triển
lịch sử của Herder, Hegel… tất cả đã kích hoạt tƣ tƣởng của con ngƣời, làm
cho cảm nhận, lí giải của con ngƣời đối với nghệ thuật trở nên sâu sắc hơn, từ
đó yêu cầu nghệ thuật biểu hiện tinh thần vĩ đại và tƣ tƣởng tình cảm một
cách sâu sắc… Tất cả những điều này đều có vai trò quan trọng đối với sự
hình thành chủ nghĩa lãng mạn.
Chủ nghĩa lãng mạn chia làm hai khuynh hƣớng: chủ nghĩa lãng mạn
tiêu cực và chủ nghĩa lãng mạn tích cực.
Trƣớc hết, chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực là sự phản ánh ý thức hệ của
giai cấp bị Cách mạng tƣ sản tƣớc đoạt quyền lợi và đẩy ra khỏi đời sống
chính trị. Những nhà văn lãng mạn xuất thân từ tầng lớp quý tộc thƣờng tìm
tới thời Trung cổ, thời hoàng kim của chế độ phong kiến, hƣớng tới lí tƣởng
về cuộc sống đẹp đẽ êm đềm của thời xƣa cũ. Vì thế họ thƣờng có thái độ bi
quan trốn chạy cuộc đời, họ thƣờng tìm về quá khứ, mộng ảo hay thu mình
vào “cái tôi” bí ẩn, thiên định về cuộc đời, về tình ái, về cái chết. Khuynh

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 15 Lớp CHVH - K54
hƣớng lãng mạn tiêu cực này mơ ƣớc khôi phục lại chế độ cũ và đức tin đối
với nhà thờ để truyền bá thuyết thần bí về thế giới.
Ngƣợc lại, chủ nghĩa lãng mạn tích cực gắn liền với tâm trạng quần
chúng nhân dân đang bất mãn trƣớc những hệ quả của cuộc Cách mạng tƣ sản
Pháp. Nhƣng họ cũng mơ ƣớc một tƣơng lai tốt đẹp hơn thực tại mà họ đang
sống, nơi đó con ngƣời đƣợc giải phóng khỏi mọi áp bức bất công. Chủ nghĩa

lãng mạn tích cực chịu sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng chủ nghĩa xã hội không
tƣởng, họ nhìn vào chiều hƣớng của sự phát triển thực tại, nhƣng thực tế họ
đã đi trƣớc sự phát triển của thực tại. Những nhà văn lãng mạn không hòa
hoãn thỏa hiệp với thực tại mà họ mong muốn thiết lập nên một xã hội mới
bảo đảm hạnh phúc cho con ngƣời và thƣờng vẽ nên một xã hội lí tƣởng.
Có thể nói chủ nghĩa lãng mạn ra đời đã đƣa nền văn học thế giới
chuyển sang một bƣớc ngoặt mới, là mảnh đất màu mỡ để ngƣời nghệ sĩ thỏa
sức bộc lộ tài năng của mình.
1.1.1.1. Nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa lãng mạn
Xuất phát từ thái độ chán ghét cuộc sống thực tại, nghệ sĩ lãng mạn tự
cho mình đứng trên hoàn cảnh, hình tƣợng nghệ thuật xây dựng dựa trên ý
muốn chủ quan của nghệ sĩ. Bởi thế, nguyên tắc đầu tiên của chủ nghĩa lãng
mạn là chối từ thực tại. Các chi tiết cụ thể, chân thực, sinh động đều bị đẩy
xuống bình diện thứ yếu, cốt lõi là dụng công vào việc xây dựng nhân vật lí
tƣởng.
Thời đại lãng mạn chính là thời đại cách mạng, thời đại của những hi
vọng lớn và thất vọng lớn. Thời đại mà cái cũ đang mất đi, cái mới manh nha
hình thành mỗi con ngƣời đều thấy mình lạc lõng, bơ vơ, không biết tin
tƣởng, bấu víu vào đâu. Thành công của cuộc cách mạng tƣ sản mang lại ánh
sáng mới cho con ngƣời, nhƣng kéo theo đó là cuộc sống thực dụng, đồng tiền
là trên hết, tình ngƣời nhạt nhòa. Nghệ sĩ là những ngƣời có trái tim nhạy

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 16 Lớp CHVH - K54
cảm, họ không thể chấp nhận đƣợc cuộc sống ấy, vì vậy họ quay lƣng lại với
thực tại. Và mỗi nghệ sĩ lãng mạn có cách chối bỏ, phản kháng thực tại theo
cách riêng của mình. Ngƣời thì tìm về với quá khứ, nâng niu trân trọng những
giá trị của một thời, kẻ thì đắm chìm trong cuộc sống tiên cảnh, ngƣời lại mải
miết đi tìm những điều phi thƣờng, khác lạ ngay trong chính thực tại để mong
muốn cải tạo xã hội. Đó chính là những khát vọng của chủ nghĩa lãng mạn,

hƣớng đến cái đẹp, cái cao cả, là sự phản ứng lại trƣớc chiến thắng của lối
sống thực dụng trong cuộc sống lúc bấy giờ sau cách mạng tƣ sản. Chính bởi
thế mà hình tƣợng nhân vật lí tƣởng xuất hiện chói lọi, là nơi nghệ thuật lãng
mạn kí thác ký thác nhiều nhất những khát khao hƣớng thiện, nơi kết tinh, hội
tụ đầy đủ những hình dung tốt đẹp nhất dù có phần không tƣởng của nghệ sĩ
lãng mạn về nhân loại.
Tự do bay lƣợn trong nghệ thuật là một trong những nguyên tắc quan
trọng của chủ nghĩa lãng mạn. Tách mình ra khỏi cảnh đời thực, chủ trƣơng
nghệ thuật chỉ vị nghệ thuật, nên nghệ thuật lãng mạn chọn hình thức làm cứu
cánh của mình. Vấn đề tự do cá nhân, tự do sáng tác là vấn đề bậc nhất của
họ. Họ từ chối đơn đặt hàng của xã hội, chỉ nhận đơn đặt hàng của trái tim.
Đồng thời, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện tâm thế của con ngƣời đƣợc giải
phóng ra khỏi chế độ phong kiến, trở thành một chủ thể của xã hội mới, trở
thành con ngƣời cá nhân tồn tại với biên độ tự do rộng rãi hơn hẳn so với quá
khứ phong kiến. Chủ nghĩa lãng mạn tự khẳng định với những chủ đề mới lạ
mà chủ nghĩa cổ điển, vốn thƣờng đặt mình trong khuôn khổ lí trí, không đề
cập đến. Đó là sự nổi trội vƣợt bậc của tình cảm, cảm tính và sự tƣởng tƣợng.
Chủ nghĩa lãng mạn đề cao thế giới nội tâm của con ngƣời, thể hiện những
khuynh hƣớng tự do cá nhân. Họ đã miêu tả những yếu tố khác thƣờng của
thế giới tình cảm và yếu tố trữ tình trong nghệ thuật. Các chủ đề về tình yêu,
nỗi cô đơn, nỗi buồn, những lí tƣởng không đạt đƣợc, đƣợc sử dụng rộng rãi

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 17 Lớp CHVH - K54
trong nghệ thuật lãng mạn. Họ làm phong phú cho nghệ thuật bằng những
hình tƣợng, những chủ đề mới và xác nhận nhân vật mới không phải là cá
nhân hài hòa với tập thể nhƣ con ngƣời trong thời đại ánh sáng. Song ngƣời
nghệ sĩ lãng mạn không phải là ngƣời chỉ biết ƣớc mơ, mà thực tế xã hội đã
thức tỉnh ngƣời nghệ sĩ tình cảm yêu nƣớc, yêu ngƣời tha thiết và sự phản đối
với mọi bất công. Trong tác phẩm họ đã đề cập đến các chủ đề có liên quan

đến cuộc đấu tranh của nhân dân, đến quá khứ anh hùng, đến các sự kiện và
những chiến công anh dũng của nhân dân. Nói chung, chủ nghĩa lãng mạn là
dòng nghệ thuật tiến bộ, khai sinh ra những đặc trƣng thi pháp mới đặc sắc.
Chủ nghĩa lãng mạn cho rằng nghệ thuật không phải là tấm gƣơng phản
chiếu đƣờng đời, mà chỉ là phƣơng tiện bộc lộ tâm trạng, do đó nguyên tắc
sáng tác của họ là điển hình hóa tâm trạng. Nếu chủ nghĩa cổ điển chủ trƣơng
hạn chế cảm hứng, thì nghệ thuật lãng mạn lại vung tay thao túng cảm hứng
đến mức tùy hứng. Họ nhấn mạnh tính cách, cá tính chứ không chủ trƣơng
tìm mối quan hệ biện chứng giữa tính cách và hoàn cảnh. Bởi vậy, chủ nghĩa
lãng mạn không có tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Họ đề cao
tâm trạng con ngƣời, xây dựng những cá tính riêng biệt, độc đáo. Khát vọng
nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn hƣớng đến cái cao cả, cái đẹp của thế giới
tâm hồn con ngƣời, đối lập với cuộc sống thực dụng lúc bấy giờ.
1.1.1.2. Đặc trưng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn
Nhìn một cách tổng quát, đặc trƣng thi pháp chủ nghĩa lãng mạn đƣợc
thể hiện rõ nét qua một số phƣơng diện chủ yếu. Trƣớc hết, về đề tài, chủ
nghĩa lãng mạn tích cực với chủ tƣớng là Victor Hugo đã chủ trƣơng mở rộng
đề tài. Không phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn. Nếu trong chủ nghĩa cổ
điển đề tài là cảnh sống giàu có, hành động đấu tranh cho lí tƣởng cao cả của
những ông hoàng bà chúa, hầu nhƣ không đề cập đế những khía cạnh đời
sống của những tầng lớp dƣới những ngƣời bình dân thì ở chủ nghĩa lãng mạn

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 18 Lớp CHVH - K54
mọi vấn đề của cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đều ngang nhau trở
thành đề tài cho văn học nghệ thuật.
Các chủ đề về tình yêu, nỗi cô đơn, nỗi buồn, những lí tƣởng không
đạt đƣợc… đƣợc sử dụng rộng rãi trong nghệ thuật lãng mạn. Những đề tài
quan trọng và quen thuộc của văn học lãng mạn bắt nguồn từ cảm thức về
thời đại, về lịch sử, về thân phận con ngƣời. Trong đó, con ngƣời thất vọng,

bàng hoàng trƣớc những cơn lốc lịch sử, trƣớc sự trôi chảy của dòng đời, về
định mệnh, về tôn giáo… Vậy nên các nhà văn lãng mạn thƣờng hoài niệm
quá khứ. Điều này gợi nhớ, đúng nhƣ bản chất của chủ nghĩa lãng mạn, là
cần tôn vinh những gì không thể trở lại, cần ƣu ái những gì không thể thấu
hiểu Do đó, sự cô đơn của những tâm hồn lãng mạn thất vọng trƣớc thời
cuộc là một đề tài đƣợc nhiều nhà văn nói đến. Cũng vì thế mà chủ nghĩa
lãng mạn luôn đề cao cái tôi tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Chƣa bao giờ trong
văn học, cái tôi cá nhân lại đƣợc tập trung mô tả, phân tích sâu sắc nhƣ ở
trào lƣu văn học này.
Đối với những nhà lãng mạn, thiên nhiên cũng là đề tài quan trọng.
Khung cảnh thiên nhiên phơi bày trƣớc hết cho chính con ngƣời: mùa
thu và cảnh tà dương từ đó đã là hình ảnh của cuộc đời về chiều, trong
khi ngọn gió rền và cây sậy biết thở than tƣợng trƣng cho cảm xúc của nhà
thơ. Thiên nhiên sau cùng là nơi chốn nghỉ ngơi và tĩnh tâm.
Chủ nghĩa lãng mạn còn thể hiện tính dân tộc qua việc chủ trƣơng khai
thác đề tài lịch sử của dân tộc mình (Nhà thờ Đức bà Paris của Victor Hugo,
Aivanho của Walter Scott…). Trong các tác phẩm, họ đã đề cập đến các chủ
đề có liên quan đến cuộc đấu tranh của nhân dân, đến quá khứ anh hùng, đến
các sự kiện và những chiến công anh dũng của nhân dân. Điều đó cho thấy,
ngƣời nghệ sĩ lãng mạn không phải là ngƣời chỉ biết có ƣớc mơ, mà thực tế xã
hội đã thức tỉnh ngƣời nghệ sĩ tình cảm yêu nƣớc tha thiết và sự phản đối với

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 19 Lớp CHVH - K54
mọi bất công. Ngoài ra, chủ nghĩa lãng mạn còn rất đề cao tính trữ tình trong
sáng cũng nhƣ rất coi trọng thiên nhiên, coi trọng văn học dân gian. Nói
chung, mọi sự quy định, ràng buộc của chủ nghĩa cổ điển đến chủ nghĩa lãng
mạn đều bị phá vỡ.
Chủ nghĩa lãng mạn sử dụng rộng rãi các thể loại trữ tình (thơ trữ tình,
tiểu thuyết, kịch), trong đó tiểu thuyết là thể loại đƣợc sử dụng nhiều nhất.

Trƣớc hết, thơ là thể loại mà văn chƣơng lãng mạn luôn luôn tìm đến. Bởi đó
là mảnh đất màu mỡ có khả năng nhiều nhất trong việc giải bày, bộc lộ cái tôi
muôn màu của chủ thể. Trong thơ luôn xuất hiện cái tôi chủ thể với tƣ cách là
trung tâm vũ trụ, là nguồn thi tứ, là nhu cầu đƣợc tự biểu hiện, nhu cầu đƣợc
tận hƣởng, đƣợc chia sẻ những u uất, nhu cầu đƣợc hƣởng hạnh phúc riêng tƣ.
Chính nhu cầu này làm cho ngôn ngữ thơ gần gũi với ngôn ngữ đời thƣờng,
nó bớt đi rất nhiều những tƣợng trƣng, sáo mòn, ƣớc lệ. Thơ ca lãng mạn đã
kế thừa thi pháp của thơ ca cổ điển. Nhƣng bên cạnh sự kế thừa đó, nó còn có
sự cách tân tạo thành những qui luật chung của thi ca khuynh hƣớng văn học
lãng mạn.
Về nhân vật, có thể thấy rõ nhân vật lãng mạn chính là cái tôi cá nhân
tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao cái tôi cá nhân trong
phƣơng thức nhận thức và thể hiện cuộc sống bằng hình tƣợng; lấy cái chủ
quan để thay thế hoặc lấn át cái khách quan, lấy mộng tƣởng thay thế cho
thực tế, lấy cái ngẫu nhiên, cá biệt thay cho qui luật. Cái tôi đƣợc các nhà
lãng mạn phân tích ở khía cạnh đặc thù, độc đáo với niềm kiêu hãnh riêng
trong khi khẳng định những quyền hạn cá nhân cao cả. Sự vƣợt trội của cái
tôi diễn ra dƣới nhiều hình thức đa dạng. Nhân vật lãng mạn là những nhân
vật mới không phải là cá nhân hài hòa với tập thể nhƣ con ngƣời trong thời
đại Ánh sáng. Nhân vật lãng mạn là những nhân vật nổi loạn chống đối với
thực tại tƣ sản tầm thƣờng. Họ là những ngƣời thực hiện các suy tƣởng lãng

Phương thức vượt thoát thực tại trong Thơ Mới Việt Nam 1932 - 1945
Nguyễn Thị Trang Nguyên 20 Lớp CHVH - K54
mạn, các phản kháng lãng mạn. Các thái độ lãng mạn thƣờng giống nhau:
nặng chất suy tƣởng, thiên về đời sống tình cảm, cô đơn và u sầu, xa cách và
nổi loạn, không thỏa hiệp đƣợc với thực tại cuộc đời, thƣờng có kết thúc
mang tính bi kịch.
Mặt khác, chủ nghĩa lãng mạn luôn hƣớng về và truy tìm lí tƣởng với
tinh thần vƣợt lên trên hiện thực, dùng lí tƣởng chủ quan thay thế hiện thực

khách quan, dốc toàn lực để biểu hiện một viễn cảnh cuộc sống mà con
ngƣời nên có. Nhân vật trung tâm trong văn học lãng mạn là loại hình nhân
vật lí tƣởng, có nhân cách cao thƣợng. Nhân vật lãng mạn không tìm thấy
chỗ đứng của mình trong sự hoà giải với xã hội. Nó vĩnh viễn xa lạ với thế
giới xung quanh.
Nghệ thuật trong chủ nghĩa lãng mạn đƣợc sử dụng phong phú, đặc sắc,
độc đáo. Chẳng hạn nhƣ các biện pháp tƣơng phản, cƣờng điệu, lí tƣởng
hóa… Trong đó, nghệ thuật tƣơng phản nhƣ một biện pháp nghệ thuật chính
yếu, hệ thống và nhất quán trên nhiều phƣơng diện của tác phẩm.
Cái tƣơng phản đƣợc gắn liền với thủ pháp cƣờng điệu, phóng đại, của
các yếu tố phi thƣờng trong tính cách và hoàn cảnh để đẩy nhân vật tới mức
siêu phàm, trác tuyệt trở thành một hệ thống thi pháp đƣợc chủ nghĩa lãng
mạn xem nhƣ nguyên tắc trong sáng tạo nghệ thuật. Chủ nghĩa lãng mạn quan
niệm: Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật.
Bên cạnh đó, độc thoại nội tâm cũng là thủ pháp nghệ thuật đặc trƣng
mà Chủ nghĩa lãng mạn sử dụng để xây dựng nên những nhân vật lí tƣởng.
Nhân vật trong văn chƣơng lãng mạn đƣợc mô tả nội tâm dày dặn, đa dạng
với cƣờng độ cảm xúc mãnh liệt. Mặt khác, ngôn từ của nghệ thuật lãng mạn
là những từ ngữ giàu tính biểu cảm, tràn đầy cảm xúc, đó là những ngôn từ
mỹ lệ với một giọng điệu trang trọng, hùng biện.

×