Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ NGOẠI TỆ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 – 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.63 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN
KHOA KINH TẾ
MÔN: CHUYÊN ĐỀ CHUYÊN NGHÀNH
ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ NGOẠI TỆ
ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2010 – 2014
Giáo viên hướng dẫn:
Trần Trọng Tín
Sinh viên thực hiện:
Lê Thị Kim Ngân
MSSV: 1254020016
Lớp: Đại học Kế Toán
Khóa 5
Hậu Giang, tháng 3 năm 2015
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
MỤC LỤC
DANH MỤC BIỂU BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
2.1 Tỷ giá ngoại tệ trong giai đoạn 2010 -2014 7
DANH MỤC HÌNH
Số hiệu hình vẽ Tên Trang
1 Số liệu xuất nhập khẩu Việt nam trong giai
đoạn 2010 - 2014 5
2 Thống kê Kiều hối trong giai đoạn 2010 -
2014 6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Việt Nam đã mất 11 năm để chuẩn bị gia nhập WTO, bao gồm 8 năm đàm phán.
Ban Công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam được thành lập ngày
31/1/1995 và đã gặp nhau 14 lần kể từ tháng 7/1998 tới tháng 10/2006. Và Việt
Nam gia nhập WTO chính thức năm 2006, là thành viên thứ 150. Từ sự kiện


này có thể nhận ra những ảnh hưởng lớn trên cả cấp vĩ mô và vi mô đối với Việt
Nam.
Đây cũng là việc chính thức đánh dấu công cuộc cải cách kinh tế của nước ta
bằng những lợi ích lớn nhất mà Việt Nam có được từ hội nhập là mở rộng thị
trường xuất khẩu thuận lợi cho Việt Nam, như việc xuất khẩu hàng hóa: gạo,
hàng nông sản, may mặc và giày dép trong thị trường cạnh tranh kinh doanh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cũng như giữa nước ta với các nước trên
thế giới.
Tạo bước chuyển mới cho đất nước vốn có nền kinh tế đang phát triển (nghèo)
bằng nhiều cơ hội lớn như phát triển về thương mại, tăng cường thu hút FDI,
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh cải cách kinh tế trong nước và
xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh.
Tỷ giá ngoại tệ là một biến số vĩ mô, ra đời bởi các hoạt động ngoại thương và
cũng tác động mạnh mẽ đến hoạt động xuất nhập khẩu, cán cân thương mại của
mỗi quốc gia, trong đó có Việt nam. Song song đó, tỷ giá ngoại tệ cũng chịu ảnh
hưởng bởi sự chênh lệch lạm phát, mức độ tăng (giảm) thu nhập, mức chênh
lệch lãi suất, những kỳ vọng về tỷ giá hối đoái trong tương lại, cũng như sự can
thiệp của chính sách tỷ giá của mỗi quốc gia.
Hiện tại, với nền kinh tế mở cửa của Việt thì lượng ngoại tệ từ hoạt động xuất
khẩu hàng hóa, từ kiều hối ngày càng tăng. Cũng đồng nghĩa, sự ảnh hưởng của
tỷ giá ngoại tệ ngày càng lớn, tác động tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế
nước ta. Có thể ví tỷ giá ngoại tệ là con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế hiện tại,
bởi nó có thể giúp nền kinh tế phát triển hơn nhưng nếu không có những khống
chế nhất định thì chính con dao hai lưỡi này sẽ gây ảnh hưởng trầm trọng đến
nền kinh tế.
Vì vậy để nghiên cứu vấn đề này, tác giả quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng
của tỷ giá ngoại tệ đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010 - 2014”
Nhưng vì thời gian có hạn nên tác giả chỉ đề cập đến tác động của sự thay đổi tỷ
giá giữa USD và VND đến nền kinh tế trong giai đoạn 2010 – 2014 nói chung,
và hoạt động xuất nhập khẩu, kiều hối nói riêng.

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của tác giả ở chủ đề này là sự ảnh hưởng của tỷ giá ngoại tệ lên nền
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2014
2.2. Mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất là thực trạng tình hình các hoạt động thu về ngoại tệ như: xuất nhập
khẩu hàng hóa, kiều hối để xác định lượng ngoại tệ trao đổi giữa nước ta với các
nước trên thế giới, cụ thể là giữa USD và VND.
Thứ hai là từ thực trạng đó, tác giả sẽ phân tích sự tác động của tỷ giá đến lượng
ngoại tệ thu chi từ việc xuất nhập khẩu hàng hóa, kiều hối. Cũng như sự ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực của tỷ giá như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam.
Cuối cùng tác giả sẽ nêu ra những giải pháp thích hợp cho những ảnh hưởng
xấu của tỷ giá ngoại tệ đối với nền kinh tế Việt Nam
3. Giới hạn nghiên cứu
3.1. Nội dung nghiên cứu:
Tác giả chú trọng nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tỷ giá USD/VND lên nền
kinh tế của nước ta. Từ những số liệu ngoại tệ thu vào và chi ra có bởi các hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa, kiều hối, sau quá trình phân tích sẽ nêu rõ ảnh
hưởng của tỷ giá đối với nền kinh tế, cuối cùng sẽ nêu ra những giải pháp thích
hợp.
3.2. Thời gian nghiên cứu:
Từ ngày 28/3/2015 – đến ngày 12/3/2015
3.3. Vùng nghiên cứu:
Thành phố Cần Thơ
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1.1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.1.1 Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Kiều hối:

Về cơ bản, kiều hối là tiền của người Việt lao động tại nước ngoài gửi về Việt
Nam. Cụ thể hơn theo định nghĩa của IMF thì có thể chia kiều hối làm 3 loại
sau: tiền do người Việt Nam xuất khẩu lao động gửi về gia đình, họ hàng trong
nước; khoản tiền bồi thường cho người lao động hoặc lương thưởng dưới dạng
tiền hoặc tương đương trả cho cá nhân làm việc ở nước ngoài; và tiền do Việt
Kiều sinh sống tại các quốc gia họ tị nạn gửi về. [1]
1.1.1.2. Kinh doanh xuất nhập khẩu:
Đây là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán.
Sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và
phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá
riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Vậy xuất khẩu là việc bán hàng hoá (hàng hoá có thể là hữu hình hoặc vô hình)
cho một nước khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm đồng tiền thanh toán. Tiền tệ có
thể là tiền của một trong hai nước hoặc là tiền của một nước thứ ba (đồng tiền
dùng thanh toán quốc tế). [2]
1.1.1.3. Tỷ giá – Tỷ giá hối đoái – Tỷ giá ngoại tệ:
Khái niệm về tỷ giá:
Tỷ giá chính là giá cả của một đơn vị tiền tệ một được biểu hiện bằng số lượng
đơn vị tiền tệ của nước khác hay là bằng số lượng ngoại tệ nhận được khi đổi
một đơn vị nội tệ hoặc bằng số lượng nội tệ nhận được khi đổi một đơn vị ngoại
tệ.
Tỷ giá hối đoái còn được định nghĩa ở khía cạnh khác ,đó là quan hệ so sánh
giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau . Một đồng tiền hay một lượng đồng tiền
nào đó đổi được bao nhiêu đồng tiền khác được gọi là tỷ lệ giá cả trao đổi giữa
các đồng tiền với nhau hay gọi tắt là tỷ giá hối đoái hay ngắn gọn là tỷ giá .Như
vậy ,trên bình diện quốc tế ,có thể hiểu một cách tổng quát : tỷ giá hối đoái là tỷ
lệ giữa giá trị của các đồng tiền so với nhau. [3]
Phương pháp yết giá:
Theo tập quán kinh doanh tiền tệ, tỷ giá hối đoái thương được yết giá theo hai
phương pháp sau:

Phương pháp yết giá trực tiếp: lấy ngoại tệ làm đơn vị so sánh vơi đồng tiền
trong nước.
Phương pháp yết giá gián tiếp: lấy tiền trong nước làm đơn vị so sánh với tiền
nước ngoài.
Phân loại:
Căn cứ vào ý nghĩa và tác động của tỷ giá hối đoái thì chia làm 3 loại:
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: là tỷ giá hối đoái được công bố trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Mức tỷ giá hối đoái này được xác định dựa trên mức tỷ giá
hối đoái do Ngân hàng Nhà Nước xác định.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đc sử dụng phổ biến trong các hợp đồng mua bán
thương mại, thanh toán tín dụng, hợp tác đầu tư và là mức tỷ giá được sử dụng
trong việc phân tích tác động của tỷ giá đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia,
cũng như khu vực và toàn bộ nền kinh tế thế giới.
Tỷ giá hối đoái thực tế: là loại tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều hành chính
sách của Chính Phủ trong việc kiểm soát tiền tệ và điều hành thị trường ngoại
hối, được xác định dựa trên mức tỷ giá hối đoái danh nghĩa và mức chỉ số giá
trong nước và chỉ số giá quốc tế.
Tỷ giá hối đoái thục tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa × chỉ số giá quốc tế / tỷ số
giá trong nước
Chỉ số giá(%)= Tỷ lệ lạm phát (%) + 100%
Tỷ giá hối đoái ngang giá sức mua: được xác định bằng tỷ lệ giữa giá trị (chi phí
sản xuất, giá thành hoặc giá cả) của cùng một lượng hàng hóa đó tính bằng đồng
ngoại tệ ở thị trường nước ngoài.
Để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia và xuất khẩu thì mức tỷ giá hối
đoái danh nghĩa áp dụng trên thị trường cần phải cao hơn mức tỷ giá ngang giá
sức mua. [4]
Chế độ tỷ giá hối đoái:
Chế độ tỷ giá hối đoái nói đơn giản là cách mà một đất nước quản lý đồng tiền
của mình, nó liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường
ngoại hối.

Chế độ tỷ giá hối đoái ở mỗi nước và sau mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song cớ
bản là chế độ tỷ giá “thả nổi”, theo đó thị trường quy định những biến động của
tỷ giá hối đoái. Hoặc ngược lại thì chế độ tỷ giá hoái đoái “cố định” là nhà nước
sẽ can thiệp để tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước mình so với các nước khác
không đổi, hoặc sẽ là một chế độ khá nằm giữa hai giải pháp trên.
Từ đó chúng ta có khái niệm về chế độ tỷ giá thả nổi, hay còn gọi là chế độ tỷ
giá linh hoạt chính là chế độ mà trong đó giá trị đồng tiền được phép dao động
trên thị trường ngoại hối. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi được gọi là
một đồng tiền thẻ nổi. Nói chung, các nhà kinh tế điều cho rằng, trong phần lớn
trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi sẽ tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá
thả nổi nhay cảm hơn với thị trường ngoại hối. Điều này cho phép làm dịu tác
động của các chu kỳ kinh doanh nước ngoài và nó không bóp méo các hoạt
động kinh tế.
Còn về tỷ giá cố định (hay còn gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu chế độ tỷ
giá mà giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay
với một ‘rổ’ các đồng tiền khác, hoặc với một thước đo giá trị khác, vị dụ như
vàng. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi là đồng tiền cố định.
Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn toàn với tỷ giá
hối đoái thả nổi.
Mặc dù việc thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ hạn chế khả năng của
chính phủ trong vận hành một chính sách tiền tệ nội địa độc lập nhằm duy trì ổn
định kinh tế trong nước, song trong thực tế, nhiều chính phủ vẫn thích chế độ tỷ
giá hối đoái cố định bởi nó tạo ra sự ổn định. Trong lịch sử, từ sau Chiến tranh
Thế giới thứ hai đã từng tồn tại hệ thống Bretton Woods cho phép Tây Âu và
Nhật Bản có được tỷ giá cố định so với dollar Mỹ cho đến tận năm 1970. Gần
đây, Trung Quốc, Hong Kong và Malaysia đã rất thành công trong việc duy trì
tỷ giá hối đoái cố định để giữ ổn định kinh tế trong nước. Đồng euro hiện nay
cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia
châu Âu tham gia.
Nhiều quan điểm cho rằng tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất

những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Đó là vì đồng
tiền không còn thể hiện giá trị thị trường thực của chúng. Sự che đậy thông tin
này tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các kẻ đầu cơ "tấn công" các đồng
tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối khi cố gắng bảo vệ
đồng tiền của mình chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy.
Và chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai
chế độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt
hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì
nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song
việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định
tương đối khó khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách
tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử
dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng
chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn toàn
phản ứng theo thị trường. [5]
1.1.2. Lý thuyết nghiên cứu
Trên lý thuyết, tỷ giá ngoại tệ tác động đến nhiều vấn đề của nền kinh tế Việt
Nam như lạm phát, cán cân thương mại, đầu tư từ nước ngoài, vân vân. Và từ
những con số thống kê được trong thực tiễn những hoạt động thu về ngoại tệ
của nước ta, sẽ xác định lại một lần nữa tác động tích cực, tiêu cực của tỷ giá
ngoại tệ đến nền kinh tế.
2.1 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu:
Phương pháp thu thập dữ liệu chính là phương pháp thu thập số liệu thứ cấp.
2.1.2. Phương pháp phân tích
Sử dụng phương pháp phân tích đa biến giữa ba hay nhiều biến số với nhau.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG THU VỀ NGOẠI
TỆ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2010 -2014
Có rất nhiều hoạt động thu về ngoại tệ cho nền kinh tế nước ta nhưng do thời

gian có hạn và tài liệu không đủ nên tác giả chỉ đề cập đến thực trạng của hai
hoạt động xuất nhập khẩu và từ kiều hối.
2.1. THỰC TRẠNG XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM:
Để hiểu rõ hơn tình hình xuất khẩu của nước ta trong giai đoạn 2010 – 2014 tác
giả đã thu thập số liệu trong hình sau:
(Nguồn: Số liệu từ lấy từ Tổng cục thống kê Việt Nam)
Từ số liệu trong ‘Hình 1’, chúng ta sẽ thấy được sự tăng dần của các cột giữa
các năm trong giai đoạn 2010 – 2014
Từ năm 2012 Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt giữa việc xuất và nhập khẩu. Cũng
đồng nghĩa là việc nhập khẩu đã mang lại được một lượng ngoại tệ vào Việt
Nam. Sự chênh lệch này ngày càng rõ hơn ở 2014, điều này chứng tỏ rằng
lượng ngoại tệ vào Việt Nam đang ngày càng tăng lên, cụ thể hơn trong năm
vừa qua, dựa trên số liệu của ‘Hình 1’ thì đã có 2 tỷ USD vào Việt Nam bằng sự
chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu.
2.2. THỰC TRẠNG KIỀU HỐI TRONG GIAI ĐOẠN 2010 – 2014:
Từ chương 1 của bài, tác giả đã nêu lên khái niệm của kiều hối. Nhưng để dễ
hiễu hơn, tác giả xin định nghĩa tóm tắt lại khái niệm kiều hối. Kiều hối là tiền
mà người lao động tại nước ngoài, sống và định cư ở nước ngoài gửi về cho
người thân ở Việt Nam.
Qua công bố của Ngân hàng Thế Giới (World Bank) trong các năm qua về kiều
hối thì lượng kiều hối thu vào của Việt Nam tăng dần mỗi năm, cụ thể hơn, tác
giả có thu thập số liệu sau:
(Nguồn: Số liệu được công bố bởi World Bank)
Lượng kiều hối trong giai đoạn 2010 – 2014, tăng theo mỗi năm. Năm 2014 so
với năm 2010, thì lượng kiều hối đã tăng lên gần 4 tỷ USD chỉ trong khoảng 4
năm.
Và từ những khả quan đó, Việt Nam hiện tại đã nằm trong top những nước nhận
về kiều hối cao nhất thế giới trong những năm gần đây.
Tóm lại, lượng ngoại tệ vào Việt Nam không chỉ bằng xuất nhập khẩu hàng hóa,
hay kiều hối từ nước ngoài, mà còn từ những hoạt động khác như đầu tư nước

ngoài, vân vân.
Nhưng từ hai nguồn thu vào mà tác giả phân tích thì có chung đặc điểm là mỗi
năm lượng ngoại tệ mỗi tăng, điều này như đã nói từ phần mở đầu, lượng ngoại
tệ tăng đồng nghĩa với tác động của nó lên nền kinh tế cũng ngày càng lớn.
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ QUA
THỰC TRẠNG THU CHI NGOẠI TỆ CỦA VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2010 - 2014
3.1. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN GÂY BIẾN ĐỘNG CHO TỶ GIÁ
NGOẠI TỆ:
3.1.1: Tỷ giá ngoại tệ biến động qua các năm:
Để tiện phân tích tác động của tỷ giá ngoại tệ đối với việc xuất nhập khẩu tác
giả xin thống kê một số tỷ giá ngoại tệ bình quân liên ngân hàng của Ngân hàng
Nhà Nước, ở 6 tháng cuối mỗi năm giữa các năm trong giai đoạn với nhau như
sau:
Bảng 2.1: Tỷ giá ngoại tệ trong giai đoạn 2010 -2014
Với bảng này, ta dễ dàng nhận ra tỷ giá ngoại tệ USD/VND ngày càng cao.
Cũng đồng nghĩa việc để đổi 1 USD ở năm 2010 chỉ mất 18.544 VND nhưng
đến năm 2014 thì phải mất đến 21.246 VND.
Nếu bỏ qua tất cả vấn đề khác như kết quả, nguyên nhân, hệ lụy, vân vân, thì ta
nhận ra rằng đồng tiền của nước ta đang dần mất giá. Hay nói cách khác hàng
hóa chúng ta dần ‘rẻ hóa’
Tôi sẽ chứng minh điều này qua một bài toán đơn giản sau:
Nểu chúng ta bán một món hàng trị giá 18.544 VND ở năm 2010 thì sẽ bằng 1
USD. Còn ở năm 2014 thì 1 USD sẽ mua được món hàng 21.246 VND, vậy ở
món hàng giá trị 18.544 VND thì sẽ chưa mất đến 1 USD để mua.
3.1.2. Nguyên nhân tăng giảm tỷ giá:
Tác giả xin nêu những nguyên nhân chính cho việc tỷ giá giữa USD/VND đang
tăng dần theo thời gian.
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014
USD/VND 18.544 20.618 20.828 21.036 21.246

3.1.2.1. Chênh lệch lạm phát của hai nước làm ảnh hưởng tới tỷ giá hối
đoái
Theo lý thuyết cân bằng sức mua, tỷ giá hối đoái phản ánh so sánh sức mua của
đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ hay mức giá trong nước và mức giá của nước
ngoài. Vì vậy, khi chênh lệch lạm phát giữa hai nước thay đổi, tức là mức giá cả
ở hai nước này thay đổi, tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền của hai nước đó sẽ
biến động theo.
Nếu mức lạm phát trong nước cao hơn mức lạm phát của nước ngoài, sức mua
của đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng lên.
Ngược lại, nếu mức lạm phát trong nước thấp hơn mức lạm phát ở nước ngoài,
sức mua của đồng nội tệ tăng tương đối so với đồng ngoại tệ và tỷ giá giảm
xuống.
Ví dụ, trước lạm phát, mặt hàng A bán tại Mỹ với giá 1USD, bán tại Việt Nam
với giá 16.000 VND. Tỷ giá hối đoái USD/VND lúc này là 1 USD = 16.000
VND. Giả sử, năm nào đó, mức lạm phát tại Mỹ là 3%, tại Việt Nam là 7% thì
mức giá của mặt hàng A lúc này đã thay đổi. Ở Mỹ, mặt hàng A sẽ được bán
với giá 1 USD + 1USD×3% = 1,03 USD. Tại Việt Nam, giá của mặt hàng A do
tác động của lạm phát lúc này sẽ là 16.000 VND + 7%×16.000 VND = 17.120
VND. Tỷ giá USD/VND sau tác động của lạm phát là 1 USD = 17.120/1,03 =
16.621 VND. Như vậy, do chênh lệch lạm phát dương giữa Việt Nam và Mỹ, tỷ
giá hối đoái giữa hai đồng tiền này đã tăng lên. Nếu chúng ta giả sử ngược lại,
tức là mức lạm phát ở Mỹ là 7% và ở Việt Nam là 3% thì tỷ giá sẽ giảm đi, nhỏ
hơn mức 1 USD tương đương với 16.000 VND.
3.1.2.2. Chênh lệch lãi suất giữa các nước:
Nước nào có lãi suất ngắn hạn cao hơn thì luồng vốn ngắn hạn có xu hướng
chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cung ngoại
hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi và tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm.
Để xác định mức lãi suất của một nước là cao hay thấp, thông thường người ta
so sánh mức lãi suất của nước đó với các lãi suất quốc tế như lãi suất đi vay trên
thị trường liên ngân hàng London LIBID, lãi suất quốc tế trên thị trường liên

ngân hàng Singapore SIBID
Cần lưu ý rằng, chênh lệch lãi suất có tác động tới sự biến động của tỷ giá
nhưng đó chỉ là sự tác động gián tiếp chứ không phải trực tiếp bởi lãi suất trong
nhiều trường hợp không phải là nhân tố quyết định tới sự di chuyển của các
dòng vốn. Chênh lệch lãi suất phải trong điều kiện ổn định kinh tế chính trị thì
mới thu hút được nhiều vốn ngắn hạn từ bên ngoài đổ vào.
3.1.2.3. Tình hình thiếu thừa trong cán cân thanh toán quốc tế:
Nhân tố này tác động trực tiếp đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, thông qua đó tác
động tới tỷ giá. Khi cán cân thanh toán bội thu, theo tác động của quy luật cung
cầu ngoại tệ sẽ làm cho đồng ngoại tệ mất giá, đồng nội tệ lên giá, tỷ giá hối
đoái giảm. Ngược lại, khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi sẽ làm cho đồng
ngoại tệ lên giá, đồng nội tệ mất giá, tỷ giá hối đoái tăng.
3.1.2.4. Tình hình tăng trưởng hay suy thoái kinh tế:
Nếu các yếu tố khác không đổi mà thu nhập quốc dân của một nước tăng lên so
với nước khác thì nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ nước khác cũng tăng dẫn tới
cầu ngoại hối tăng. Kết quả là tỷ giá hối đoái sẽ có xu hướng tăng lên.
3.1.2.5. Yếu tố tâm lý và các hoạt động đầu cơ:
Yếu tố tâm lý được thể hiện bằng sự phán đoán của thị trường về các sự kiện
kinh tế, chính trị từ những sự kiện này, người ta dự đoán chiều hướng phát
triển của thị trường và thực hiện những hành động đầu tư về ngoại hối, làm cho
tỷ giá có thể đột biến tăng, giảm trên thị trường.
Ngoài ra, tỷ giá hối đoái còn phụ thuộc vào chính sách có liên quan tới quản lý
ngoại hối, các sự kiện kinh tế - xã hội, các rủi ro bất khả kháng như chiến tranh,
thiên tai [6]
3.2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ NGOẠI TỆ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU:
3.2.1. Ảnh hưởng tỷ giá đến việc xuất khẩu:
3.2.1.1. Ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá đến kim ngạch xuất khẩu:
Tỷ giá hối đoái giảm, đồng nghĩa giá nội tệ tăng, lượng ngoại tệ thu vào giảm.
Từ đó doanh thu từ hoạt động xuất khẩu khi tính ra nội tệ trở nên eo hẹp, và

việc xuất khẩu sẽ không được khuyến khích hay xu thế chung của các doanh
nghiệp sẽ giảm hoạt động xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái tăng, đồng nghĩa giá nội tệ giảm, lượng ngoại tệ thu vào từ việc
xuất khẩu cũng sẽ đổi được nhiều nội tệ hơn. Từ đó kim ngạch xuất khẩu tăng
lên, kích thích đẩy manh các hoạt động xuất khẩu nhưng với điều kiện chi phí
các yếu tố đầu vào không tăng lên theo tính chất bắt cầu.
3.2.1.2. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên cơ cấu hàng xuất khẩu:
Đối với các mặt hàng dễ dàng thay thế được như: hàng nông sản, thô sơ chế thì
có lẽ nhạy cảm hơn các mặt hàng không thay thế được như máy móc, thiết bị,
linh kiện, xăng dầu. Bởi độ co giãn của nó với giá xuất khẩu hay tỷ giá hối đoái
áp dụng là rất cao hơn so với các mặt hàng không thay thế được.
Nên khi tỷ giá giảm thì đồng nghĩa giá cả hàng hóa sẽ đắt hơn, những mặt hàng
dễ bị thay thế sẽ dễ dàng bị lạo khỏi danh sách sử dụng của người tiêu dùng
ngoại quốc và các mặt hàng này cũng sẽ mất dần trong cơ cấu xuất khẩu.
Ví dụ: Người Mỹ thường mua một quả táo với giá 1 USD. Khi đó tỷ giá
USD/VND = 16.000. Nhưng khi tỷ giá USD/VND giảm xuống 15.000 thì khi
đó người Mỹ phải mất đến hơn 1 USD để có một quả táo. Vậy tại sao phải mua
một quả táo Việt Nam khi giá nó tăng lên?
Nhưng khi tỷ giá tăng lên thì cơ cấu hàng xuất khẩu có thể sẽ trở nên đa dạng
hơn do sự cạnh tranh về giá, sự tăng doanh thu xuất nhập khẩu.
Còn đối vời các mặt hàng không thể thay thế thì dù cho tỷ giá tăng hay giảm thì
không ảnh hưởng gì nhiều đến cơ cấu, cũng như tỷ trọng mặt hàng này
3.2.1.3. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của xuất
khẩu:
Về khía cạnh này thì sự tăng lên của tỷ giá hối đoái của một nước sẽ khiến hàng
hóa xuất khẩu của nước này trở nên cạnh tranh hơn với các nước khác do giá cả
rẻ hơn. Ngược lại, nếu giá đồng nội tệ tăng, thì tỷ giá sẽ giảm. Trong cùng một
thị trường tiêu thụ, mà tất cả hàng hóa đều có cùng chất lượng thì người tiêu
dùng sẽ chuộng mua những sản phẩm giá rẻ hơn.
Và giả sử chi phí sản xuất của tất cả các nước trên thế giới là ngang nhau, thì tỷ

giá giữa đồng Đô Mỹ và các nước còn lại, nước nào có tỷ giá cao hơn thì nước
đó có cơ hội phát triển xuất khẩu hàng hóa hơn.
Tóm tại, tỷ giá tăng thì có lợi cho xuất khẩu, tỷ giá giảm gây bất lợi cho xuất
khẩu. Điều này hầu như đúng đối với các quốc gia thực thi chế độ tỷ giá thả nổi,
hoặc thả nổi có quản lý, nơi tỷ giá danh nghĩa sát hoặc tiến sát giá trị thực. Và
ngược lại, với các nước theo chế độ tỷ giá cố định, việc giảm, tăng tỷ giá chính
là giảm, tăng tỷ giá danh nghĩa, không phải tỷ giá thực, do đó nếu một sự tăng
tỷ giá hối đoái mà vẫn khiến tỷ giá danh nghĩa thấp hơn tỷ giá thực thì đồng nội
tệ vẫn bị xem là định giá cao hơn giá trị thực, tác dụng thúc đẩy xuất khẩu
không nhiều.
3.2.2. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của nhập khẩu:
3.2.2.1. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch nhập khẩu:
Trên phương diện kim ngạch nhập khẩu, xu hướng chung thường thấy là khi giá
đồng nội tệ tăng hay tỷ giá hối đoái giảm, nhập khẩu sẽ được khuyến khích do
giá nhập khẩu trở nên rẻ tương đối, chi phí nhập khẩu giảm, lượng nhập khẩu
tăng lên dẫn đến sự tăng lên trong kim ngạch nhập khẩu. Bên cạnh đó, khi tỷ giá
hối đoái tăng (đồng nội tệ giảm giá) sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu, giá nhập khẩu
trở nên đắt hơn, việc các nhà nhập khẩu phải bỏ nhiều tiền hơn để mua một
lượng ngoại tệ như cũ sẽ dẫn đến việc giảm lợi nhuện các nhà nhập khẩu. Một
khi lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí, cầu nhập khẩu giảm xuống, do đó kim
ngạch nhập khẩu giảm.
3.2.2.2. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu nhập khẩu:
Trên phương diện cơ cấu nhập khẩu, một sự tăng tỷ giá hối đoái sẽ khiến các
nhà quản lý cân nhắc xem phải nhập khẩu những mặt hàng gì, những mặt hàng
như nông sản có thể sẽ bị hạn chế, các mặt hàng như xăng dầu, máy móc, thiết
bị toàn bộ có thể sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục nhập khẩu (điều này đặc
biệt đúng với các nước đang phát triển hướng về xuất khẩu), còn sự tăng trong
tỷ giá hối đoái sẽ cho chiều hướng ngược lại.
3.2.2.3. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của hàng
nhập khẩu:

Xét về tính cạnh tranh nhập khẩu, không một quốc gia nào muốn sản phẩm nhập
khẩu lại có tính cạnh tranh cao hơn sản phẩm trong nước, khi tăng tỷ giá lên,
sản phẩm nhập khẩu có lợi thế trong khi sản phẩm trong nước lại bất lợi về giá,
còn khi tỷ giá giảm, cạnh tranh về giá của sản phẩm nhập khẩu không còn, việc
tỷ giá giảm tương đương với việc đánh thuế lên hàng nhập khẩu do đó hàng
nhập khẩu trở nên đắt hơn, nếu tình trạng này kéo dài, hàng hóa nhập khẩu từ
thị trường này có thể sẽ được thay thế bằng hàng hóa nhập khẩu thị trường khác
hoặc các sản phẩm trong nước. [7]
3.3: ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ NGOẠI TỆ ĐẾN NỀN KINH TẾ:
Trước khi đi sâu vào vấn đề này, tác giả xin nói về sự ảnh hưởng của tỷ giá hối
đoái đến lượng kiều hối.
Thật ra thì kiều hối cũng là nguồn thu ngoại tệ của nước ta nhưng nó là nguồn
kênh không chịu tác động nhiều bởi ảnh hưởng của tỷ giá.
Ví dụ: Gia đình bạn có một người thân đang sinh sống ở Mỹ, họ gửi cho bạn
mỗi một tháng 2000USD, thì những tháng sau vẫn vậy, có chăng nguồn thu
nhập họ giảm thì số tiền bạn nhận được sẽ giảm, bởi là một người dân, bạn sẽ
không giành quá nhiều thời gian cho tỷ giá ngoại tệ. Có thể nói điều này không
hợp lý nhưng thực tế là vậy.
3.3.1. Ảnh hưởng của tỷ giá ngoại tệ đối với lạm phát:
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không
đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nước ngoài trong khi
hàng hóa dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nước. Theo quy luật
cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ
hơn lúc này các doanh nghiệp trong nước chịu cảnh ế ẩm, doanh thu sụt giảm,
nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư
dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút,
cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh
hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tắng giá ngoại tệ, tác động cộng
gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trường tiền tệ, lạm phát làm
đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài

nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các
quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát
tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ
quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và đồng thời tỷ giá hối đoái tăng.
3.3.2. Ảnh hưởng của tỷ giá ngoại tệ đối với đầu tư nước ngoài:
Cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp
(Xây dựng nhà máy, thành lập các doanh nghiệp, vân vân) hay đầu tư gián tiếp
(mua cổ phiếu, trái phiếu, vân vân). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt
động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường,
luống vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một
nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm
cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu
số giữa luồng vốn chảy ra và lượng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước
ngoài ròng dương, tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường
hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hóa, luồng
vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền
kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi
trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ,
nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và
sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính Phủ.
3.3.3. Ảnh hưởng của tỷ giá ngoại tệ đến cán cân thương mại:
Cán cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu cà
kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ thu
được ngoại tê. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán
ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hóa dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài.
Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi
nhập khẩu hàng hóa dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho
đối tác, và điều này buộc họ phải bán nội tệ để mua lấy ngoại tệ trên thị trường.
Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai
hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối

đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của
các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương
mại cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên
giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá (đây
là trường hợp nước ta hiện nay).
3.3.4. Ảnh hưởng của tỷ giá đến lãi suất:
Lãi suất và tỷ giá hối đoái là hai trong số những công cụ quan trọng để Chính
Phủ điều hành nền kinh tế vĩ mô của một nước. Tuy hai công cụ khác nhau
nhưng mối quan hệ của chúng lại mật thiết.
Khi ta lựa chọn nắm giữ giữa đồng tiền nội tệ VND và đồng tiền ngoại tệ USD,
người ta sẽ xem xét lãi suất thực tế của hai đồng tiền này:
Khi lãi suất của VND cao hơn lãu suất USD, người ta sẽ có xu hướng chuyển từ
giữ USD sang nắm giữ VND. Điều này làm cho nhu cầu về VND tăng, cầu về
USD giảm, từ đó giá USD sẽ giảm so với VND, hay nói cách khác tỷ giá giảm
tới một mức mới mà cung cầu USD – VND cân bằng. Khi đó lãi suất thực tế
giữa hai đồng này sẽ tương đương nhau (điều kiện ngang bằng lãi suất và không
tính lạm phát)
Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng lãi suất
thực tế giảm, lúc này thì VND sẽ giảm giá so với USD, dẫn tới tỷ giá tăng.
Ngược lại khi đồng USD tăng, để tạo cân bằng trên thị trường ngoại hối, Ngân
hàng Nhà Nước sẽ chủ động tăng lãi suất VND thông qua đẩy mạnh lượng cung
ngoại tệ ra nền kinh tế, đồng thời hút bớt đồng nội tệ về. Điều này làm cho cung
cầu ngoại hối trở nên cân bằng.
3.3.5. Tỷ giá với tâm lý số đông:
Đây là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối đoái. Người dân, các nhà
đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực
tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung
cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý,
các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá
ngoại tệ hiện tại lại phản ảnh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu

mọi người kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai thì mọi người sẽ
đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại. Mặt khác giá ngoại
tệ rất nhạy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin
đồn rằng Chính Phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt
thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm
nhanh chóng (khi thâm hụt thương mại giảm, thì cầu về USD giảm, giá USD sẽ
giảm trong tương lai)
3.3.6. Tỷ giá với tình trạng đô la hóa:
Việc biến động tỷ giá hối đoái có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân đó còn gắn liền với tình trạng “đô la hóa” ở nước ta hiện nay. Mặc dù
Chính Phủ theo đuổi chính sách quản lý ngoại hối theo định hướng nhất quán
“trên thị trường Việt Nam chỉ giao dịch bằng đồng Việt Nam”, nhưng thực tế,
ngoại tệ và vàng được sử dụng khá phổ biến như các phương tiện thanh toán
trong giao dịch mua bán bất động sản, hàng hóa đắt tiền, vay, trả nợ, cất trữ.
Những hàng hóa này ngày thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt
Nam sẽ phải nhập khẩu toàn bộ hoặc từng phần liên kiện nên giá của chúng phụ
thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, các doanh
nghiệp buộc phải niêm yết giá bằng USD. Mỗi khi có biến động về tỷ giá thì
ngoại tệ, nhất là USF gia tăng vai trò trên thị trường.[8]
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP
Ngay từ đầu năm 2014, NHNN đã có chủ trương giữ ổn định tỷ giá và nếu phải
điều chỉnh sẽ không quá 2%. Thực hiện cam kết đó, khi tỷ giá trên thị trường
biến động do những nguyên nhân khách quan tác động đến tâm lý thị trường,
chẳng hạn như tình hình biển Đông diễn ra vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 trên thị
trường lại xuất hiện kỳ vọng sẽ điều chỉnh tỷ giá. Trước tình hình này, trong bối
cảnh lạm phát đang được kiểm soát ở mức thấp, NHNN đã chủ động điều chỉnh
tăng tỷ giá để can thiệp và bình ổn thị trường ngoại tệ, đồng thời góp phần hỗ
trợ xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo
mục tiêu đề ra. Sau khi điều chỉnh tăng 1% tỷ giá bình quân thị trường liên ngân
hàng vào ngày 19/6/2014, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại dần ổn

định ở mặt bằng mới. Tính đến 12/12/2014, tỷ giá VND/USD liên ngân hàng là
21.126 đồng, không thay đổi kể từ ngày 19/6/2014, thấp hơn 0,6% so với trần tỷ
giá. Thanh khoản thị trường ngoại hối khá tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp
của tổ chức và cá nhân đều được TCTD đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Bên cạnh đó, diễn biến thị trường vàng tương đối ổn định, giá vàng trong nước
dao động phù hợp với giá vàng trên thị trường quốc tế xoay quanh mức 36 triệu
đồng/lượng và có xu hướng giảm tới mốc 35 triệu đồng/lượng. NHNN không
phải tổ chức đấu thầu bán vàng miếng, nhờ đó hạn chế việc sử dụng ngoại tệ
của Quỹ Bình ổn tỷ giá và giá vàng để nhập khẩu vàng quốc tế. Điều này, góp
phần duy trì sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, tạo thuận lợi cho việc
thu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Những kết quả trên cho thấy trong năm 2014, NHNN đã thực hiện đồng bộ các
giải pháp theo đúng chỉ đạo của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội, giảm
được mặt bằng lãi suất cho vay, ổn định được tỷ giá, đảm bảo thanh khoản của
hệ thống các TCTD, góp phần kiểm soát lạm phát, tháo gỡ một bước khó khăn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý
[9]
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1/ KẾT LUẬN:
Tỷ giá ngoại tệ ảnh hưởng xuyên suốt tất cả hoạt động nền kinh tế nước ta, ở
nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng tác động của nó là như nhau. Nên tỷ giá
ngoại tệ không thể nào là vấn đề dễ dàng quyết định được. Do vậy sự thay đổi
của Chính sách nhà nước luôn luôn linh động sao cho phù hợp với nền kinh tế
Thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.
Tỷ giá ngoại tệ cũng là phương thức đánh giá nền kinh tế của một nước nào đó,
với một nước nghèo như Việt Nam, tỷ giá còn là thước công cụ điều chỉnh nền
kinh tế. Tỷ giá được Ngân hàng Nhà Nước điều hành một cách linh hoạt, chủ
động cùng với sự gia tăng của dự trữ ngoại hối từ 6 tuần nhập khẩu vào cuối
năm 2010 lên 6,5 tuần vào cuối năm 2011 rồi lên 12 tuần cuối năm 2012 và
2013 đã tạo điều kiện duy trì ổn định thị trường ngoại hối trong thời gian dài.

Tuy nhiên, tỷ giá là một biến số vĩ mô chịu tác động từ nhiều yếu tố bên ngoài
yếu tố tiền tệ như hoạt động thương mại, chính sách tài khóa…. Do vậy, khi yếu
tố tâm lý vẫn có tác động lớn đến tỷ giá, hoạt động điều hành tỷ giá và ổn định
thị trường ngoại hối của Ngân hàng Nhà Nước sẽ có thể chịu nhiều áp lực trước
các biến động của thị trường trong và ngoài nước và đòi hỏi cần có sự chia sẻ,
phối hợp tích cực, chặt chẽ từ các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô. [9]
2/ KIẾN NGHỊ:
Vấn đề quan trọng nhất trong việc ổn định, cân bằng tỷ giá nước ta vẫn chính là
tâm lý đám đông, bởi đây là yếu tố khó có thể dự đoán trước, như các yêu tố
khác nên để hạn chế điều này, nhà nước cần có những biện pháp phổ biến cho
người dân những thông tin cần thiết, liên quan đến tỷ giá một cách kịp thời và
chính xác nhất. Như vậy sẽ tránh được kẻ xấu lợi dụng tâm lý của người dân mà
đầu cơ tích trữ ngoại tệ rồi bán với giá cao ngất ngưỡng gây sự biến động lớn
cho tỷ giá ngoại tệ. Xử lý nặng tay những kẻ đầu cơ tích trữ, gây sức ép lên tâm
lý người dân, làm cho biến động tỷ giá, ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tài liệu khác:
Bài viết: Kiều hối
[Truy cập:
28/03/2015].
[2] Tài liệu khác:
Bài viết: Khái niệm về xuất khẩu và bản chất xuất khẩu
/>khau/e77579ab. [Truy cập: 28/3/2015]
[3] Tài liệu khác:
Bài viết: Tỷ giá hối đoái là gì
[Truy cập: 28/3/2015]
[4] Tài liệu khác:
Bài viết: Câu 13: Tỷ giá hối đoái: Khái niệm, phân loại, các yếu tố ảnh hưởng
đến tỷ giá hối đoái. Tác động của tỷ giá hối đôái đến các quan hệ kinh tế quốc
tế.

/>niem-phan.html [Truy cập: 06/04/2015]
[5] Tài liệu khác:
Bài viết: Chế độ tỷ giá hối đoái.
/>%E1%BB%B7_gi%C3%A1_h%E1%BB%91i_%C4%91o%C3%A1i [Truy cập:
06/04/2015]
[6] Tài liệu khác:
Bài viết: Các nhân tố tác động đến tỷ giá. Nguồn: Ths. Đặng Thị Việt Đức -
Ths. Phan Anh Tuấn (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa).
quantri.vn/dict/details/8345-cac-nhan-to-tac-dong-den-ty-gia-hoi-doai [Truy
cập: 04/04/2015]
[7] Tài liệu khác:
Bài viết: Ảnh hưởng của tỷ giá đến xuất nhập khẩu Việt Nam.
/>%9Fng-c%E1%BB%A7a-t%E1%BB%B7-gi%C3%A1-%C4%91%E1%BA
%BFn-xu%E1%BA%A5t-nh%E1%BA%ADp-kh%E1%BA%A9u-t%E1%BA
%A1i-vi%E1%BB%87t/page/6
[Truy cập: 06/04/2015]
[8] Bài Tiều luận Tỷ giá hối đoái và các tác động của tỷ giá đến nền kinh tế.
/>nen-kinh-te-viet-nam-26040/ [Truy cập: 06/04/2015]
[9] Bài viết: Chính sách tiền tệ 2014 và những vấn đề đặt ra 2015
/>nhung-van-de-dat-ra-trong-nam-2015/58381.tctc [Truy cập: 06/04/2015]

×