Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tìm hiểu các biện pháp canh tác trên đất dốc và ảnh hưởng đến môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.76 KB, 25 trang )

I. Đặt vấn đề.
Đảm bảo an ninh lương thực là một trong những vấn đề trọng yếu của hầu hết các
quốc gia trên thế giới vì thế mà ngày nay nguồn tài nguyên đất và nước đang rất được
quan tâm. Trong tài nguyên đất nông nghiệp thì đất dốc có đặc tính nhạy cảm với môi
trường, dễ biến đổi dưới tác động của hàng loạt yếu tố ngoại cảnh như: thời tiết, khí hậu
nhất là mưa lũ vì vậy muốn giảm những tác động đó đến đất ở nơi này thì cần có những
biện pháp canh tác hợp lý, bền vững nếu không sẽ dẫn đến một chuỗi các hệ lụy như: đất
bị xói mòn, rửa trôi, chua hóa, mực nước ngầm giảm… kéo theo ảnh hưởng đến vùng
lưu vực phía dưới như: mất đất nông nghiệp, dòng sông bị bồi lắng… từ những ảnh
hưởng trên mà chúng em đã được giao đề tài:
“Tìm hiểu các biện pháp canh tác trên đất dốc và ảnh hưởng đến môi trường”
Với mục đích là tìm hiểu về các biện pháp canh tác trên đất dốc và ảnh hưởng của
các biện pháp này đến môi trường địa chất, để từ đó biết được những biện pháp phù hợp
với loại hình đất dốc giúp cải thiện môi trường địa chất tại đó và các vùng xung quanh.
Việc canh tác trên đất dốc không chỉ có ở một quốc gia nào mà rất nhiều nước trên
thế giới đều canh tác trên đất dốc để tận dụng nhiều nhất nguồn tài nguyên này. Trong đó
phải kể đến Việt Nam_nước có ¾ là đồi núi và nhất là trong thời kì công nghiệp hóa
hiện đại hóa thì áp lực lên tài nguyên đất nông nghiệp được thể hiện rất rõ đặc biệt là đất
dốc.
Page 1 of 25
I. Nội dung .

1. Các khái niệm:
- Canh tác: Canh nghĩa là cày, tác nghãi là làm. Canh tác tức là làm công việc nông
nghiệp như trông trọt, chăn nuôi. . .
- Môi trường địa chất: Là phần trên cùng của vỏ trái đất bao gồm cả thổ nhưỡng, nham
thạch, khoáng sản nước dưới đất và nước mặt, nơi con người chiếm cứ để sinh sống và
tiến hành các hoạt động phát triển, nơi trực tiếp chịu ảnh hưởng (tốt hoặc xấu) của các
hoạt động và ngược lại, cùng tác động trở lại với con người, chi phối điều tiết một cách
tự nhiên, tạo thuận lợi hoặc trở ngại cho cuộc sống và hoạt động của con người.
2. Hiện trạng.


I.1 Hiện trạng thế giới.
Theo tài liệu của FAO (2000), hiện nay trên Thế giới có khoảng 1 tỷ 476 triệu ha
đất nông nghiệp, trong đó đất dốc vùng đồi núi chiếm khoảng 65,9% và có khoảng 544
triệu ha đất canh tác mất khả năng sản xuất. Các vùng đồi múi trên thế giới có độ dốc
trên 10
0
chiếm 50 – 60% diện tích đất nông nghiệp.
Hằng năm trên thế giới, không kể sản lượng nhóm cây nông lâm nghiệp khác
trồng trên đất dốc, riêng lúa nương canh tác trên đất dốc đẫ và dang là nhuồn lương thực
quan trọng để nuôi sống nhiều triệu người đóng góp 3,8% sản lượng lúa toàn cầu. Phần
lớn diện tích cây lương thực này phân bố tập trung chủ yếu ở Ấn Độ (6,2 triệu ha),
Brazil (3,1 triệu ha), Indonesia (1,4 triệu ha) và rải rác ở các nước trong khu vực khoảng
7,0 triệu ha (Dobermann và Fairhutst, 2000).
Page 2 of 25
I.2 Hiện trạng ở Việt Nam.
Ở ViệtNam, đất dốc chiếm khoảng 74% đất tự nhiên. do hầu hết đất bằng đã được
sử dụng khá triệt để nên miền núi là nơi duy nhất còn tiềm năng mở rộng đất canh
tác. Trong diện tích 9,4 triệu ha đất nông nghiệp chỉ có 4,06 triệu ha là đất lúa, còn trên
5 triệu ha chủ yếu là đất dốc, trong đó đất nương rẫy trồng lúa khoảng 640 ngàn ha, diện
tích còn lại là đất rừng và đất chưa sử dụng. So với miền xuôi thì cơ cấu cây trồng ở
miền núi đa dạng hơn nhiều. Trong khi hầu hết đất bằng ở miền xuôi phải dành cho sản
xuất lương thực thì miền núi là nơi có tiềm năng đất đai để trồng cây ăn quả, cây lương
thực có giá trị cao,đó là chưa kể các loài rau quả ôn đới trồng trên các vùng núi cao.
Ngoài ra miền núi còn đáp ứng 1 số nhu cầu về chuồng trại, chăn thả, đồng cỏ để phát
triển chăn nuôi, tiềm năng về thủy điện…
Tuy nhiên, nếu viêc canh tác hợp và lý đúng cách thì môi trường địa chất sẽ bị ảnh
hưởng rất lớn. Đầu tiên phải nói đến đó là xói mòn và rửa trôi, xói mòn và rửa trôi là
những mối đe doạ thường xuyên đối với đất dốc và vùng nhiệt đới ẩm, gây nên sự mất
dinh dưỡng và độ phì của lớp đất mặt, dẫn đến sự axít hoá trong đất. Những tác động
này thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn nếu như đất canh tác không có thảm thực vật che phủ

hoặc là đất bị đốt cháy trước mùa mưa.Thứ 2 là sự suy thoái đất do đất rừng bị phá và
đốt để trồng cây hàng năm làm lương thực, đất dốc ở nhiều vùng ngày càng bị thoái hoá
nghiêm trọng. Theo Garrity D.P (1993), có rất nhiều lý do dẫn đến những hạn chế và sự
bất ổn định sản lượng trên đất dốc, nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do thoái hoá
Page 3 of 25
đất nhanh cả về mặt sinh học, lý và hoá học. . Việc tăng độc tố nhôm trong đất là do đất
bị axít hoá. Thêm vào đó là sự giảm đáng kể của cá nguyên tố vi lượng như: P, K, Ca,
Mn, Zn. Ngoài ra việc canh tác không hợp lý còn có thể gây ra việc hạn hán vào mùa
khô và gây nên lũ lut vào mùa mưa ảnh hưởng lớn tới người, động vật và đặc biệt là ảnh
hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đất.
Việc diện tích rừng bị giảm và các phương pháp canh tác lạc hậu đã để lại hậu quả
là nhiều vùng đất rộng lớn đã trở thành đất trống đồi núi trọc. Ở Châu Á, khi rừng đã bị
phá để trồng cây lương thực, đất sẽ trở nên chua và thường bị cỏ tranh xâm chiếm. Nông
dân phải bỏ hoá những khu đất này, tiếp tục phá rừng nơi khác để làm nương mới trồng
cây lương thực. Việc mất thảm thực vật rừng sẽ ảnh hưởng rất xấu đến môi trường sinh
thái như hạn hán, lũ lụt và lũ quét ở vùng cao.
II. Đặc điểm của đất dốc.
- Địa hình cao dốc phức tạp, manh mún, bất thuận cho canh tác. Diện tích đất dốc rộng
lớn, có khoảng 14 triệu ha phân bố trên các độ dốc khác nhau.
Độ dốc (%) Diện tích (triệu ha)
3 – 10 2.7
Page 4 of 25
10 – 15 5.5
15- 25 3.7
>25 2.5
( theo nguồn của Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm, 1999)
+ Địa hình núi cao có độ dốc >30
0
(có độ cao trung bình >2000m), bị chia cắt
mạnh là những khu vực đầu nguồn cần bảo vệ rừng tự nhiên để giữ nước và chống lũ

quét.
+ Địa hình núi tại độ dốc >15
0
( có độ cao1000 – 2000m), quá trình xâm thực và
bào mòn khá mạnh, phân bố ở khắp các khu vực vùng đồi núi, canh tác nông nghiệp gặp
nhiều khó khăn.
+ Địa hình núi thấp và đồi có độ cao < 1000m độ dốc từ 8- 25%, đây là vùng sản
xuất nông nghiệp chính của miền núi với các cây dài ngày và hoa màu chủ yếu nhờ nước
trời.
+ Địa hình núi và cao nguyên: địa hình tuy khá cao nhưng ít bị chia cắt, khá bằng
phẳng, ít dốc, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp hỗn hợp.
+Địa hình bán bình nguyên: phân bố thành những dải đất hẹp, khá bằng phẳng,
sản xuất nông nghiệp thuận lợi nhưng diện tích ít, manh mún.
Page 5 of 25
+ Địa hình thung lũng và trũng giữa núi: tạo nên những bồn địa và cánh đồng khá
bằng phẳng trên các độ dốc khác nhau của vùng đồi núi, là nơi sản xuất lúa nước, hoa
màu ngắn ngày quan trọng nhưng diện tích hẹp, manh mún.
Đất dốc gồm các loại đất có độ phì khác nhau, với điều kiện tiểu khí hậu, địa hình,
chế độ nước khác nhau đã tạo nên sự phát triển rất đa dạng và phong phú của các thực
vật tự nhiên và cây trồng , vật nuôi của vùng đồi núi nước ta.
- Đặc trưng khoáng sét ở đất dồi núi.
Đất đồi núi có độ cao biến động từ vài chục mét vùng đồi cho đến 2.000 – 3.000 m
vùng núi cao và trải dài qua 15 vĩ độ từ Bắc vào Nam. Thành phần khoáng vật vừa bị chi
phối bởi đá mẹ vừa chịu tác động của điều kiện hình thành đất của địa phương.
- Đặc trưng lý học đất dốc.
Tính chất vật lý đất dốc rất khác nhau giữa các loại đất phụ thuộc vào loại đá mẹ phát
sinh. Qua nghiên cứu cho thấy rằng hàm lượng cấp hạt sét trong thành phần cơ giới giao
động trong phạm vi khá rộng từ 12-62%, cấp hạt đá thô có chiều hướng ngược lại, thay
đổi trong khoảng 4-60%. Dung trọng đất hầu hết khá cao, giao động từ 1,08g/cm
3

ở đất
đỏ vàng trên đá bazan đến 1,5g/cm
3
trên đất đỏ vàng trên phù sa cổ, chứng tỏ đất trồng
sắn khá chặt. Đặc tính này bất lợi, gây khó khăn cho tính thấm nước của đất, dễ dàng bị
rửa trôi và xói mòn đất.
- Đặc trưng hóa học đất đồi núi.
Page 6 of 25
Xét về mặt hóa học, các đất đồi núi đều là những loại đất có vấn đề. Phản ứng chua
đến rất chua là đặc tính chung, trừ một diện tích rất hẹp đất tích cacbonat trên sản phẩm
dốc tụ của đá vôi và một ít đất mặn lục địa ở Phan Rang nơi có khí hậu bán khô hạn. Các
đất trung tính hoặc kiềm này có diện tích không đáng kể, ít có ý nghĩa sản xuất.
Đất đồi núi dưới rừng khá giàu mùn và dinh dưỡng N và P tổng số. Song một khi mất
rừng thì những ưu điểm này cũng mất dần.
III. Các biện pháp canh tác và ảnh hưởng.
4.1 Các biện pháp canh tác giúp giảm tác động tích cực đến môi trường địa chất.
4.1.1 Canh tác theo đường
đồng mức: cụ thể với
3 hình thức ruộng bậc
thang là ruộng bậc
thang san ngay, ruộng
bậc thang san dần,
ruộng bậc thang lúa
nước.
Hình 1:Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
- Ruộng bậc thang san ngay:
Page 7 of 25
Được áp dụng nhiều ở vùng trung du miền núi phía bắc như Tủa Chùa ( Lai Châu),
Sa Pa ( Lào Cai). Yếu tố quan trọng quan trọng của khu vực này là đất phải đủ dày, kết
von và đá ong ở sâu mà khi san không bị lộ ra trên mặt đất. ruộng bậc thang san ngay có

ưu thế nổi bật: triệt tiêu dòng chảy, giữ nước, giữ đất, giảm xói mòn và duy trì sự ổn
định năng suất cây trồng trong chu kì canh tác. Tuy nhiên khi tạo ruộng bậc thang san
ngay không tránh sự xáo trộn các tầng đất sắp xếp có quy luật từ hàng ngàn năm, phá vỡ
cấu trúc, trộn tầng đất canh tác với đất cái ít mầu mỡ bật từ dưới lên, cắt các lỗ hổng
mao quản và phi mao quản vốn là một hệ thống liên tục, mùn và chất dinh dưỡng dễ tiêu
giảm…. dẫn tới độ phì nhiêu hữu hiệu giảm. Dù giảm nhẹ cũng cần thời gian dài mới
phục hồi được độ phì nhiêu, nếu giảm nặng thì nguy cơ hỏng đất là chắc chắn.
- Ruộng bậc thang san dần:
Ở Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái và Tây Nguyên nông dân áp dụng phương
pháp này phổ biến đối với cây ngắn ngày và dài ngày. Đặc điểm của phương pháp này là
kết hợp san ủi nhẹ với việc tạo ra các băng chắn để đất tích lũy mé dưới lô trồng. Sau
mỗi vụ mưa đất trôi sẽ bị chặn lại, bồi tụ trên ruộng tầng vì thế hạn chế việc xói món và
mất dinh dưỡng. Nói chung ruộng bậc thang san dần tránh được căng thẳng về công xây
dựng và đầu tư nặng ban đầu.
- Ruộng bậc thang lúa nước: đây là kiểu canh tác lâu đời và khá bền vững.
Page 8 of 25
• Là một phương thức định canh trên mặt bằng, có không gian khép kín tránh được xói
mòn, tiếp nhận vật liệu rửa trôi từ xung quanh, hạn chế tốc độ dòng chảy từ trên cao
xuống thung lũng.
• Trong môi trường nước, quá trình hóa học có lợi cho việc duy trì độ phì nhiều hữu hiệu:
phân giải chất hữu cơ chậm lại, có sự tích lũy mùn và có dung tích hấp thu cao hơn.
Trong điều kiện khử là ưu thế có sự chuyển hóa các oxit đa hóa trị sang hóa trị hai
( Fe
3+
sang Fe
2+
, Mn
4+
sang Mn
2+

), Al
3+
giảm Ca
2+
và Mg
2+
tăng lên làm cho độ chua
giảm đi và độ bão hòa bazo tăng lên.
• Lợi thế lớn về dinh dưỡng dễ tiêu là sự cố định lân bị hạn chế, P dễ tiêu và K trao đổi
tăng lên đáng kể, nhờ lưới tinh thể mở NH
4
+
và K
+
thay thế nhau dễ dàng.
• Các bậc thang dần dần hình thành tầng đế cày tích sét tương tự như ruộng lúa đồng
bằng, nhờ vậy tuy trên thế dốc nhưng phần lớn các phần tử đất mịn lắng đọng, không bị
trôi tuột như trên đất dốc.
4.1.1 Trồng theo rãnh: biện pháp mà người dân tạo các rãnh theo đường định mức, như vậy
biện pháp này sẽ giúp giảm được tốc độ và chiều dài dòng chảy mặt trên dốc, kéo dài
thời gian nước trên mặt đất như vậy lượng nước thấm xuống tầng dưới sẽ được tăng
cường.
4.1.2 Biện pháp tủ gốc: che tủ mặt đất là kinh nghiệm bảo vệ đất và nước, mà trong đó dùng
cỏ, rơm, rạ và các vật liệu hữu cơ khác để che tủ bề mặt đất, giữa các hàng hoặc gốc cây.
Thực tiễn này giúp giữ độ ẩm đất, hạn chế cỏ dại và tăng cấu trúc đất, làm cho đất tơi
xốp. Những mặt mạnh:
• Ngăn chặn tác động trực tiếp của các hạt nước mưa lên đất trống, trọc và giảm rửa trôi
và mất đất
Page 9 of 25
• Hạn chế cỏ dại và giảm công lao động để làm cỏ

• Tăng chất hữu cơ cho đất
• Cải thiện các tính chất lý-hóa học của đất
• Giúp điều chỉnh, giảm nhiệt độ của đất vào mùa hè
4.1.3 Biện pháp sinh học:
- Trồng cây phân xanh: cây phân xanh là loại cây được trồng chủ yếu để làm đất trồng
tốt, để tái tạo chất dinh dưỡng thực vật, chất hữu cơ và cũng rất có ích trong quản lý
trang trại hữu cơ.Chúng thường cố định đạm, tuy nhiên không phải luôn như vậy. Chúng
có thể được trồng cùng với cây trồng khác hoặc được sử dụng như cây che bóng. Chúng
ngăn không cho chất dinh dưỡng bị rửa trôi khỏi đất trồng giữa những mùa vụ
chính.Cây phân xanh giúp:
• Tạo và tái tạo chất dinh dưỡng thực vật và chất hữu cơ.
• Cải thiện cấu trúc đất trồng.
• Cải thiện khả năng giữ nước của đất trồng.
• Kiểm soát xói mòn đất trồng.
Thực tế cho thấy trồng xen băng cây phân xanh theo đường đồng mức như muống
hoa vàng, cốt khí…giữa cây công nghiệp (cà phê, cao su, điều) và cây ngắn ngày (ngô,
lúa nương, sắn…) là biện pháp đơn giản và có hiệu quả trong việc bảo vệ đất, chống xói
mòn, cải tạo độ phì của đất và góp phần tăng năng suất cây trồng. Bên cạnh việc hạn
chế xói mòn đất, cây băng xanh còn ảnh hưởng tích cực đến tính chất lý hóa của đất:
Điều hòa chế độ nhiệt và ẩm độ của đất, cải thiện độ xốp tầng mặt, tăng hàm lượng các
chất dinh dưỡng trong đất thông qua sinh khối hữu cơ trả lại hàng năm.
- Luân canh cây trồng: nhiều loài cây trồng khác nhau được gieo trồng kế tiếp nhau, cây
nọ sau cây kia trên cùng một mảnh đất hay thửa ruộng. Trong luân canh các tính chất lý-
hóa của đất được cải thiện rõ rệt.
Page 10 of 25
Những mặt mạnh :
• Rất có hiệu quả để cải thiện độ phì nhiêu đất.
• Làm giảm sự mất dinh dưỡng.
• Giúp duy trì sản xuất lương thực.
• Đa dạng hóa cây trồng.

• Giúp kiểm soát côn trùng và bệnh tật .
4.2 Các biện pháp canh tác ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường địa chất.
Bên cạnh những hình thức canh tác làm giảm đáng kể tác động của các điều kiện
tự nhiên thì ở một số vùng vẫn còn những hình thức canh tác như: nương rẫy du canh,
độc canh, trồng tỉa theo vụ mưa, trồng chay, chăn thả gia súc trên nương gây ảnh
hưởng tiêu cực đến môi trường địa chất tại đó và ác khu vực lân cận.
4.2.1 Hình thức canh tác nương rẫy du canh.
“Nông nghiệp du canh là những hệ thống nông nghiệp trong đó đất được phát
quang để canh tác trong những thời đoạn ngắn hơn là thời đoạn bỏ hóa” (Colkin, 1957).
Ở Việt Nam có 3 kiểu du canh:
• Du canh tiến triển: phát rừng khai thác kiệt đất, bỏ hẳn nương cũ, phát rừng mới. Khi hết
rừng thì dời bản đi nơi khác. Phương thức này thường thấy ở những nhóm người sống ở
vùng rẻo cao thuộc các dân tộc H’mông, Dao, Cadong, Rục( Xá lá vàng),…
Ví dụ như:
Phương thức du
canh tiến triển của người
H’mông: canh tác từ độ cao 700 m trở lên. Phát đốt
rừng canh tác nương rẫy liên tục trong một số năm ( 3-5
Page 11 of 25
năm tuỳ theo chất lượng
đất rừng) đến khi đất bạc
màu hoàn toàn không có
khả năng canh tác thì bỏ chuyển sang vùng khác còn
rừng, đất tốt.
Hình 2: Xã Thôn Mai, huyện Tương Dương, Tỉnh Nghệ
An.
• Du canh luân hồi: Là
kiểu du canh trên nương rẫy định canh trong khoảng 2-5 năm khi năng suất xuống dưới
mức chấp nhận được thì bỏ hóa khoảng 7-8 năm đến 12-15 năm rồi quay trở lại. Thường
gặp ở người Dao, Ba Na, Ê Đê, Gia Rài

• Du canh bổ trợ: Được thực hiện bởi các cộng đồng cư dân miền núi vùng cao sống chủ
yếu bằng canh tác lúa nước kết hợp làm rẫy trên đồi lân cận lấy nguồn năng lương thực
bổ sung. Các dân tốc sử dụng phương thức này là Mường, Tày, Thái, Nùng
Ta nhận thấy rất rõ sự ảnh hưởng của các phương thức này đến vùng đất nơi
người dân canh tác. Trong thời kỳ bỏ hóa lớp thảm thực vật suy giảm. Tạo điều kiện
Page 12 of 25
thuận lợi cho các tác nhân như gió và nước tạo lên các hiện tượng xói mòn, rửa trôi, lũ
ống, lũ quét
4.2.2 Độc canh là: hình thức mà người dân chỉ trông một loại cây duy nhất trong lần canh tác
đó.
Hình 3: Trồng ngô, sắn độc canh ở Văn Yên và Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Độc canh cũng là một trong nhữg nguyên nhân dẫn đến xói mòn, rửa trôi lớp đất
mặt, vì khi trồng độc canh thì đất ở khoảng cách giữa các gốc cây không có thảm thực
vật che phủ. Bên cạnh đó việc trồng độc canh còn làm cho đất mất cân bằng dinh dưỡng
bởi mỗi loại cây sẽ hút một lượng dinh dưỡng nhất định trong quá trình sống và với nhu
cầu về hàm lượng các chất là khác nhau. Hiện tượng chặt đất cũng một phần do trồng
độc canh nhất là khi trồng độc canh ngô, sắn. . . chặt đất ảnh hưởng nhiều đến tính chất
của đất như: làm tăng dung trọng đất, giảm độ ẩm, độ xốp, độ thoáng khí và cả đến nhiệt
trong đất.
Page 13 of 25
4.2.3 Trồng chay là: hình thức trồng trọt dựa chính vào các tài nguyên sẵn có để cung cấp cho
cây trồng mà không tác động thêm.
Phương thức trồng chay chính là một trong các nguyên nhân làm đất suy thoái
nghiêm trọng bởi trong khi canh tác mà không bổ sung dưỡng chất để bù trả cho đất thì
việc đất bị thoái hóa làm không phục hồi được là điều hiển nhiên.
4.2.4 Chăn thả gia súc quá
mức: là hiện tượng
vật nuôi được người
dân chăn thả tự do
quá mức trên nương

rẫy sau khi thu hoạch.
Hình 4: chăn thả bò ở xã Lê Lơi, Hoành Bồ, Quảng
Ninh.
Page 14 of 25
Sau khi thu hoạch đất đã phải chịu ảnh hưởng của quá trình canh tác, sau đó lại
chịu ảnh hưởng việc gia súc dẫm đạp nhiều làm cho đất bị nén chặt, thực vật tại đó một
phần bị sử dụng phần còn lại chết do bị dẫm đạp nhiều. Vì thế mà thảm thực vật ở đây
suy giảm, đất lại bị biến đổi về tính chất vật lý theo chiều hướng tiêu cực làm cho khả
năng chống chịu với các tác động ngoại cảnh kém là tiền đề cho các quá trình xói mòn,
rửa trôi. . . gây ảnh hưởng đến các vùng lưu vực.
Trong đó quá trình rửa trôi là nguyên nhân trực tiếp gây ra một loạt các quá trình
bất lợi như:
• Suy giảm chất dinh dưỡng khoáng.
Các chất khoáng bị suy giảm như: N, P, K, Ca, Mg. Do quá trình rửa trôi khỏi
tầng mặt xuống chiều sâu của phẫu diện. Quá trình này kéo theo các hạt sét cũng bị dịch
chuyển xuống tầng sâu của phẫu diện tạo một tầng mặt có thành phần cơ giới nhẹ, độ
màu mỡ thấp khả năng hấp phụ trao đổi kém. Ngoài ra các hạt mịn trong khi dịch
chuyển xuống phía dưới sẽ lấp đầy các khe lỗ hổng trong đất tạo tầng chặt bí không
thoát nước.
• Rửa trôi các chất kiềm, kiềm thổ dẫn đến chua hóa đất.
Khi đất bị rửa trôi các cation kiềm, kiềm thổ bị rửa trôi theo. Đồng hành với quá trình
rửa trôi kiềm (Na
+
, K
+
, NH
4
+
) và kiềm thổ (Ca
2+

, Mg
2+
) có quá trình giải phóng các ion
H
+
và Al
3+
vào dung dich. Các ion này sẽ đi vào phức hệ hấp phụ của keo đất ngày càng
Page 15 of 25
nhiều đrr chiếm chỗ trống do kiềm bị rửa trôi ra. Như vậy, keo đất ngày càng bão hòa
các cation H
+
, Al
3+
trở nên chua hơn. Ngoài ra còn có tác động của cây trồng vi sinh vậy
thu hút một cách chọn lọc các nguyên tố và các gốc có khả năng làm tăng pH đất, tiết ra
các axit hữu cơ, cộng với việc sử dụng phân bón làm cho đất canh tác ngày càng chua và
giảm các tính năng của mình.
Tạo ra các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ nghèo dinh dưỡng, có khả năng hấp thụ
trao đổi kém ở tầng mặt, đồng thời chặt bí, kết von, khả năng thấm nước kém ở tầng
dưới.
Xói mòn ảnh hưởng không ít đến sản xuất nông nghiệp và môi trường sinh thái ở
vùng đồi núi nước ta. Ngoài những ảnh hưởng tương tự như rửa trôi thì xói mòn còn gây
ra một số tác động đặc trưng như:
• Xói mòn “vô hình” lấy đi một phần đất lớn.
Trước hết và khó thấy nhất là xói mòn bề mặt, là sự bóc đi đều đặn nhiều hay ít
lớp “đất” mỏng trên diện tích dốc. Khó thấy được vì lượng đất bị lấy đi nhìn thấy được
thường quá nhỏ. Mặc dù vậy xói mòn bề mặt bóc đi lượng lớn đất mặt. Thậm chí một
lớp đất rất mỏng, chỉ dày hơn tờ giấy một chút khi chuyển xuống dốc cũng nặng tới mấy
tấn cho một hecta. Không cần phải mất nhiều năm hay nhiều trận mưa rào mới đủ làm

cho sự xói mòn bề mặt trở nên có ý nghĩa.
Page 16 of 25
Một loại xói mòn thứ hai thấy rõ hơn đó là xói mòn rãnh. Khi trời mưa, đất bị xói
mòn một cách đều đặn và nước mưa tích tụ lại sau đó chảy thành những dòng mạnh,
chảy xuống chỗ đất nào kém bền nhất trở thành đường cho dòng chảy. Lúc này dòng
chảy mặt trở thành những đường rãnh nhỏ. Chúng có thể cắt cánh đồng thành nhiều
mảnh nhỏ hình dạng kỳ cục. Các rãnh này chính là con đường vận chuyển các chất
khoáng, chất mùn, các cation kiềm và kiềm thổ đi nhanh hơn.
Hình 5: Xói mòn rãnh ở Mộc Châu.
• Xói mòn đất tác động đến nguồn nước.
Xói mòn nước không chỉ gây tác hại tại nơi bị xói mòn mà nó còn ảnh hưởng đến
các khu vực phía dưới. Khối đất bị xói từ sườn đồi được đưa xuống để dừng lại ở một
nơi không xa dưới chân dốc hoặc ở một bãi nơi gần đó, ở nói ấy đất có thể vùi lấp cây
trồng hoặc làm giảm màu mỡ của đất bãi. Một phần đất xói lở lắng xuống kênh mương
tưới tiêu nước hoặc hồ chứa, các chi nhánh của dòng chảy, dòng sông. Ở bất cứ đâu đất
Page 17 of 25
lắng xuống đều không tốt lành gì. Lòng, đáy bị tích tụ đầy cần phải nạo vét; các hồ chứa
nước bị đầy hoặc được nạo vét hoặc bỏ đi. Đó là một công việc tai hại và lãng phí.
Hình 6: Xói mòn rãnh làm bồi lấp dòng sông_sông Đà.
Ảnh hưởng còn xảy ra đồi với hạ lưu các con sông, đôi khi ở rất xa vùng bị xói
mòn, nguồn gốc của đất trầm tích. Đất dọc theo sông bị cuốn trôi và lắng dần trên đường
đi. Đất trầm tích nâng độ cao cảu lòng sông làm giảm khả năng chứa nước của con sông.
• Đất bị gió cuốn gây nguy hiểm cho đất đai.
Đất bị gió cuốn là kẻ phá hoại do xói mòn đứng thứ hai sau xói mòn do nước. Lớp
đất mặt theo gió có thể bị đưa đi xa và giống như bị nước cuốn đi, thường đổ bộ xuống
chỗ nào đó. Những đồng ruộng, nhà máy, các công trình xây dựng có thể bị hư hại nặng
do xói mòn gió, đôi khi chúng bị vùi lấp hoàn toàn.
• Sạt đất, trượt lở đất:
Page 18 of 25
Hình 7: Sạt lở ở Trà Giác, huyện vùng

cao Bắc Trà My.
Hình 8: Trượt đất ở Cao Phạ, Mù Cang
Chải, Yên Bái.
Không chỉ làm lấp đất đang sản xuất mà còn làm cho việc định hình một số khu
sản xuất ở vùng đồi núi trở nên thiếu ổn định. Đã quan sát thấy hàng loạt vụ sạt đất cát ở
Mường Khương, Bắc Hà, Văn Bàn (Lào Cai). Những nơi có độ dốc cao tầng đất không
dày, sâu trên 1m đã gặp những tầng đá vụn, đát mỏng và rời rạc khi mưa lớ n nước ngấm
tới lớp đá vụn, đất không bám được vào lớp đá vụn phía dưới bị bong ra, đùn xuống phía
dưới theo trọng lực.
• Lũ bùn, lũ ống, lũ quét:
Kéo theo đá bùn, cuội, sỏi lấp đầy các ruộng lúa trên bình diện 1-2km
2
.
Page 19 of 25
Page 20 of 25
Hình 9: Lũ quét ở xã Nậm Lúc, Bắc Hà, Lào Cai.
5. Biện pháp cải tạo đất dốc.
Để hình thành đất cần khoảng thời gian hàng mấy nghìn năm. Theo như tính toán
của nhà bác học nổi tiếng người Hoa Kỳ là Kh. Bennett thì để hình thành chỉ một lớp đất
có độ sâu 2cm đã đòi hỏi từ 300 năm tới 1000 năm. Vì thế khi canh tác mà không chú ý
đến việc tránh xói mòn, rủa trôi đất; thì chính là một sự lãng phí tài nguyên lớn, đặc biệt
là đất dốc nơi chịu ảnh hưởng nhiều của các tác nhân ngoại cảnh. Vì thế mà ngày nay
các nước trên thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng đã có những phương thức
canh tác bền vững trên đất dốc, đề giảm thiểu sự rửa trôi, xói mòn và các hệ lụy theo sau
mà các quá trình này gây ra.
Hiện nay có những nhóm biện pháp canh tác như sau:
+ các biện pháp canh tác theo đường đồng mức.
+ các biện pháp công trình.
+ các biện pháp canh tác.
+các biện pháp sinh học.

5.1 . Các biện pháp canh tác theo đường đồng mức
Người ta sử dụng 4 kiểu canh tác theo đường đồng mức:
+ Canh tác theo đường đồng mức kết hợp băng _ SALT1: bố trí cây ngắn ngày xen kẽ
cây dài ngày.
+ Hệ thống nông – lâm – đồng cỏ _ SALT2: một phần đất dành cho chăn nuôi và trồng
trọt.
+ Hệ thống canh tác nông – lâm bền vững _ SALT3: trồng rừng với sản xuất lương
thực thực phẩm.
+ Hệ thống sản xuất nông lâm nghiệp với cây ăn quả quy mô nhỏ _ SALT4
Những biện pháp này được áp dụng kỹ thuật tiên tiến nhằm bảo vệ đất và nước trên
đất dốc, phục hồi độ phì của đất, giữ vững kết cấu của đất và đem lại hiệu quả kinh tế,
có điều kiện thu lượng đất trên mỗi bậc thềm, làm giảm chiều dài sườn dốc,
5.2 . Các biện pháp công trình.
Công trình gồm những rãnh và bờ cao, xây dựng dọc theo đường đồng mức, làm
ruộng bậc thang dần hoặc bậc thang ngang, mương dài, mương cụt, giúp ngăn chặn
hiệu quả rửa trôi và xói mòn ở những độ dốc trung bình, giữ lại được chất dinh dưỡng,
ngăn chặn không cho rãnh xói mòn mở rộng và khoét sâu thêm
Đồng thời những biện pháp này còn làm giảm tốc độ quá trình rửa trôi vào rãnh xói
mòn.
5.3. Các biện pháp canh tác.
- Có rất nhiều biện pháp có thể lồng ghép trong suốt quá trình phát hoang, làm đất đến
chăm sóc và thu hoạch:
+ Gieo trồng và làm đất theo đường đồng mức giúp hạn chế xói mòn và rửa trôi.
+ Làm đất tối thiểu hoặc không làm đất làm giảm trực tiếp tác động của hạt mưa trên
đất trống, giảm sự thoái hóa cấu trúc đất và tốc độ khoáng hóa.
+ Che tủ mặt đất làm tăng chất hữu cơ cho đất, cải thiện tính chất lí hóa của đất
5.4. Biện pháp sinh học
Biện pháp này áp dụng trên tất cả các loại độ dốc giúp ngăn chặn sự mất dinh dưỡng
đồng thời làm đất tốt hơn và tăng năng suất cây trồng:
+ Luân canh cây trồng.

+ Trồng cây che phủ giúp giảm nhu cầu sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu.
+ Tăng cường hữu cơ cho đất bằng kinh nghiệm tạo băng phân xanh.
Ngoài những biện pháp kỹ thuật trên cần phải giáo dục , tuyên truyền với cộng đồng
về bảo vệ tài nguyên đất đai đặc biệt là các đồng bào dân tộc thiểu số _ cư dân chủ yếu
trên vùng đất dốc để sử dụng đất đai bền vững và hiệu quả nhất.
III: KẾT LUẬN
Các biện pháp canh tác trên đất dốc thì đều gây lên các ảnh hưởng nhất định đến
môi trường địa chất, không chỉ ở tại đó mà cả ở các khu vực lân cận xung quanh, thậm
chí các vùng cách rất xa nơi canh tác.
Phương thức canh tác du canh nương rẫy kết hợp với trồng thuần, trồng chay là
nguyên nhân chủ yếu gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường địa chất. Bên cạnh đó các
tập tục như chăn thả gia xúc tự do, trồng tỉa theo mùa mưa góp phần tạo điều kiện thuận
lợi cho các tác nhân thiên nhiên tác động đến môi trường địa chất.
Các ảnh hưởng của việc canh tác đến đất dốc sẽ trở thành tích cực nếu con người áp
dụng đúng các biện pháp canh tác như: làm ruộng bậc thang, trồng theo rãnh, trồng tủ
gốc, các công thức luân canh, xen canh cây trồng hợp lý, các mô hình nông lâm kết
hợp. . .trong đó canh tác theo mô hình nông lâm kết hợp đang được chú trọng vì nó
không chỉ có tác động tích cực đến môi trường địa chất mà còn tăng hiệu quả kinh tế cho
đồng bào vùng cao ở nước ta.
IV: Tài liệu tham khảo.
Bài giảng thoái hóa và phục hồi đất, thầy Nguyễn Hữu Thành, bộ môn Khoa học đất,
khoa Tài nguyên và Môi trường, trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
Canh tác đất dốc bền vững, Lê Quốc Doanh,Hà Đình Tuấn,Andre chabanne. Nhà
xuất bản Nông nghiệp, 2006
Xói mòn đất và biện pháp chống. P. X. ZAKHARÔP, người dịch Ngô Quốc Trân.
Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 1981.
Tập san về thổ nhưỡng của FAO, số 50. Giữ cho đất màu mỡ_ Xói mòn đất- Nguyên
nhân và cách khắc phục. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 1992.
Quản lý và sử dụng đất dốc bền vững ở Việt Nam.Nguyễn Công Vinh-Mai Thị Lan
Anh. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội,2011.

http:// vnexpress.net/gl/khoa-hoc/bao-ve-moi-truong/2012/07/song-da-dang-can-kiet-
nuoc/
http ://www.baoquangninh.com.vn/chinh-tri/201109/Trinh-tu-cac-buoc-lap-de-an-xay-
dung-nong-thon-moi-cap-xa-21491 60/
m-project
vietnam.net/vi/d_li_u_nh/cac_h_th_ng_nong_nghi_p/c_nh_quan_nong_nghi_p/chu_i_d
_a_hinh_canh_tac_m_c_chau
http ://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=464273
http ://www.xaluan.com/modules.php?
name=News&file=article&sid=364932#ixzz27xfgNwC7

×