Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Tìm hiểu những ảnh hưởng do sản xuất đúc đồng gây ra đối với môi trường nước và sức khỏe của người dân tại Đại Bái, Gia Bình, Bắc Ninh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 110 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đã và đang có nhiều đóng
góp cho GDP của đất nước nói chung và đối với nền kinh tế nông thôn
nói riêng. Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay đã được khôi phục, đầu
tư phát triển với quy mô và kỹ thuật cao hơn, hàng hóa không những
phục vụ nhu cầu trong nước mà còn cho xuất khẩu với giá trị lớn. Bắc
Ninh là một trong những tỉnh có nhiều làng nghề nhất ở nước ta. Hiện
nay, toàn tỉnh có 62 làng nghề, trong đó có 30 làng nghề truyền thống và
32 làng nghề mới với những sản phẩm nổi tiếng như sắt thép (Đa Hội,
Châu Khê, Từ Sơn), giấy (Phong Khê, Phú Lâm), nấu rượu (Đại Lâm,
Tam Đa), đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ)
Hàng năm, các làng nghề đã đóng góp rất lớn vào ngân sách Nhà
nước, tạo việc làm tại chỗ cho gần 35 nghìn lao động và thu hút hàng
nghìn lao động nông thôn ở các vùng phụ cận. Việc khôi phục các làng
nghề cũ, xây dựng các làng nghề mới, hình thành các cụm công nghiệp
theo ngành nghề xuất phát từ nhu cầu cuộc sống; là mục tiêu, động lực
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông
nghiệp, phù hợp với chủ trương của Đảng và Chính phủ về công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
pg. 1
1
Theo thống kê, Bắc Ninh chiếm 18% số làng nghề và trên 30% số
làng nghề truyền thống của cả nước. Làng nghề Bắc Ninh đóng góp quan
trọng vào tăng trưởng kinh tế địa phương những năm qua. Tính từ năm
1997 đến nay giá trị sản xuất của khu vực làng nghề TTCN chiếm 75 -
80% giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh và trên 30% giá trị
sản xuất công nghiệp của tỉnh, cải thiện đời sống nhân dân, nhiều hộ giàu
có nhờ phát triển nghề truyền thống.(Sở Công Thương Bắc Ninh 2008)
[6].


Song cùng với sự giàu lên nhanh chóng là nạn ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, sản xuất nông
nghiệp và cảnh quan. Kết quả điều tra khảo sát chất lượng môi trường tại
một số làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong các năm gần đây từ
2005 đến 2011 cho thấy các mẫu nước mặt, nước ngầm đều có dấu hiệu ô
nhiễm với mức độ khác nhau; môi trường không khí bị ô nhiễm có tính
cục bộ tại nơi trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho
phép và ô nhiễm do sử dụng nguyên liệu hóa thạch, đất đai bị xói mòn,
thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh.
Đại Bái là một làng nghề truyền thống với nghề đúc đồng nổi tiếng
nằm ven sông Đuống. Đây là một làng nghề truyền thống với các nghề
chính: đúc đồng, đúc nhôm, gò nhôm nhưng gò đúc đồng là chủ yếu. Do
sự phát triển thiếu bền vững cùng công nghệ sản xuất lạc hậu… đã làm
pg. 2
2
suy giảm chất lượng môi trường làng nghề và khu vực xung quanh ảnh
hưởng xấu đến môi trường sinh thái và sức khoẻ người dân.
Trước tình hình môi trường làng nghề đang bị ô nhiễm nghiêm
trọng tôi đã thực hiện khóa luận: “Tìm hiểu những ảnh hưởng do sản
xuất đúc đồng gây ra đối với môi trường nước và sức khỏe của người
dân tại Đại Bái, Gia Bình, Bắc Ninh” dưới sự hướng dẫn của giảng
viên ThS. Dương Thị Thanh Hà - giảng viên trường Đại Học Nông Lâm
Thái Nguyên.
1.2. Mục Đích của đề tài
- Đánh giá hiện trạng môi trường nước từ hoạt động đúc đồng của
làng nghề đúc đồng Đại Bái.
- Tìm hiểu những ảnh hưởng do sản xuất đúc đồng gây ra đối với
môi trường nước và sức khỏe của người dân tại Đại Bái, Gia Bình, Bắc
Ninh
1.3. Mục tiêu của đề tài

- Đánh giá hiện trạng môi trường nước tại làng nghề đúc đồng Đại
Bái.
- Xác định mức độ ô nhiễm nguồn nước tại làng nghề
- Tìm hiểu những ảnh hưởng của môi trường nước làng nghề tới
sức khỏe người dân.
- Đề xuất một số giải pháp giảm thiếu ô nhiễm môi trường nước tại
làng nghề đúc đồng Đại Bái.
pg. 3
3
1.4. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa trong học tập
- Tạo cho sinh viên cơ hội nâng cao kiến thức, tiếp cận với thực
tiễn, vận dụng lý thuyết đã học vào thực tế, rèn luyện kỹ năng tổng hợp
và phân tích số liệu
- Quá trình thực hiện đề tài, sinh viên được đóng vai trò như một
cán bộ tập sự, làm bước đệm chuẩn bị cho công việc trong tương lai.
* Ý nghĩa trong quản lý môi trường.
- Nâng cao công tác quản lý môi trường làng nghề tại địa phương.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài nghiên cứu vấn đề môi trường nước, một vấn đề bức xúc
của người dân địa phương.
- Các số liệu thu thập, tổng hợp, phân tích được phải chính xác có
thể sử dụng làm căn cứ để đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện
thực tế của địa phương.
- Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân trong các làng
nghề nói chung và người dân tại làng nghề đúc đồng Đại Bái nói riêng.
pg. 4
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học
Một số khái niệm về môi trường, nguồn nước, ô nhiễm nguồn
nước và Làng Nghề.
* Khái niêm về môi trường
Theo UNESCO, môi trường được hiểu là “Toàn bộ các hệ thống tự
nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó
con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài
nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của
con người”
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo Vệ Môi trường ngày 29 tháng 11 năm
2005 quy định: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật
chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có
ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
sinh vật”
* Ô nhiễm môi trường
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới ( WHO ) thì “ Ô nhiễm
môi trường là sự đưa vào môi trường các chất thải nguy hại hoặc năng
lượng đến mức ảnh hưỏng tiêu cực đến đời sống sinh vật, sức khỏe con
người hoặc làm suy thoái chất lượng môi trường”.
pg. 5
5
Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của thành phần môi trường
không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con
người và sinh vật.(Luật Bảo Vệ Môi Trường Việt Nam, 2005)[4].
* Khái niệm tiêu chuẩn môi trường
Là các giá trị được ghi nhận trong các quy định chính thức, xác
định nồng độ tối đa cho phép của các chất trong thức ăn, nước uống,
không khí; hoặc giới hạn chịu đựng của con người và sinh vật với các yếu
tố môi trường xung quanh.
Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về

chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm
trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn
cứ để quản lý và bảo vệ môi trường .(Luật Bảo Vệ Môi Trường Việt
Nam, 2005) [4]
* Khái niệm bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành
sạch xẽ, phòng ngừa hạn chế các tác động xấu tới môi trường, ứng phó sự
cố môi trường , khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi
trường , khai thác sử dụng hợp lí và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ đa dạng sinh học.(Luật Bảo Vệ Môi Trường Việt Nam, 2005)[4]
* Khái niệm ô nhiễm môi trường nước
pg. 6
6
S ụ nhim mụi trng nc l s thay i thnh phn v tớnh cht
ca nc gõy nh hng n hot ng sng bỡnh thng ca con ngi v
sinh vt.
Theo hin chng Chõu u ễ nhim mụi trng nc l s bin
i ch yu do con ngi gõy ra i vi cht lng nc lm ụ nhim
nc v gõy nguy hi cho vic s dng, cho nụng nghip, cho cụng
nghip, nuụi cỏ, ngh ngi, gii trớ, cho ng vt nuụi cng nh cỏc loi
hoang dó.
* Khỏi nim v nc ngm
Nc ngm l mt dng nc di t, tớch tr trong cỏc lp t ỏ
trm tớch b ri nh cn, sn, cỏt bt kt, trong cỏc khe nt, hang caxt di
b mt trỏi t, cú th khai thỏc cho cỏc hot ng sng ca con ngi
* Khỏi nim nc thi
Nc thi l cht lng c thi ra sau quỏ trỡnh s dng ca con
ngi v ó b thay i tớnh cht ban u ca chỳng.
* Mt s khỏi nim v lng ngh.
Khái niệm làng nghề đợc hiểu theo nhiều cách thức khác nhau. Các

nhà nghiên cứu đã đa ra nhiều quan niệm về làng nghề, dới đây là một số
quan niệm.
- Lng ngh l hỡnh thc phõn cụng gia cụng nghip v nụng
nghip sm nht trong nụng thụn. T ú phỏt huy ni lc, huy ng tim
nng cỏc h trong nụng thụn phỏt trin l u th ca lng ngh, l mt
pg. 7
7
giải pháp cơ bản nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.(Đặng Kim
Chi và cộng sự, 2006)[2]
- Làng nghề là các làng nông thôn Việt Nam đang tồn tại hoạt động
của các nghề tiểu thủ công, phi nông nghiệp có ít nhất 30% so với tổng số
hộ và lao động ở làng nghề có ít nhất 300 lao động nhưng đóng góp ít
nhất 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng, doanh thu
hàng năm từ nghành nghề ít nhất 300 triệu đồng.(Đặng Kim Chi và cộng
sự, 2006)[2]
- Làng nghề được phân thành làng một nghề, làng nhiều nghề, làng
nghề truyền thống và làng nghề mới
+ Làng một nghề là những làng ngoài nghề nông ra chỉ còn thêm
một nghề thủ công nghiệp duy nhất chiếm ưu thế tuyệ đối ví dụ như: làng
gốm bát tràng, lụa vạn phúc…
+ Làng nhiều nghề là những làng ngoài nghề nông ra thì còn có
thêm một số nghề thủ công nghiệp như: Ninh Hiệp, Đình Bảng…
+ Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời
trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tại
hàng trăm năm thậm chí hàng nghìn năm.
+ Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan
tỏa của các làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt
trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển dịch sang kinh tế thị trường.(Đặng
Kim Chi, 2005)[3]
pg. 8

8
* Tiêu chí công nhận làng nghề, làng nghề truyền thống.
Theo thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của
BNN&PTNT hướng dẫn một số nội dung của Nghị Định số 66/2006/NĐ-
CP ngày 07/07/2006 của chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn,
một tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề và làng nghề truyền
thống như sau:
 Tiêu chí công nhận làng nghề
Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn;
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến
thời điểm đề nghị công nhận;
- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
 Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất
một nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư này.
Đối với những làng chưa đạt tiêu chuẩn của tiêu chí công nhận làng
nghề nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được công nhận theo quy
định của Thông tư này thì cũng được công nhận là làng nghề truyền
thống.
pg. 9
9
2.2. Cơ sở pháp lý
- Luật BVMT do Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam thông qua mgày 29/11/2005.
- Luật Tài nguyên nước do Quốc Hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005.
- Luật Quy Chuẩn và Quy chuẩn kĩ Thuật do Quốc Hội Nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày 29/6/2006.

- Nghị Định số 179/1999/ NĐ-CP của Chính phủ quy định việc thi
hành Luật Tài nguyên nước.
- Nghị định số 80/2006/NĐ - CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về
việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
BVMT.
- Nghị định số 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Thủ Tướng
Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT.
- Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/08/2007 của Chính phủ
về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Tiêu
chuẩn và Quy chuẩn kĩ thuật.
- Nghị định số 34/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định xử
phạt hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước.
- Quyết định số 22/2006/QĐ-BTNMT ngày 18/08/2006 của Bộ Tài
Nguyên và Môi Trường về việc áp dụng các tiêu chuẩnViệt Nam về Môi
Trường.
pg. 10
10
- Quyết định 18/2008QĐ-BTNMT ngày 31/12/2008 của Bộ Tài
Nguyên và Môi Trường về việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật Quốc Gia
về môi trường (QCVN 08/2008/BTNMT).
* Các tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam.
- TCVN 5942:1995 Chất lượng nước - Tiêu chuẩn nước mặt.
- TCVN 5992:1995 Chất lượng nước - Lấy mẫu - Hướng dẫn kĩ
thật lấy mẫu.
- TCVN 5993:1995 Chất lượng nước - Lấy mẫu - Hướng dẫn bảo
quản và xử lý mẫu.
- TCVN 6001:1995 (ISO 5815:1989) - Chất lượng nước - Xác định
nhu cầu oxi hóa sau 5 ngày (BOD5).Phương pháp cấy và pha loãng.
- TCVN 6491:1999 (ISO 6060:1989) Chất lượng nước - Xác định
nhu cầu oxi hóa học (COD).

- QCVN 08:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về môi
trường
- QCVN 14:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia nước
thải sinh hoạt.
- QCVN 24:2009/BTNMT Quy chuẩn Quốc gia về chất lượng
nước thải công nghiệp.
2.3. Cơ sở lý luận
Nước là khởi nguồn của sự sống của vi sinh vật trên Trái Đất,
không có nước thì không có sự sống. Tài nguyên nước là tài nguyên quan
pg. 11
11
trọng hàng đầu phục vụ cho con người nhưng cùng với đó nước cũng kéo
theo những mối nguy hiểm hàng đầu với các thảm họa tự nhiên như lũ
lụt, bão, hạn hán…
Vấn đề tài nguyên nước là vấn đề không chỉ của một quốc gia vì
nước không chỉ chảy trong phạm vi một quốc gia mà là vấn đề liên quốc
gia hay thế giới. Bảo vệ tài nguyên nước là vấn đề liên quan tới chính trị,
ngoại giao và nhân văn. Vì vậy các quốc gia phải có cách cư xử đúng
mực trong việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước vì quyền lợi chung.
Hện nay trên phạm vi toàn cầu con người đã sử dụng 8% trong
tổng số nước ngọt được khai thác cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp,
63% cho nông nghiệp. Ở Việt Nam theo chiến lược cấp nước đến năm
2010, để phục vụ cho nông nghiệp cần khoảng 80 triệu m3, cho sinh hoạt
cần 6-8 triệu m
3
và 15 triệu m3 cho công nghiệp. Tổng số nước cần từ 90
đến 105 triệu m
3
chiếm khoảng 30% lượng nước sản sinh trên lãnh thổ
Việt Nam.(Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh, 2010)[9]

Tài nguyên nước là một trong bốn nguồn lực cơ bản và đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của bất kì quốc gia nào
trên thế giới. Cùng với sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế thì nhu cầu
về sử dụng nguồn nước cũng tăng cao kéo theo những vấn đề mới như ô
nhiễm môi trường nước.
Việc tăng lượng nước sử dụng không đồng nghĩa với chất lượng
nước gia tăng mà ngược lại. Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam đã làm gia
pg. 12
12
tăng lượng nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt mà đa phần
trong số chúng không được sử lý trước khi thải ra môi trường mà thải trực
tiếp nên gây ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng xấu tới đời sống con người,
ảnh hưởng tới quá trình phát triển bền vững và môi trường.
Như vậy có thể thấy rằng, nước là nguồn tài nguyên có vai trò rất
lớn trong cuộc sống của con người và sinh vật. Tuy nhiên hiện nay nguồn
nước cũng đang bị suy thoái và bị ô nhiễm ảnh hưởng tới trữ lượng và
chất lượng nước, ảnh hưởng tới bản thân chúng ta. Vì vậy bảo vệ tài
nguyên nước là nhiệm vụ rất cần thiết, là trách nhiệm chung của toàn thể
nhân loại không phân biệt quốc gia, màu da, lứa tuổi…
2.4. Vài nét về làng nghề và môi trường làng nghề Việt Nam
2.4.1. Lịch sử phát triển và vai trò của làng nghề Việt Nam
* Lịch sử phát triển các làng nghề Việt Nam.
Sự thành lập và phát triển của làng nghề tại Việt Nam phụ thuộc
vào từng thời kỳ phát triển kinh tế. Trong lịch sử phát triển của xã hội
Việt Nam, sản xuất giấy tại Yên Thái, làng lụa Vạn Phúc, sản xuất gốm
sứ Bát Tràng và làng tranh Đông Hồ đóng vai trò quan trọng trong nền
văn minh của người Việt Nam.
 Quá trình phát triển làng nghề gồm các giai đoạn sau
Thời Phùng Nguyên: khoảng thiên niên kỷ thứ III trước Công
nguyên, người Việt cổ đã phát minh và sáng chế ra hầu hết các kỹ thuật

pg. 13
13
chế tác đá, gốm mà đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi như: khoan, mài
đá,…
Thời Đông Sơn: từ gần 3000 năm đến 258 trước Công nguyên,
người Việt Đông Sơn đã phát minh ra công thức đồng thau, đồng thanh,
và một số sản phẩm độc đáo của nghề đúc đồng đương thời.
Thời kỳ Bắc thuộc: tuy bị cấm đoán, một số yếu tố kỹ thuật vẫn
tiếp tục vươn lên và kinh nghiệm sản xuất của người Hán vẫn được du
nhập vào Việt Nam như nghề làm gốm, rèn sắt,…Khi Ngô Quyền chiến
thắng quân Nam Hán, nghề của Việt Nam mới dần dần được khôi phục
và phát triển.
Thời kỳ độc lập tự chủ (thế kỷ XI-XIV) dưới triều đại nhà Lý và
nhà Trần, nghề thủ công truyền thống có điều kiện phát triển cả về chất
lượng và chủng loại như nghề gốm, chạm khắc gỗ và đá, giấy dó, làng
kim hoàn….
Thời hậu Lê và thời Mạc (thế kỷ XV-XVIII) làng nghề thủ công
tiếp tục ra đời và sản xuất ổn định.
Thời cận đại (từ 1858 trở về trước), thủ công nghiệp và làng nghề
truyền thống ở nông thôn tiếp tục phát triển. Nghề thủ công có vai trò hết
sức quan trọng, thường được gắn với tên làng tên xã của nông thôn Việt
Nam như gốm Thổ Hà, gạch Bát Tràng, tranh dân gian Đông Hồ,…Sự
phát triển của làng nghề truyền thống thời kỳ này khá phong phú và đa
pg. 14
14
dạng, thể hiện sự phân công lao động và chuyên môn hoá theo nghề ngày
càng cao.
Thời Pháp thuộc (1945-1958): chính quyền Pháp ở Đông Dương
đóng vai trò chủ đạo trong việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt
Nam. Chúng cũng đã tiến hành điều tra, khảo sát, đầu tư phát triển các

ngành thủ công của Việt Nam.
Thời kỳ hoà bình lập lại ở miền Bắc: đi đôi với chủ trương đẩy
mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, phục hồi và xây dựng công
nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá đúng vai trò của làng nghề
truyền thống trong tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy đến
những năm 1960 các làng nghề ở nông thôn thực sự được phục hưng,
thực sư góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có bước phát triển mới.
Trong giai đoạn đổi mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, đây là giai đoạn phát triển quan trọng nhất của làng
nghề. Giai đoạn này được đánh dấu bằng bước ngoặt chuyển đổi từ cơ
chế quản lý bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước. Các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách đổi mới quản lý trong
nông nghiệp và chính sách phát triển các thành phần kinh tế đã có tác
động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn nói chung và làng nghề nói riêng. Trong giai đoạn này nhiều làng
nghề truyền thống được khôi phục và phát triển, trong mỗi làng nghề quy
pg. 15
15
mô sản xuất được mở rộng, đầu tư về vốn, kỹ thuật được tăng cường.
(Trần Thị Ninh, 2009)[5]
2.4.2. Phân bố làng nghề
Do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như vị trí địa lý, đặc
điểm tự nhiên, mật độ phân bố dân cư, điều kiện xã hội và truyền thống
lịch sử, sự phân bố và phát triển làng nghề giữa các vùng của nước ta là
không đồng đều, thông thường tập trung vào những khu vực nông thôn
đông dân cư nhưng ít đất sản xuất nông nghiệp, nhiều lao động dư thừa
lúc nông nhàn.
Theo thống kê của Hiệp Hội Làng Nghề Việt Nam năm 2010 cả
nước đã có khoảng 2790 làng nghề, làng nghề phân bố tập trung chủ yếu

ở đồng bằng sông Hồng (chiếm khoảng 60%); còn lại là miền Trung
(chiếm khoảng 30%) và miền Nam (khoảng 10%).
Hình 2.1: Biểu đồ tỷ lệ làng nghề theo khu vực ở Việt Nam
pg. 16
16
Theo ước tính, trong vòng 10 năm qua, làng nghề nông thôn Việt
Nam đã có tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình khoảng 8% năm, tính
theo giá trị đầu ra. Sản phẩm và phương thức sản xuất của các làng nghề
rất phong phú và đa dạng với hàng trăm loại nghề khác nhau.
Việc phân loại nhóm ngành như trên dựa trên các yếu tố tương
đồng về công nghệ sản xuất, nguyên vật liệu, sản phẩm và thị trường tiêu
thụ của các làng nghề. Ta thấy, đồng bằng Sông Hồng (ĐBSH) là vùng
tập trung nhiều làng nghề nhất, tiếp theo là Bắc Trung Bộ, Nam Trung
Bộ.
2.4.3. Phân loại làng nghề
Dựa trên các tiêu chí khác nhau, có thể phân loại làng nghề theo
một số dạng như sau:
- Theo làng nghề truyền thống và theo làng nghề mới
- Theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm
- Theo quy mô sản xuất, theo quy trình công nghệ
- Theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm
- Theo mức độ sử dụng nguyên nhiên liệu
- Theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại và phát triển
Mỗi cách phân loại nêu trên có những đặc thù riêng và tùy theo
mục đích mà có thể lựa chọn cách phân loại phù hợp. Trên cơ sở tiếp cận
vấn đề môi trường làng nghề, cách phân loại theo ngành sản xuất và loại
hình sản phẩm là phù hợp hơn cả, vì thực tế cho thấy mỗi ngành nghề,
pg. 17
17
mỗi sản phẩm đều có những yêu cầu khác nhau về nguyên nhiên liệu, quy

trình sản xuất khác nhau, nguồn và dạng chất thải khác nhau, và vì vậy có
những tác động khác nhau đối với môi trường.
Dựa trên các yếu tố tương đồng về ngành sản xuất, sản phẩm, thị
trường nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm có thể chia hoạt động làng
nghề nước ta ra thành 6 nhóm ngành nghề chính (Hình 2.2), mỗi ngành
chính có nhiều ngành nhỏ. Mỗi nhóm ngành làng nghề có các đặc điểm
khác nhau về hoạt động sản xuất sẽ gây ảnh hưởng khác nhau tới môi
trường.
Hình 2.2: Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất
(Bộ TN&MT, 2008) [1]
* Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ:
Có số làng nghề lớn, chiếm 20% tổng số làng nghề, phân bố khá
đều trên cả nước, phần nhiều sử dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu
cầu trình độ cao, hình thức sản xuất thủ công và gần như ít thay đổi về
quy trình sản xuất so với thời điểm hình thành làng nghề. Phần lớn các
làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm nước ta là các làng nghề thủ
pg. 18
18
công truyền thống nổi tiếng như nấu rượu, làm bánh đa nem, đậu phụ,
miến dong, bún, bánh đậu xanh, bánh gai,… với nguyên liệu chính là gạo,
ngô, khoai, sắn, đậu và thường gắn với hoạt động chăn nuôi ở quy mô gia
đình
* Làng nghệ dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da:
Nhiều làng có từ lâu đời, có các sản phẩm mang tính lịch sử, văn
hóa, mang đậm nét địa phương. Những sản phẩm như lụa tơ tằm, thổ
cẩm, dệt may,…không chỉ là những sản phẩm có giá trị mà còn là những
tác phẩm nghệ thuật được đánh giá cao. Quy trình sản xuất không thay
đổi nhiều, với nhiều lao động có tay nghề cao. Tại các làng nghề nhóm
này, lao động nghề thường là lao động chính (chiếm tỷ lệ cao hơn lao
động nông nghiệp)

* Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá:
Hình thành từ hàng trăm năm nay, tập trung ở vùng có khả năng
cung cấp nguyên liệu cơ bản cho hoạt động xây dựng. Lao động gần như
hoạt động thủ công hoàn toàn, quy trình công nghệ thô sơ, tỷ lệ cơ khí
hóa thấp, ít thay đổi. Khi đời sống được nâng cao, nhu cầu về xây dựng
nhà cửa, công trình ngày càng tăng, hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng
phát triển nhanh và tràn lan ở các vùng nông thôn. Nghề khai thác đá
cũng phát triển ở những làng gần các núi đá vôi được phép khai thác,
cung cấp nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất sản phẩm thủ công mỹ
nghệ và vật liệu xây dựng.
pg. 19
19
* Làng nghề tái chế phế liệu:
Chủ yếu các làng nghề mới hình thành, số lượng ít nhưng lại phát
triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế (chất thải kim loại, giấy, nhựa,
vải đã qua sử dụng). Ngoài ra, các làng nghề cơ khí chế tạo và đúc kim
loại với nguyên liệu chủ yếu là sắt vụn, sắt thép phế liệu cũng được xếp
vào loại hình làng nghề này. Đa số các làng nghề nằm ở phía Bắc, công
nghệ sản xuất đã từng bước được cơ khí hóa.
* Làng nghề thủ công mỹ nghệ:
Bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ thủy tinh mỹ nghệ; chạm
khắc đá, mạ bạc vàng, sản xuất mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài,
làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ trọng lớn
về số lượng (gần 40% tổng số làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản
phẩm có giá trị cao, mang đậm nét văn hóa, và đặc điểm địa phương, dân
tộc. Quy trình sản xuất gần như không thay đổi, lao động thủ công, nhưng
đòi hỏi tay nghề cao, chuyên môn hóa, tỉ mỉ và sáng tạo.
* Các nhóm ngành khác:
pg. 20
20

Bao gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ như cày bừa, cuốc
xẻng, liềm hái, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây thừng, đan vó,
đan lưới, làm lưỡi câu,…Những làng nghề nhóm này xuất hiện từ lâu, sản
phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương.
Lao động phần lớn là thủ công với số lượng và chất lượng ổn định.(Bộ
TN&MT, 2008) [1]
2.4.4. Hiện trạng kinh tế - xã hội làng nghề ở Việt Nam
 Dân số và lao động
Dân số trung bình cả nước năm 2010 ước tính khoảng 86,93 triệu
người. Trong đó dân số khu vực nông thôn là 60,92 triệu người chiếm
70,1% tăng 0,63% so với năm 2009. Dân số tham gia lao động tại các
làng nghề khoảng hơn 10 triệu lao động thường xuyên và khoảng hơn 4,5
triệu lao động thời vụ chiếm khoảng 29% lực lượng lao động nông thôn.
Số cơ sở sản xuất trong các làng nghề là khoảng 50.800 cơ sở trong
đó 80,05% là cơ sở quy mô hộ gia đình, 6,0% cơ sở quy mô hợp tác xã và
còn lại là hình thức xí nghiệp tư nhân, công ty TNHH…
- Quan hệ sản xuất - lực lượng lao động: Quan hệ tư hữu gắn với
quan hệ gia đình, dòng tộc và bà con trong làng là chủ yếu, một số làng
nghề phát triển có sử dụng nhân công từ các nơi khác đến.
- Hiện trạng quy hoạch làng nghề: Mô hình tự phát các cơ sở sản
xuất nhỏ xen lẫn khu dân cư hoặc tập trung thành từng cụm. Phần lớn
không còn ranh giới rõ ràng giữa khu sản xuất làng nghề theo hướng công
pg. 21
21
nghiệp hóa nông thôn. Nhiều địa phương đã quy hoạch, sắp xếp lại sản
xuất, xây dựng các khu công nghiệp làng nghề tập trung để tránh sự phát
triển tự phát, thiếu quy hoạch sẽ tạo điều kiện phá hủy môi trường sinh
thái.
- Trình độ công nghệ và thiết bị: Công nghệ đã được cải thiện đáng
kể những năm gần đây nhưng phần lớn công nghệ vẫn lạc hậu, thủ công,

thiết bị cũ chắp vá, thiếu đồng bộ. Trình độ tay nghề không đồng đều
trong các loại hình sản xuất, thiếu công nhân lành nghề được đào tạo
toàn diện, thiếu nghệ nhân. Truyền nghề qua kinh nghiệm và tự học hỏi.
Chính sự yếu kém này đã hạn chế năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu
quả sản xuất do đó đã làm giảm khả năng cạnh tranh.
- Cơ sở hạ tầng tại các làng nghề: Chính tính phân tán, tự phát, quy
mô nhỏ sẽ hạn chế việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ( đường xá trạm
điện cấp thoát nước…) cà đặc biệt khó khăn trong việc quản lý chất thải
(xử lý, thu gom…) để giảm thiểu ô nhiễm, caiir thiện môi trường. Tuy
nhiên cùng với sự phát triển của nông thôn Việt Nam, đa số các làng nghề
tập trung ở đồng bằng đều đã có “điện, đường, trường, trạm” tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất, giao thông và thông tin.
- Vấn đề xã hội tại các làng nghề: Phát triển sản xuất tại các làng
nghề đã mang lại lợi ích không chỉ về kinh tế mà còn là mối quan hệ tình
làng nghĩa xóm tốt lên do tao công ăn việc làm cho bà con láng giềng.
Mọi người gắn bó với nhau hơn. Nhiều phong tục truyền thống được
pg. 22
22
phục hồi như hội làng, giỗ tổ của nghề… đóng góp xây dựng nhà tình
nghĩa, nghĩa trang, trường học. Tuy nhiên cũng xuất hiện nhiều tiêu cực
như cờ bạc, rượu chè hay cạnh tranh mối hàng trong sản xuất.
2.4.5. Hiện trạng mơi trường làng nghề Việt Nam
Các chất thải phát sinh tại nhiều làng nghề đã và đang gây ô
nhiễm và làm suy thoái môi trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp
tới sức khỏe người dân và ngày càng trở thành vấn đề bức xúc. Ô
nhiễm môi trường làng nghề có một số đặc điểm sau:
Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán
trong phạm vi một khu vực (thôn, làng, xã, ). Do quy mô sản xuất
nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh hoạt nên đây là loại hình ô
nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.

Ô nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của
hoạt động sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác
động trực tiếp tới môi trường nước, khí, đất trong khu vực.
 Hiện trạng ô nhiễm mơi trường không khí tại các làng nghề
 Các làng nghề tái chế phế liệu: ô nhiễm không khí diễn ra
khá nặng nề. Môi trường khu vực sản xuất ở các làng nghề tái chế
(đặc biệt là tái chế kim loại và tái chế nhựa) hiện nay đang bò ô
nhiễm nặng nề. Ngoài ô nhiễm không khí do đốt nhiên liệu, thể hiện ở
pg. 23
23
các thông số ô nhiễm như bụi, SO
2
, CO, NO
x
, quá trình tái chế và
gia công cũng gây phát sinh các khí độc như hơi axit, kiềm, oxit kim
loại (PbO, ZnO, Al
2
O
3
) và gây ô nhiễm nhiệt.(Bộ TN&MT 2008)[1]
 Các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: ô
nhiễm không khí diễn ra phổ biến
Trong nhóm làng nghề này, ở các làng nghề vật liệu xây dựng,
chất lượng không khí bò suy giảm chủ yếu do khí thải từ đốt nhiên
liệu. Trong khi đó, ở các làng nghề khai thác đá, bụi phát sinh từ quá
trình khai thác và chế tác đá là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô
nhiễm không khí ở đây.
Đặc biệt, hàm lượng các chất ô nhiễm không khí thường rất
cao xung quanh khu vực sản xuất. Kết quả khảo sát ở khu vực sản

xuất làng nghề cho thấy, hàm lượng bụi đều vượt TCVN từ 3-8
lần, hàm lượng SO
2
có nơi vượt đến 6,5 lần.(Bộ TN&MT 2008)[1]
 Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và
giết mổ: ô nhiễm không khí đặc trưng do sự phân huỷ các chất hữu
cơ không chỉ do sử dụng nhiên liệu mà còn do sự phân hủy các chất
hữu cơ trong nước thải, chất thải rắn tạo nên các khí như SO
2
, NO
2
,
pg. 24
24
H
2
S, NH
3
, CH
4

và các khí ô nhiễm gây mùi tanh thối khó chòu, nhất
là ở các cơ sở chăn nuôi và giết mổ gia súc, gia cầm.
 Các làng nghề ươm tơ, dệt vải và thuộc da: ô nhiễm không
khí cục bộ. Tại các làng nghề này, khu vực sản xuất của làng nghề
dệt nhuộm thường bò ô nhiễm bởi các thông số như bụi, SO
2
, NO
2,
môi trường vi khí hậu ở các làng nghề dệt thường bò ô nhiễm bởi

tiếng ồn do các máy dệt thủ công. Mức ồn vượt TCVN từ 4 đến 14
dBA.(Bộ TN&MT 2008)[1]
 Các làng nghề thu công mỹ nghệ, thêu ren: ô nhiễm không
khí thường chỉ xảy ra tại một số làng nghề chế tác đá và sản xuất
mây tre đan.
Trong số các làng nghề thủ công mỹ nghệ, môi trường không
khí xung quanh khu vực sản xuất của làng nghề chế tác đá bò ô
nhiễm nghiêm trọng do bụi đá và tiếng ồn. Đặc biệt, trong bụi phát
sinh từ hoạt động chế tác đá còn chứa một lượng không nhỏ SiO
2
(0,56-1,91% tại làng nghề đá Non Nước - Đà Nẵng) rất có hại cho
sức khoẻ.Trong khi đó, tại làng nghề sản xuất mây tre đan, không khí
thường bò ô nhiễm bởi SO
2.
(Bộ TN&MT 2008)[1]
 Hiện trạng mơi trường nước thải sản xuất ở các làng nghề
pg. 25
25

×