Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Tìm hiểu một số mô hình sản xuất cây hàng năm thích ứng với biến đổi khí hậu trên chân đất cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 76 trang )

1

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Khí hậu đang thay đổi trên toàn thế giới, nguyên nhân chính là hiện tượng tự
nhiên kết hợp với sự tác động của con người [19]. Sự thay đổi khí hậu này đã ảnh đến
điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cả chiến lược phát triển của một đất nước [20].
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước chịu ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu[15]. Trong đó, hiện tượng mặn xâm lấn và hạn hán là hai vấn đề nổi bật đầu
tiên tác động trực tiếp vào đới sống người dân [18].
Dân số Việt Nam có khoảng 3/4 dân số sống ở nông thôn và 2/3 dân số phụ
thuộc vào sản xuất nông nghiệp thì việc đối mặt với sự thay đổi này là điều khó khăn
đối với Việt Nam[8]. Nông nghiệp là ngành chịu tác động trực tiếp của khí hậu và là
ngành dễ tổn thương nhất của biến đổi khí hậu[25]. Chiến Lược thích ứng của ngành
nông nghiệp với sự biến đổi này là việc cần phải làm đối với chúng ngay từ bây giờ.
Biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ tiếp tục tác động mạnh mẽ lên tự nhiên và con
người Việt Nam cũng như Thừa Thiên Huế [6]. Tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích tự
nhiên hơn 5.000 km2, với diện tích đất canh tác hơn 500.000 hecta, chia thành 3 vùng
sinh thái khác nhau: Vùng sinh thái đồi núi, vùng sinh thái đồng bằng, vùng sinh thái
ven biển. Vùng sinh thái ven biển trãi dài trên nhiều huyện với diện tích hơn 48.400
hecta đất cát, trong đó cồn cát là 8.392 hecta và đất cát ven biển là 40.016 hecta chiếm
diện tích khá lớn của tỉnh. Người dân sống trên vùng đất cát ven biển chủ yếu sống dựa
vào nông nghiệp, thu nhập thấp vì hoạt động sinh kế của họ bị hạn chế do đặc thù của
vùng là đất cát, khả năng giữ ẫm kém, đất bị nhiễm mặn, chua phèn, thường xảy ra lũ lụt
vào thời gian cuối năm - đầu năm sau, hạn hán vào mùa hè do vậy thời vụ trồng trọt
trong năm ngắn. Điều kiện thời tiết khí hậu miền Trung lại khắc nghiệt nên chỉ phù hợp
để trồng cây lương thực hoặc cây rau màu ngắn ngày và có khả năng chịu hạn tốt [5].
Trước vấn đề đó, nhằm tìm hiểu, đánh giá sự tác động của biến đổi khí hậu đến
quá trình sản xuất nông nghiệp và sự thích ứng của người dân, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu một số mô hình sản xuất cây hàng năm thích ứng với
biến đổi khí hậu trên chân đất cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế”.


Mục đích, yêu cầu của đề tài
* Mục đích
Xác định, phân tích tác động và hoạt động ứng với biến đổi khí hậu của người dân
trong sản xuất cây hàng năm trên chân đất cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
* Yêu cầu
- Thu thập đầy đủ các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng
nghiên một cách đầy đủ, chính xác, khoa học, các tiêu chí phải thống nhất và có tính hệ
thống.


2

- Xác định, phân tích tác động và hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu của
người dân trong sản xuất cây hàng năm trên chân đất cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế
một cách khách quan, khoa học và phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
- Tìm hiểu một số mô hình sản xuất cây hàng năm thích ứng với biến đổi khí
hậu của người dân tại vùng nghiên cứu.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
* Ý nghĩa khoa học
Đề tài sẽ bổ sung thông tin về biến đổi khí hậu tác động đến hoạt động sản xuất
trồng trọt trên chân đất cát ven biển ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
* Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài xác định một số mô hình sản xuất cây hàng năm trên chân đất cát hiệu
quả, thích ứng với biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ tiếp tục tác động đến sản xuất nông
nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đề tài là cơ sở để nhân rộng mô hình sản xuất cây hàng năm trên chân đất cát
thích ứng với biến đổi khí hậu cho vùng cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nông dân tham gia các hoạt động sản xuất

nông nghiệp ở vùng cát ven biển Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, các cán bộ các cấp thuộc
các lĩnh vực liên quan như Trạm Khí Tượng Thủy Văn Tỉnh, cán bộ nông nghiệp và
những người am hiểu ở địa phương về vấn đề biến đổi khí hậu và có kinh nghiệm trong
sản xuất nông nghiệp cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
+ Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông
nghiệp và cây hàng năm trên chân đất cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Nghiên cứu khả năng thích ứng của người dân trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp và cây hàng năm với biến đổi khí hậu vùng ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi về không gian
+ Nghiên cứu tập trung vào các hộ sống ven biển, có hoạt động sản xuất cây
hàng năm trên chân đất cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Hai xã Phú Đa, huyện Phú Vang và xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế được lựa chọn khảo sát và nghiên cứu. Lý do chọn hai xã này làm
điểm nghiên cứu vì đây là các xã ven biển có diện tích đất sản xuất nông nghiệp chủ
yếu là đất cát nội đồng. Đây là những xã vùng trũng, với tính chất đất cát, nên rất dễ bị
lũ lụt cũng như bị hạn. Đồng thời, theo kết quả làm việc với cán bộ Sở Nông nghiệp


3

tỉnh Thừa Thiên Huế thì hai xã nghiên cứu là vùng cát nội đồng mang tính đại diện của
tỉnh.
- Pham vi về thời gian:
+ Thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2011.
+ Thời gian nghiên cứu: Đề tài thu thập các thông tin, số liệu liên quan đến vấn
đề nghiên cứu tại vùng nghiên cứu trong khoản thời gian từ 30 năm (1980 - 2010) và
số liệu khảo sát hộ gia đình năm 2011.



4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Biến đổi khí hậu và nguyên nhân
Theo báo cáo của IPCC năm 2007, biến đổi khí hậu được hiểu là mọi thay đổi
của khí hậu theo thời gian do sự thay đổi tự nhiên hoặc kết quả hoạt động của con
người [18]. Với định nghĩa này, nguyên nhân của biến đổi khí hậu là do chính bản thân
của điều kiện tự nhiên, nội tại của nó hoặc là do bên ngoài tác động vào.
Tuy nhiên, Công ước khung về biến đổi khí hậu (UNFCCC) lại cho rằng biến
đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu mà nguyên nhân là sự tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp của con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và tạo ra thay
đổi của biến thiên khí hậu tự nhiên được quan sát qua thời gian [28]. Ngoài ra, nghiên
cứu của O'Brien và cộng sự: biến đổi khí hậu là hiện tượng tự nhiên nhưng cũng tăng
tốc bởi các hoạt động của con người [24]. Hai định nghĩa này đều chỉ rõ biến đổi khí
hậu là hiện tượng tự nhiên nhưng có sự góp mặt của con người.
Nghiên cứu của ISDR (2008), đưa ra khái niệm biến đổi khí hậu rõ ràng hơn đó
là: Biến đổi khí hậu là sự biến động giữa năm này và năm khác được ghi nhận qua các
số liệu thống kê của các điều kiện bất thường như: Bão, lụt, hạn hán bất thường. Quan
điểm ở đây về biến đổi khí hậu chính là sự ghi nhận lại những hiện tượng bất thường
theo thời gian. Mốc đánh dấu thời gian biến đổi khí hậu từ 30 năm trở lên.
1.1.2. Thích ứng với biến đổi khí hậu
* Khái niệm
Khí hậu đã và đang biến đổi và có những tác động tiềm tàng, bất lợi đến phát
triển, vì thế sự thích ứng trở nên ngày càng quan trọng. Thích ứng là một khái niệm rất
rộng và khi áp dụng vào lĩnh vực biến đổi khí hậu nó được dùng trong rất nhiều trường
hợp.
Đối với IPCC (1996) cho rằng: Khả năng thích ứng đề cập đến mức độ điều
chỉnh có thể trong hành động, xử lý, cấu trúc của hệ thống đối với những biến đổi dự

kiến có thể xảy ra hay thực sự đã và đang xảy ra của khí hậu. Sự thích ứng có thể là tự
phát hay được chuẩn bị trước [21]. Như vậy, ở đây vấn đề thích ứng được nói đến
chính là mức độ điều chỉnh với biến đổi cả về tính tự phát hay chuẩn bị trước.
Nghiên cứu của Burton (1998) lại cho rằng: Thích ứng với khí hậu là một quá
trình mà con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khoẻ, đời
sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại [16]. Ở đây
thích ứng là làm thế nào giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu, tận dụng những thuận lợi
nếu có thể.


5

Với Thomas (2007), lại cho rằng: thích ứng có nghĩa là điều chỉnh, hoặc thụ
động, hoặc phản ứng tích cực, hoặc có phòng bị trước, được đưa ra với ý nghĩa là giảm
thiểu và cải thiện những hậu quả có hại của BĐKH [27].
Trong nghiên cứu này, thích ứng là các điều chỉnh trong cộng đồng và cá nhân
hoặc những điều chỉnh dựa trên cộng đồng để đáp ứng những thay đổi của khí hậu theo
thời gian. Đó là kinh nghiệm thực tiễn đã và đang được người dân áp dụng trong điều
kiện hiện tại, chính tại cộng đồng đó.
* Các nhóm phương pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
Có rất nhiều biện pháp thích ứng có khả năng được thực hiện trong việc đối phó
với BĐKH. Bản báo cáo đánh giá thứ 2 của Nhóm công tác II của IPCC đã đề cập và
miêu tả 228 phương pháp thích ứng khác nhau [22]. Vì thế cần phân loại các biện pháp
thích ứng theo khung tổng quát. Cách phân loại phổ biến là chia các phương pháp thích
ứng ra làm 8 nhóm [17]:
1) Chấp nhận tổn thất: Tất cả các phương pháp thích ứng khác có thể được so
sánh với cách phản ứng cơ bản: “không làm gì cả”, ngoại trừ chịu đựng hay chấp nhận
những tổn thất. Trên lý thuyết, chấp nhận tổn thất xảy ra khi bên chịu tác động không
có khả năng chống chọi lại bằng bất kỳ cách nào (ví dụ như ở những cộng đồng rất
nghèo khó) hay ở nơi mà giá phải trả cho các hoạt động thích ứng là cao so với sự rủi

ro hay các thiệt hại có thể.
2) Chia sẻ tổn thất: Loại phản ứng thích ứng này liên quan đến việc chia sẻ những
tổn thất giữa một cộng đồng dân cư lớn. Cách thích ứng này thường xảy ra trong một cộng
đồng truyền thống và trong xã hội công nghệ cao, phức tạp. Trong xã hội truyền thống,
nhiều cơ chế tồn tại để chia sẻ những tổn thất giữa cộng đồng mở rộng, như giữa các hộ
gia đình, họ hàng, làng mạc hay các cộng đồng nhỏ tương tự. Các cộng đồng lớn phát triển
cao chia sẻ những tổn thất thông qua cứu trợ cộng đồng, phục hồi và tái thiết bằng các quỹ
công cộng. Chia sẻ tổn thất cũng có thể được thực hiện thông qua bảo hiểm cá nhân.
3) Làm thay đổi nguy cơ: Ở một mức độ nào đó người ta có thể kiểm soát được
những mối nguy hiểm từ môi trường. Đối với một số hiện tượng “tự nhiên” như là lũ
lụt hay hạn hán, những biện pháp thích hợp là công tác kiểm soát lũ lụt (đắp đập, đào
mương, đắp đê). Đối với BĐKH, có thể điều chỉnh thích hợp làm chậm tốc độ BĐKH
bằng cách giảm phát thải khí nhà kính và cuối cùng là ổn định nồng độ khí nhà kính
trong khí quyển. Theo hệ thống của UNFCCC, những phương pháp được đề cập đó
được coi là sự giảm nhẹ BĐKH và là phạm trù khác với các biện pháp thích ứng [29].
4) Ngăn ngừa các tác động: Là một hệ thống các phương pháp thường dùng để
thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động của biến đổi và bất ổn của khí hậu. Ví
dụ trong lĩnh vực nông nghiệp, thay đổi việc thực hiện quản lý mùa vụ như ltăng việc
tưới tiêu, chăm bón thêm, kiểm soát côn trùng và sâu bọ gây hại.
5) Thay đổi cách sử dụng: Khi những rủi ro của BĐKH làm cho sự tiếp tục các
hoạt động kinh tế là không thể được hoặc rất mạo hiểm, người ta có thể thay đổi cách
sử dụng. Ví dụ, một người nông dân có thể chọn việc thay thế sang những cây chịu hạn


6

hán tốt hoặc chuyển sang các giống chịu được độ ẩm thấp hơn. Tương tự, đất trồng trọt
có thể trở thành đồng cỏ hay rừng, hoặc có những cách sử dụng khác như làm khu giải
trí, làm nơi trú ẩn của động vật hoang dã, hay công viên quốc gia.
6) Thay đổi/chuyển địa điểm: Một sự đối phó mạnh mẽ hơn là thay đổi/ chuyển

địa điểm của các hoạt động kinh tế. Ví dụ, việc di chuyển các cây trồng chủ chốt và
vùng canh tác ra khỏi khu vực khô hạn đến một khu vực mát mẻ thuận lợi hơn và có
thể sẽ thích hợp hơn cho các cây trồng trong tương lai[26].
7) Nghiên cứu: Quá trình thích ứng có thể phát triển bằng cách nghiên cứu lĩnh
vực công nghệ mới và phương pháp mới về thích ứng.
8) Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Một kiểu hoạt động
thích ứng khác là sự phổ biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng
và giáo dục, dẫn đến việc thay đổi hành vi. Những hoạt động đó trước đây ít được để ý
đến và ít được ưu tiên, nhưng nay tầm quan trọng của chúng tăng lên do cần có sự hợp
tác của nhiều cộng đồng, lĩnh vực, khu vực trong việc thích ứng với BĐKH.
Như vậy, sự thích ứng diễn ra cả ở trong tự nhiên và hệ thống kinh tế xã hội
của con người. Thích ứng với BĐKH điều quan trọng chính là sự phù hợp với điều
kiện tự nhiên và khả năng kinh tế, phong tục tập quán của con người ở mỗi vùng
miền khác nhau. Trong đề tài này, sẽ nghiên cứu sâu vào các biện pháp ngăn ngừa
tác động và thay đổi cách sử dụng của các nông hộ tại vùng nghiên cứu như thế nào
nhằm thích ứng với ngập lụt, hạn hán, chua phèn và nhiễm mặn...Và như vậy,
nghiên cứu thích ứng ở đây chủ yếu là những hoạt động thực tiễn của nông hộ,
những kinh nghiệm và kiến thức khoa học - bản địa được áp dụng trong điều kiện
của vùng nghiên cứu.
1.1.3. Phương pháp luận về tiếp cận hệ thống
Lý thuyết hệ thống đã được ứng dụng rất rộng rãi trong công tác nghiên cứu khoa
học nông nghiệp cũng như nhiều lĩnh vực khác, có thể nói các ý tưởng ứng dụng lý
thuyết hệ thống đã có từ xa xưa trong lịch sử triết học châu Âu. Trong thuyết mục đích
về vũ trụ của Arsitotle đã khẳng định “kết quả tổng hòa của toàn hệ thống thì luôn luôn
lớn hơn phép cộng đơn thuần các phần tử nằm trong hệ thống đó” hay nói cách khác
khi được đặt trong hệ thống thì giữa các phần tử có mối tương tác mới và cho ra những
kết quả mới.
Theo Rusell L.A.(1971) nhận thức về hệ thống đã đóng vai trò rất quan trọng
trong nghiên cứu khoa học hiện nay, đó là việc vận dụng các quan điểm hệ thống vào
nghiên cứu ứng dụng, là sự quan tâm đồng thời nhiều yếu tố trong đó hệ thống ở cùng

thời điểm nghiên cứu chứ không phải là sự tách biệt các yếu tố riêng lẻ.
Spedding (1979) cho rằng hệ thống là tổ hợp những thành phần có liên quan với
nhau, giới hạn trong một ranh giới rõ rệt, hoạt động như một tổng thể cùng chung mục
tiêu, có thể tác động qua lại với môi trường bên ngoài.


7

Hệ thống còn được hiểu là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có
quan hệ và tác động qua lại với nhau. Một hệ thống có thể xác định như một tập hợp
các đối tượng hoặc cá thuộc tính được liên kết tạo thành một chính thể và nhờ thế hệ
thống có một đặc tính mới gọi là tính “trội” của hệ thống. Như vậy, hệ thống không
phải là phép cộng đơn giản của các yếu tố, các đối tượng mà là sự kết hợp hữu cơ giữa
các yếu tố và có quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau.
Ngoài các yếu tố bên trong hệ thống, còn có các yếu tố bên ngoài hệ thống, không
nằm trong hệ thống nhưng có tác động tương tác với hệ thống, gọi là yếu tố môi
trường. Những yếu tố môi trường tác động lên hệ thống là yếu tố “đầu vào”, còn những
yếu tố môi trường chịu sự tác động trở lại của hệ thống là yếu tố “đầu ra”.
Trong hoạt động hệ thống sản xuất, môi trường thường được nhìn nhận là các hợp
phần đầu vào và đầu ra. Môi trường của hệ thống: bao gồm tất cả các nguồn biến động
có thể ảnh hưởng tới sự thay đổi của hệ thống. Đó là tất cả các yếu tố không nằm trong
hệ thống nhưng khi thay đổi chúng sẽ làm cho hệ thống có thể bị thay đổi. Môi trường
của hệ thống bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa xã
hội.
- Môi trường tự nhiên bao gồm khí hậu, đất đai, địa hình, nguồn nước.
- Môi trường kinh tế bao gồm vốn, tín dụng, tiềm năng về thị trường và giá cả
nông sản, chi phí về lao động, chi phí về vật tư (giống, phân bón, thuốc nông nghiệp,
công cụ nông nghiệp,…)
- Môi trường văn hóa xã hội bao gồm tập tục sinh hoạt của một cộng đồng tại một
địa phương như: tập quán canh tác, văn hóa, tôn giáo, tình làng nghĩa xóm, các tổ chức

đoàn thể và các chủ trương chính sách.
1.1.4. Hệ thống nông nghiệp
* Hệ thống nông nghiệp
Cho đến nay đã có một số khái niệm về hệ thống nông nghiệp như sau:
Vissac (1979) đã định nghĩa hệ thống nông nghiệp là biểu hiện không gian của sự
phối hợp giữa các ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thỏa mãn các
nhu cầu. Đó là sự thống nhất các mối quan hệ giữa sinh học (sinh thái – môi trường) và
con người (thông qua các hoạt động sản xuất, văn hóa – xã hội).
Theo Mazoyer (1986) hệ thống nông nghiệp là một phương thức khai thác môi
trường được hình thành và phát triển trong lịch sử, trong một hệ thống sản xuất thích
ứng với các điều kiện sinh thái khí hậu của một không gian nhất định, đáp ứng các điều
kiện và nhu cầu tại thời điểm đó.
Theo (Jouve, 1988) hệ thống nông nghiệp thích ứng với các phương thức khai
thác nông nghiệp của một không gian nhất định do một xã hội tiến hành, là kết quả của
sự phối hợp của các nhân tố tự nhiên, xã hội – văn hóa, kinh tế và kỹ thuật.


8

* Hệ thống canh tác “Farming system” và hệ thống nông nghiệp (Agriculture
system) trong nhiều trường hợp có thể dùng thay thế cho nhau. Tuy nhiên nói đến hệ
thống canh tác là nói đến sản xuất nông nghiệp trong phạm vi vùng sản xuất nhỏ hẹp,
trong đó các nông hộ được coi như là các tế bào hợp thành. Một trong các đặc điểm
của HTCT truyền thống Việt nam là tính đa dạng. Đa dạng được thể hiện ở cơ cấu cây
trồng, cơ cấu giống của một loài cây, ở áp dụng nhiều phương thức, nhiều HTCT trong
cùng một điều kiện, trên cùng một địa bàn.
Nghiên cứu hệ thống nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất của các hệ thống sản
xuất bằng việc phân tích các cản trở và tiềm năng của các hệ thống hiện có và xây
dựng các kỹ thuật thích ứng và chính sách bổ sung để nâng cao phúc lợi của các hộ
nông dân.

Từ những định nghĩa trên cho chúng ta một khái niệm chung nhất về hệ thống
canh tác, đó là một hệ thống bao gồm nhiều hệ thống phụ như: trồng trọt, chăn nuôi,
ngành nghề..., thậm chí cả tiếp thị. Trong đó, hệ thống trồng trọt là bộ phận chủ yếu
của hệ thống canh tác, cấu trúc của nó quyết định hoạt động của các hệ thống con khác.
* Hệ thống trồng trọt
Tác giả Nguyễn Duy Tính (1995) cũng cho rằng hệ thống trồng trọt là hệ thống
con và là trung tâm của hệ thống nông nghiệp. Theo Dufumier (1997), hệ thống trồng
trọt là thành phần các giống và loài cây được bố trí trong không gian và thời gian của
một hệ sinh thái nông nghiệp nhằm tận dụng hợp lý các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế xã
hội. Nghiên cứu hệ thống trồng trọt là một vấn đề phức tạp vì nó liên quan đến nhiều
khía cạnh môi trường như đất đai, khí hậu, thời tiết, sâu bệnh, công nghệ sinh học, vấn
đề hiệu ứng của hệ thống cây trồng.
Hệ thống cây trồng là một thể thống nhất trong mối quan hệ tương tác giữa các loại
cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và thời gian tức là mối quan hệ giữa các
loại cây trồng trong từng vụ và giữa các vụ khác nhau trên một mảnh đất, trong một hệ
sinh thái. Vì vậy, nghiên cứu hệ thống cây trồng là nghiên cứu: công thức luân canh và
hình thức đa canh, cơ cấu cây trồng hay tỷ lệ diện tích dành cho mùa vụ cây trồng nhất
định, kỹ thuật canh tác cho cả hệ thống canh tác đó.
1.1.5. Mô hình Nông nghiệp
* Những khái niệm về mô hình
Mô hình hay hình mẫu theo nghĩa thông thường là một cái mẫu, hay là mô hình
của một vấn đề để tham khảo hay làm theo. Mô hình là sự trừu tượng hoá hay đơn giản
hoá hệ thống. Thực tế hệ thống rất phức tạp, mô hình đơn giản hơn hệ thống nhưng
phải có các chức năng quan trọng của hệ thống.
Mô hình là phương tiện được tách ra từ hệ thống hoạt động khách quan nào đấy,
các mối liên hệ, và quan hệ có qui luật, có trong thực tế cần nghiên cứu.Trong mô hình
không cần phản ánh tất cả đặc điểm của hệ thống mà chỉ cần phản ánh được các mối
quan hệ giữa các yếu tố của hệ thống.



9

* Mô hình nông nghiệp.
Mô hình nông nghiệp là những mô hình mô tả các hoạt động của hệ thống nông
nghiệp. Nhờ có chúng mà chúng ta có thể hiểu các hoạt động của hệ thống nông nghiệp
tốt hơn, hoàn thiện hơn, chi tiết hơn và càng đúng đắn rõ ràng hơn.
Hiện nay cũng chưa có mô hình hoàn chỉnh nào về hệ thống nông nghiệp được
nêu ra. Chỉ mới có mô hình về từng mặt ví dụ mô hình trao đổi vật chất hay mô hình
trao đổi đạm và các mô hình này chỉ có tính chất mô tả. Đa số các mô hình như vậy chỉ
giải quyết được một phần của nông nghiệp và cố gắng của chúng ta là khái quát hoá
nông nghiệp như một tổng thể. Làm việc này phải xem xét vấn đề có tính lịch sử và để
vạch ra con đường mà nền nông nghiệp đã trải qua để thoả mãn nhu cầu của con người.
Trong hệ thống nông nghiệp có các hệ thống sau đây: hệ thống sinh học trong đó
cây trồng vật nuôi hoạt động theo qui luật sinh học ( có sự trao đổi năng lượng và vật
chất. Hệ thống kinh tế hoạt động theo các qui luật kinh tế. Hai kiểu hoạt động này đan
chéo lẫn nhau bởi lẽ trong mỗi hoạt động đều bao gồm hai kiểu hoạt động này.
Hệ thống NN thực chất là sự thống nhất của 2 hệ thống: hệ sinh thái NN là một
bộ phận của HSTTN và hệ thống kinh tế xã hội. Vì vậy hệ thống NN khác HST nông
nghiệp ngoài yếu tố ngoại cảnh và sinh học còn có các yếu tố KTXH [12].
Trong thời gian qua có nhiều tác giả cũng đã nói về các mô hình nhưng chưa có
tài mô hình nào được đưa ra một cách hoàn chỉnh. Chúng ta cũng cần hiểu rằng mô
hình hệ thống nông nghiệp trong thực tế là sự kế hợp của rất nhiều các yếu tố như sinh
học, quản lý, thị trường, chính sách.
* Phân loại về mô hình.
- Mô hình Phân tích: Mô hình phân tích là các công cụ toán học chúng mô tả các
quá trình trong hệ thống bằng các phương trình toán học mà ta đã biết hành vi toán học
của chúng. Mô hình phân tích được dùng trong một số vấn đề sinh thái như quá trình
tạo năng suất cây trồng, sự phát triển của quần thể...
- Mô hình mô phỏng: là dùng các công cụ toán đơn giản chúng không có giải
chính xác[12].

1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tác động của BĐKH đến ngành nông nghiệp Thừa Thiên Huế
2.2.1.1. Khí hậu và BĐKH tại Thừa Thiên Huế
Khí hậu Thừa Thiên Huế rất khắc nghiệt và khác biệt nhau giữa các vùng, các
mùa. Tháng giêng và tháng 2 nhiệt độ thông thường là 17,77 0C. Tháng 6 và tháng 7 là
những tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình khoảng 29 0C, nhiều ngày nhiệt độ lên
đến 390C- 400C. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 25,1 0C. Ở đây có hai mùa rõ rệt
là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7. Mùa mưa, thường
bắt đầu từ tháng 8 hoặc tháng 9, kéo dài cho đến tháng 12 hoặc tháng 1 năm sau. Trong


10

mùa này, có những trận mưa liên tục kéo dài. Những tháng giữa mùa mưa, đặc biệt là
tháng 9 và tháng 10 có mưa rất to và kéo dài.
Địa hình và vị trí địa lý cũng có vai trò quan trọng trong việc hình thành và tạo
ra đặc thù của những biến đổi khí hậu Thừa Thiên Huế. Các dãy núi phía Tây và phía
Nam có vai trò quan trọng nhất đối với khí hậu Thừa Thiên Huế. Về mùa đông, các dãy
núi làm lệch hướng gió Đông Bắc thành gió Tây Bắc, không khí lạnh tĩnh lại phía
Đông Trường Sơn và Bắc đèo Hải Vân gây ra mưa lớn, ngập lụt vào cuối mùa thu –
đầu mùa đông, làm mùa mưa lệch pha so với tình hình chung ở Bắc Bộ, Tây Nguyên,
Nam Bộ và tạo ra một trong những trung tâm mưa lớn của cả nước.
Về mùa hè, các dãy núi gây ra hiệu ứng “phơn” dẫn đến thời tiết khô nóng gay
gắt, kèm theo hạn hán.
Phân tích số liệu cho thấy, ở Thừa Thiên Huế thay đổi khí hậu còn đậm nét hơn
các nơi khác. Nhiệt độ trung bình năm ở Thừa Thiên Huế đều có xu thế tăng khá
nhanh, vùng núi có chiều hướng tăng nhanh hơn vùng ven biển.
Cường độ mưa tăng rõ rệt. Trong vòng 50 năm trở lại đây, lũ lụt xảy ra thường
xuyên hơn nửa đầu thế kỷ trước. Từ năm 1952 đến 2005 đã có 32 cơn bão ảnh hưởng
trực tiếp đến Thừa Thiên Huế. Không những thế, mực nước biển và đỉnh lũ lần sau

luôn cao hơn lần trước. Năm 1999, trận lụt lịch sử đã có độ sâu ngập là 5,81 m. Trong
năm 2007, các trận lũ lớn khác diễn ra trong vòng 1 tháng gây thiệt hại nặng nề về
người và nhà cửa cho những người dân ở miền Trung. Mưa lớn liên tiếp kéo dài trong
nhiều ngày đã gây lũ lớn, lụt lội, ngập úng tại nhiều nơi, phá huỷ hàng ngàn công trình
giao thông, nhấn chìm hàng nghìn ngôi nhà trong mực nước dâng cao, người dân
không còn nơi cư trú, sinh hoạt, phá huỷ hàng triệu hecta hoa màu và cây ăn quả…
thiệt hại ước tính hàng ngàn tỷ đồng và mất một thời gian dài để người dân cũng như
chính quyền địa phương tại các tỉnh Miền Trung có thể khắc phục những hậu quả sau
trận lũ nói trên [10].
1.2.1.2. Kịch bản BĐKH Thừa Thiên Huế
Kịch bản biến đổi khí hậu được tính toán dựa trên các kịch bản phát thải toàn
cầu, có tính đến các thay đổi của địa phương. Các kịch bản phát thải được xác định dựa
trên tốc độ phát triển kinh tế, tốc độ tăng dân số, mức độ đưa vào sử dụng kỹ thuật
mới, mức độ sử dụng năng lượng hoá thạch của các ngành công nghiệp, những chủ đề
cơ bản lớn khác như sự hội tụ giữa các vùng, khả năng xây dựng và tương tác văn hoá
xã hội và khả năng làm giảm sự khác nhau về thu nhập theo vùng.
Kết quả tính toán cho một số kịch bản về sự thay đổi của nhiệt độ và lượng mưa
trung bình năm, trung bình thời kỳ (4 thời kỳ: tháng XII-II; III-V; VI-VIII và IX- XI)
trong mỗi thập kỷ giai đoạn 2010-2100 so với điều kiện trung bình giai đoạn 19611990.
Với kịch bản phát thải cao A2, nhiệt độ trung bình năm tại Thừa Thiên Huế có
thể tăng 0,90 C năm 2050 và tăng đến 2,5 – 3,00 C vào năm 2100.


11

Lượng mưa có xu thế giảm trong các tháng mùa khô. Mức giảm có thể đến
4,6% năm 2050 và đến 14,8 % năm 2100. Ngược lại trong các tháng mùa mưa, nhất là
tháng 9-11, lượng mưa tăng đáng kể, khoảng 4,9 % năm 2050 và 16 % năm 2100 [10].
1.2.1.3. Tác động của BĐKH đến ngành nông nghiêp và phát triển nông thôn
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, BĐKH tác động đến sản

xuất nông nghiệp và an ninh lương thực rất lớn: Biến động về diện tích canh tác do
nước biển dâng (vùng ven đầm phá), biến động về năng suất cây trồng, thay đổi cơ cấu,
thời vụ cây trồng vật nuôi, biến đổi về nhu cầu nước, năng suất sản lượng cây trồng,
vật nuôi. Trong lĩnh vực thuỷ lợi và tài nguyên nước, BĐKH gây sự biến đổi về tài
nguyên nước tại các lưu vực sông, đến cân bằng nước, quy hoạch và phát triển hệ
thống đê sông, đê bao, hệ thống cấp thoát nước, tưới tiêu. Trong lĩnh vực thuỷ sản tác
động tới diện tích nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, năng suất, sản lượng và giải pháp
bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản.
Trong sản xuất nông nghiệp, diện tích trồng lúa của Thừa Thiên Huế phần lớn
tập trung ở vùng đồng bằng thấp trũng của các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương
Trà, Phú Vang và Hương Thuỷ, có diện tích khoảng 56 -58 ngàn ha, trong đó có
khoảng 40 ngàn ha đang được sử dụng để trồng lúa và cây hàng năm như lạc, ngô, rau
màu... Đây là vùng đất thấp trũng với cao độ từ - 0,5m đến + 3,0m, hệ thống đê bao
thấp (cao độ mặt đê khoảng +0,5m), nằm sát đầm phá Tam Giang - Cầu Hai và cửa
biển Thuận An - Tư Hiền, vùng đồng bằng là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai
như úng, lụt, hạn, mặn đặc biệt là tác động dâng cao mức nước biển trong thập kỷ tới.
Khi nước biển dâng cao 1m vào năm 2100, trên 20% số diện tích đất sản xuất nông
nghiệp và rừng phòng hộ ven sông, ven biển sẽ bị mất do ngập và nhiễm mặn. Ngoài
ra, một số diện tích đất nông nghiệp cũng phải chuyển mục đích sử dụng sang làm nhà
ở, các công trình cộng cộng để phục vụ cho việc di dân, tái định cư cho người dân vùng
bị ngập, sạt lở, vùng có nguy cơ cao... Khi diện tích canh tác bị thu hẹp, sản lượng
nông nghiệp sản xuất giảm, tác động trực tiếp đến đời sống của cư dân nông thôn, kéo
dài tình trạng nghèo đói. Đối với người dân vùng ven biển, để duy trì cuộc sống, người
dân có thể gia tăng cường độ khai thác thuỷ sản tại Tam Giang - Cầu Hai, làm phá vỡ
hệ sinh thái ven biển và cạn kiệt tài nguyên...
Mặt khác, BĐKH sẽ làm gia tăng những hiện tượng cực đoan của thời tiết. Bão
lũ, áp thấp nhiệt đới... sẽ xảy ra thường xuyên với tần suất lớn hơn, nông nghiệp và
nông thôn chịu tác động trực tiếp nhất. Thiên tai không chỉ ảnh hưởng cây trồng trên
đồng ruộng, làm giảm năng suất lúa và các cây lương thực khác hay mất mùa mà còn
phá huỷ các kho tàng sau thu hoạch, các công trình thuỷ lợi... Khả năng hạn hán cũng

sẽ tăng do thời tiết khô nóng xuất hiện nhiều hơn làm tăng nguy cơ sa mạc hoá đồng
ruộng và tăng nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, BĐKH sẽ làm thay
đổi điều kiện khí hậu nông nghiệp, thay đổi cơ cấu thời vụ, phá vỡ tập quán canh tác từ
lâu đời của nông dân.


12

BĐKH sẽ gia tăng nguy cơ dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi. Nhiệt độ cao
làm cho sâu bệnh phát triển, tăng nhu cầu dùng nước. Để phòng tránh, người dân dùng
nhiều hoá chất sẽ làm tăng chi phí sản xuất và gây ô nhiễm môi trường.
Trong điều kiện 70% lượng nước của các con sông trong tỉnh Thừa Thiên Huế
đều tập trung vào mùa mưa lũ, BĐKH với hiệu ứng là nhiệt độ tăng cao và mực nước
biển dâng sẽ gia tăng sự khác biệt về tổng lượng nước giữa hai mùa trong năm. Sự cạn
kiệt nguồn tài nguyên nước ngọt trong các lưu vực sông vào mùa khô kèm theo xâm
nhập mặn gia tăng sẽ gây thiếu nước cho sinh hoạt, nông nghiệp và công
nghiệp...Trong khi đó vào mùa mưa, với lưu lượng và mực nước lũ lớn sẽ phá vỡ hệ
thống đê bao, các công trình cơ sở hạ tầng... phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp.
Trong lĩnh vực thuỷ sản, nhiệt độ nước biển tăng làm nguồn lợi thuỷ hải sản phân
tán. Các loài cá nhiệt đới tăng lên, các loại cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế cao thì số
lượng giảm. Trữ lượng các loài hải sản kinh tế bị giảm, do vậy sản lượng đánh bắt cũng
như thu nhập sẽ bị giảm. Hiện tượng ENSO tăng làm thay đổi vị trí mật độ cá thông qua
cấu trúc các vùng nước chồi, nước thụt, dòng hải lưu giảm. Nước biển dâng sẽ tác động
mạnh nhất đến hệ thống đầm phá đã và đang được xây dựng để nuôi trồng thuỷ sản. Nếu
mực nước biển dâng cao thêm 1m thì toàn bộ hệ thống bờ ngăn, đê quai hiện có sẽ
không còn khả năng sử dụng, nhiều diện tích nuôi trồng thuỷ sản sẽ chìm trong nước
mặn.
BĐKH sẽ làm gia tăng các hiện tượng thời tiết bất lợi như bão, lũ. Thời gian ảnh
hưởng của bão kéo dài, tần suất xuất hiện bão thường xuyên hơn làm giảm thời gian
đánh bắt, chi phí xăng dầu phòng tránh bão lớn. Bão lụt phá hoại nhiều ngư cụ khai

thác cố định trên đầm phá, biển (nghề nò sáo, đáy, lồng cá,..) tăng chi phí sửa chữa. Lũ
lụt lớn thường xuyên xảy ra làm biến đổi dòng chảy của các vùng cửa sông ảnh hưởng
đến hành trình tàu thuyền khai thác thuỷ sản, các luồng di cư sinh trưởng của cá. Thời
tiết biến động mạnh làm ảnh hưởng đến mùa vụ nuôi trồng, dịch bệnh phát sinh ảnh
hưởng đến năng suất nuôi trồng.
BĐKH sẽ làm thay đổi môi trường tự nhiên dẫn đến biến đổi đa dạng sinh học,
tập tính sống của các loài động thực vật thuỷ sinh, biến động nguồn giống trong tự
nhiên. Khi nhiệt độ tăng quá cao, động vật nuôi trong các ao hồ có thể chết, chậm lớn,
ăn kém...làm ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng, các trũng vi khuẩn, nấm phát triển
nhanh gây ra dịch bệnh, gây hiện tượng phù dưỡng trong ao nuôi, ngoài đầm phá. Đây
là một yếu tố bất lợi cho nuôi trồng thuỷ sản (làm chất lượng nước kém). Như vậy,
nông nghiệp và nông thôn đang và sẽ là lĩnh vực chịu tác động nặng nề nhất của
BĐKH, trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của tỉnh [10].
1.2.2 Tác động của BĐKH đối với vùng cát ven biển
Đã nhiều năm qua, cứ đến mùa mưa bão, người dân sống dọc ven biển của các
địa phương vùng ven biển miền Trung thường rơi vào trạng thái lo lắng bởi nạn xâm
thực của sóng biển. Cứ vào mỗi mùa mưa bão, nhà cửa, đất đai và nhiều tài sản khác bị
sóng cuốn ra biển. Vì vậy, bão lũ và nước biển dâng của vùng duyên hải miền Trung
nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng còn nan giải hơn rất nhiều khi tính đến yếu tố


13

liên quan bởi hiện tượng biến đổi khí hậu. Có thể nhìn nhận sự ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu đến vùng bãi ngang thông qua các tác động sau:
Tác động đến sản xuất nông nghiệp: Biến đổi khí hậu làm thay đổi điều kiện
sống của các loài sinh vật, phá vỡ cân bằng sinh thái, làm biến mất đi một số loài và
nguy cơ xuất hiện nhiều loại bệnh dịch mới trong sản xuất nông nghiệp. BĐKH tác
động đến thời vụ, làm thay đổi cấu trúc mùa vụ, tác động xấu đến chăn nuôi, trồng trọt
của người dân…

Nhiệt độ và lượng bốc hơi tăng cùng với hạn hán kéo dài sẽ tác động mạnh đến
hệ sinh thái, đặc biệt hiện tượng cháy rừng sẽ xảy ra nhiều hơn và làm suy giảm đa
dạng sinh học.
BĐKH làm mực nước biển dâng và gia tăng vùng ngập mặn, làm mất nơi sinh
sống của các loài thuỷ sản nước ngọt, đặc biệt phá vỡ hệ sinh thái cửa sông, đây là nơi
đa dạng nhất về thành phần, cũng như số lượng loài, làm mất đi nơi sinh cư, bãi sinh
sản của một số loài thuỷ sản có giá trị. Mức độ xâm nhập mặn ngày càng tăng và kéo
theo cả một hệ luỵ đó là làm biến đổi cả một vùng sinh thái rộng lớn, phá vỡ cân bằng
và làm tổn thương nghiêm trọng đến đa dạng sinh học…(rạn san hô, thực vật, động vật
nổi, cá…). Khi mực nước biển dâng cao sẽ mất diện tích sản xuất muối, mất đi bãi triều
để khai thác và phát triển nuôi trồng thuỷ sản…
Tác động đến tiêu và thoát nước trong vùng: Khi mực nước biển dâng lên làm hệ
thống đê biển bị đe doạ, có nguy cơ tràn và vỡ đê. Hầu hết việc tiêu thoát nước ở vùng
ven biển chủ yếu là hệ thống tự tiêu, tự thoát, khi mực nước biển dâng lên việc tiêu thoát
nước sẽ gặp rất nhiều khó khăn và đặc biệt vào mùa mưa lũ, khả năng thoát nước chậm,
gây ngập úng cục bộ. Và nguy hại hơn khi mực nước biển dâng cao làm thay đổi dòng
chảy ven bờ, có thể làm xuất hiện thêm nhiều dòng chảy mới sẽ tác động lớn đến đới bờ,
như sạt lở…
Có thể nói mức độ ảnh hưởng của BĐKH đã và ngày càng rõ nét, nó tác động
rất lớn đến cuộc sống của mọi cộng đồng dân cư, BĐKH không phải chỉ đơn thuần
xuất hiện ở một vùng, một quốc gia nào cả mà nó tác động đến toàn cầu. Việc hạn chế
BĐKH phải đòi hỏi cộng đồng thế giới cùng chung tay để giải quyết, Việt Nam là một
trong những nước tiên phong trong lĩnh vực giảm thiểu biến đổi khí hậu toàn cầu, đã có
nhiều công trình nghiên cứu, chương trình hành động nhằm giảm thiểu và hạn chế
những tác động làm biến đổi khí hậu, tuy nhiên kết quả mang lại còn hạn chế [1].
1.2.3. Thích ứng với BĐKH ở các nước trên thế giới
Thích ứng với BĐKH ở các nước phát triển
Hà Lan là một quốc gia nằm trong vùng trũng, với ¼ diện tích đất liền thấp hơn
mực nước biển, Hà Lan đang phải đối mặt với những rủi ro gay gắt về BĐKH. Những
rủi ro này được kiểm soát nhờ một mạng lưới kênh rạch, bơm thủy lợi và đê điều rộng

lớn. Hệ thống đê điều được thiết kế để trụ vững được trước diễn biến thời tiết mà có
khả năng xảy ra đúng một lần trong suốt 1000000 năm [13].


14

Vương quốc Anh: Hệ thống phòng lũ của nước Anh được thiết kế để đối phó
với các cơn lũ lớn nhất có thể xảy ra trong các chu kỳ 100-200 năm. Cơ quan Môi
trường đã kêu gọi ít nhất 8 tỷ đô la Mỹ để cũng cố đập chắn lũ Thames Barrier – một
công trình phòng lũ cơ học để bảo vệ London [13].
Nhập Bản: Mối quan tâm đối với công tác thích ứng tại Nhật Bản lên đến đỉnh
điểm vào năm 2004 khi nước này chịu tới 10 cơn bão nhiệt đới đổ bộ. Tổng thiệt hại
lên đến 14 tỷ Đô-la Mỹ, trong đó khoảng một nữa là do bảo hiểm chi trả. Chính phủ
Nhật Bản đã lên các kế hoạch xây dựng các hệ thống phòng ngừa lũ lụt nhằm đối phó
với nguy cơ mực nước biển có thể dâng lên 1m trong thế kỷ 21 và có tổng mức đầu tư
ước tính 93 tỷ đô la Mỹ [13].
Thích ứng với BĐKH ở các nước đang phát triển
Ở Miền Bắc Kê-ni-a, hạn hán thường xuyên xảy ra khiến cho người phụ nữ phải
đi bộ xa hơn để lấy nước sinh hoạt, thường là 10 -15 km một ngày. Vùng Tây Bengal,
Ấn Độ, những người phụ nữ sống trong các ngôi làng châu thổ sông Hằng đang phải
dựng lên những tháp cao bằng tre gọi là machan để làm chổ lánh nạn khi lũ lụt kéo đến
[13].
Ở quốc gia Băng-la-đét láng giềng, các cơ quan tài trợ và các Tổ chức phi chính
phủ đang làm việc với những người sống tại các vùng gọi là chars, tức là cồn đất có nguy
cơ trở nên biệt lập vào mùa lũ, để nâng những căn nhà của họ lên cao hơn mực nước lũ
bằng cánh dời chúng lên các cột đỡ hoặc mặt đê [13].
Những người nông dân ở Ê-cu-a-do đang đào các ao tích nước hình chữ U, được
gọi là albarradas, để giữ nước trong những năm nhiều mưa bổ sung cho mực nước
ngầm trong những năm nhiều mưa bổ sung cho mực nước ngầm trong những năm khô
hạn [13].

1.2.4. Thích ứng với BĐKH trong sản xuất nông nghiêp
Chiến lược thích ứng trong sản xuất nông nghiệp là rất quan trọng và cần thiết
để đảm bảo tiếp tục cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thích ứng với sản xuất nông
nghiệp có rất nhiều hình thức bao gồm thay đổi mùa vụ sản xuất, chọn loài hoặc giống
cây trồng vật nuôi, phát triển giống mới, phương thức sản xuất, kỹ thuật canh tác và
các hoạt động sinh kế thay thế [9].
Cây trồng và vật nuôi
Giống cây trồng và vật nuôi là yếu tố quan trọng và quyết định năng suất, chất
lượng cũng như khả năng chống chịu với thay đổi của các tác nhân tác động thông qua
yếu tố gen di truyền, đây là sự thích ứng đầu tiên để đảm bảo cho các hoạt động sản
xuất nông nghiệp tiếp tục [2], [9]
Gần đây một nghiên cứu ở Hà Tĩnh đã chỉ ra một số giống cây trồng chịu hạn
tốt và rất thích hợp trên vùng cát nội đồng - vùng đất nghèo dinh dưỡng và gữi nước
kém. Đó là cây nén và cây bí đỏ đặc biệt là hệ thống keo lai. Ở Ninh Thuận người dân


15

đã thử nghiệm và rất thành công trong việc trồng cây xương rồng trên đất cát và các
vùng đất khô hạn [9].
Theo thông báo của Trung tâm phòng chống thiên tai châu Á (ADPC) (2003), ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long trong những năm gần đây việc sử dụng các giống lúa
nổi (giống chịu hạn) là thích hợp với sự kéo dài của ngập úng và lũ lụt [2].
Bên cạnh đó việc ứng dụng kỷ thuật nuôi tôm trên cát cũng là một biện pháp tốt
để cải tạo đất cát bạc màu.
Phương thức sản xuất
Thích ứng trong phương thức sản xuất bao gồm thay đổi cơ cấu cây trồng trên
một diện tích đất hay là liên kết các loại cây trồng vật nuôi trong một hệ thống sản
xuất. Vì vậy, các phương thức sản xuất như kết hợp chặt chẽ trong luân canh cây trồng,
nông lâm kết hợp, liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi, hệ thống cây trồng theo ruộng

bậc thang hay nuôi xen ghép đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều vùng trong cả nước
được xem là thích ứng phương thức sản xuất [9].
Thời vụ sản xuất
Thời vụ sản xuất của hệ thống cây trồng và vật nuôi phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó có yếu tố thời tiết khí hậu vì vậy hệ thống thông tin dự báo các điều kiện thời
tiết khí hậu có liên quan tới BĐKH là rất cần thiết để xác định thời vụ thích hợp cho
mỗi loài cây trồng vật nuôi [8], [9].
Các vùng ven biển ở Bangladesh, hệ thống thông tin lũ lụt cộng đồng đã được thiết
kế giúp các cộng đồng ở đây thích ứng với rủi ro lũ lụt hay lốc xoáy cũng như xác định
được lịch mùa vụ gieo trồng quan trọng nhất là xác định được thời điểm thu hoạch sản
phẩm nông nghiệp [8], [9].
Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, xây dựng kế hoạch nuôi tách lũ lụt đã được
người dân Hà Tĩnh và Quảng Bình áp dụng chuyển sang nuôi một vụ để tránh lũ [8].
Kỹ thuật canh tác
Thích ứng trong lĩnh vực này tập trung vào đặc điểm của hệ thống sản xuất, đặc
tính của người sản xuất để xác định được mức độ ảnh hưởng quyết định của họ đưa ra
các lựa chọn thích ứng [9].
Ở Việt Nam, Ninh Thuận là một trong những tỉnh rất nhạy cảm với tình hình hạn
hán, chính phủ đã hỗ trợ để cải thiện hệ thống cung cấp nước như đào giếng, mở giếng,
sắp xếp và nâng cấp hệ thống tưới tiêu quy mô nhỏ [8], [9].
Ở Thái Lan người dân đã biết thiết lập các trạm bơm để thu gom nước ở những
con sông và kênh có khuynh hướng trào nước vào mùa mưa để phục vụ nước cho mùa
khô (Ngân hàng phát triển châu Á, 2008). Cộng đồng các nước ở châu Phi và nông dân
luôn luôn có biện pháp đối phó với thay đổi môi trường. Nông dân của nhiều vùng ở
châu Phi đã biết cách bảo tồn Carbon trong đất thông qua sử dụng kỷ thuật zero-tilling
trong trồng trọt, che phủ, các kỷ thuật quản lý đất [9].


16


CHƯƠNG 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Xác định, phân tích tác động và khả thích ứng với biến đổi khí hậu của người dân
trong sản xuất cây hàng năm trên chân đất cát ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu 1: Tìm hiểu tình hình sản xuất cây hàng năm tại vùng cát ven biển Thừa
Thiên Huế
Mục tiêu 2: Xác đinh, phân tích tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất cây
hàng năm và các hoạt động thích ứng của người dân vùng nghiên cứu.
Mục tiêu 3: Tìm hiểu một số mô hình sản xuất cây hàng năm thích ứng với biến đổi
khí hậu tại vùng nghiên cứu.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Đề tài bao gồm các nội dung chính sau:
(1) Xác định biểu hiện của biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan
ở địa bàn nghiên cứu.
Đối với nội dung này, sẽ đi sâu vào phân tích cụ thể các vấn đề nghiên cứu biểu
hiện của biến đổi khí hậu tại vùng nghiên cứu như: sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa
cũng như cường độ và tần suất của các hiện tượng thời tiết cực đoan.
(2) Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất cây hàng năm..
Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến năng suất cây trồng, chất lượng, chi
phí đầu tư, dịch bệnh...
(3) Tìm hiểu các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu của người dân trong
sản xuất cây hàng năm.
Ở đây sẽ phân tích cụ thể các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu của
người dân trong sản xuất cây hàng năm đang áp dụng và tính phổ biến của các biện
pháp thích ứng.
(4)Xác định một số mô hình sản xuất cây hàng năm thích ứng với biển đổi khí
hậu trên chân đất cát ven biển.

Mô tả đặc điểm kỹ thuật và thích ứng của mô hình. Phân tích các chính sách liên
quan và đinh hướng phát triển.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Địa điểm nghiên cứu


17

Chọn hai xã có hoạt động sản xuất nông nghiệp trên chân đất cát ven biển mang
tính chất đại diện cho các xã ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, Chúng tôi chọn xã Phú Đa, huyện Phú Vang và xã Quảng Lợi, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế để tiến hành khảo sát và nghiên cứu. Lý do chọn hai xã này
làm điểm nghiên cứu vì đây là các xã vùng cát nội đồng có diện tích đất sản xuất nông
nghiệp chủ yếu là đất cát. Đây cũng là những xã thuộc vùng ven biển, với tính chất đất
sản xuất nông nghiệp là đất cát, nên rất dễ ảnh hưởng bởi lũ lụt cũng như hạn hán và
nhiễm mặn. Đồng thời, theo kết quả làm việc với cán bộ phòng trồng trọt Sở Nông
nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế đã khẳng định hai xã nghiên cứu mang tính đại diện cho
các sản xuất trên chân đất cát ven biển của tỉnh.
2.4.2. Phương pháp thu thập thông tin
* Thu thập số liệu thứ cấp
- Thu thập số liệu thứ cấp đã công bố từ cấp tỉnh, huyện và xã thông qua các báo
cáo điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội năm 2006-2010.
- Tài liệu từ các niên giám thống kê, báo cáo thống kê, các báo cáo hàng năm và
báo cáo giai đoạn, các báo cáo nghiên cứu đã được công bố,…cơ quan cung cấp là các
cơ quan thống kê ( tỉnh, huyện và xã ), các đơn vị hành chính ( UBND huyện, phòng
Nông nghiệp &PTNT, UBND xã,..)
- Các dữ liệu về nhiệt độ, lượng mưa ghi nhận của trạm Khí tượng Thừa Thiên
Huế trong thời gian 1980-2010. Các số liệu về biến đổi khí hậu và tác động của nó trên
lĩnh vực nông nghiệp tại xã.
* Thu thập số liệu sơ cấp

Các số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách sử dụng các công cụ khác nhau như
thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu, phỏng vấn hộ gia đình, và quan sát.
 Thảo luận nhóm trong nghiên cứu này đã được tiến hành như sau:
Ở mỗi xã tiến hành thảo luận nhóm: Thời gian 1 ngày, số lượng người 10 người/
nhóm (3 nhóm).
Thành phần tham gia bao gồm: lãnh đạo xã, cán bộ phụ trách nông nghiệp xã,
cán bộ địa chính, đại diện hội nông dân, các trưởng thôn, chủ nhiệm các hợp tác xã, đội
trưởng các đội sản xuất, hội phụ nữ, các lão nông tri điền, những hộ sản xuất giỏi có
kinh nghiệm đối phó và thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu trong sản xuất
nông nghiệp.
Nội dung thảo luận: (i) Vẽ bản đồ hiện trạng của xã để xác định vị trí địa lý của
xã, cách phân bố dân cư, hệ thống sản xuất, đồng thời xác định những khu vực chịu tác
động lớn nhất của các yếu tố như hạn hán, lũ lụt, rét, nhiễm mặn… (ii) Xác định sự biến
đổi khí hậu qua thời gian, phương pháp hồi cố đã được sử dụng. (iii) Tác động của biến
đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp: cây trồng- cây hàng năm, vật nuôi, nuôi thồng
thủy sản và hậu quả của nó. (iiii) Xác định các hoạt động thích ứng với biến đổi khí
hậu trong sản xuất nông nghiệp tại địa phương và phân loại hoạt động thích ứng theo


18

số hộ biết và số hộ vận dụng. (iiiii) Đề xuất các giải pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu của người dân và chính quyền địa phương. (iiiiii) Xác định mô hình sản xuất cây
hàng năm thích ứng với biến đổi khí hậu tại đại phương.
 Phỏng vấn sâu: được tiến hành khi đã có thông tin thứ cấp, thông tin sơ cấp
của các cuộc thảo luận nhóm phía trên. Phỏng vấn sâu bao gồm phó chủ tịch xã, cán bộ
địa phương phụ trách nông nghiệp và nông dân. Nông dân được lựa chọn tham gia
phỏng vấn sâu là những người am hiểu, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông
nghiệp tại vùng nghiên cứu. Những thông tin chính trong cuộc phỏng vấn sâu là phân
tích chi tiết và khẳng định lại kết quả của các thảo luận nhóm và thông tin thứ cấp, cụ

thể: xu hướng của biến đổi khí hậu trong thời gian gần đây dựa vào phương pháp hồi
cố, các tác động cụ thể của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp và cây hàng năm
tại vùng nghiên cứu, các hoạt động thích ứng trong sản xuất nông nghiệp và cây hàng
năm của người dân tại vùng nghiên cứu.
 Chọn hộ và phỏng vấn hộ gia đình: sau khi thu thập và phân loại thông tin
dữ liệu, bảng câu hỏi bán cấu trúc được xây dựng và tiến hành thực hiện phỏng vấn hộ
tại hai xã nghiên cứu.
- Tiêu chí chọn mẫu: các hộ dân đang sinh sống và tiến hành các hoạt động sản
xuất nông nghiệp có hoạt động sản xuất cây hàng năm trên địa bàn 2 xã Quảng Lợi và
Phú Đa.
- Dung lượng mẫu điều tra: 60 hộ trên 2 xã. Trong đó, số hộ được chọn ở Quảng
Lợi là 30 hộ và Phú Đa là 30 hộ
- Cách thức chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu nhiên dựa vào danh sách các hộ có sản
xuất nông nghiệp có sản xuất cây hàng năm.
2.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Các thông tin dữ liệu định lượng sẽ được mã hóa, lưu trữ và xử lí phân tích định
lượng bằng phần mềm Excel.
- Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý thống kê mô tả các đặc điểm của hộ, cơ cấu
cây trồng, vật nuôi của hộ, các tác động của biến đổi khí hậu, các hoạt động thích ứng
mà hộ áp dụng.
- Phương pháp phân tích định tính được sử dụng để phân tích thực trạng nhận
thức của người dân trong thích ứng với biến đổi khí hậu.


19

Khung phân tích nghiên cứu của đề tài được thể hiện ở sơ đồ 2.1:

Biến đổi khí hậu


Khoa hoc kỹ thuật:
Giống mới, kỹ thuật
mới…

Tác động đến sản xuất nông
nghiệp

Thích ứng của nông hộ và
cộng đồng với BĐKH trong
sản xuất nông nghiệp

Hiện tượng thời tiết cực
đoan: Nhiệt độ tăng,
nước biển dâng…

- Phương thức sản xuất
- Các kỹ thuật canh tác
- Sử dụng giống chống
chịu
…..

Chính sách nông
nghiệp

Mô hình sản xuất cây hàng
năm thích ứng

Sơ đồ: Khung phân tích nghiên cứu đề tài



20

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu
Thừa Thiên Huế là một tỉnh phía Nam của vùng duyên hải Bắc Trung Bộ, có
diện tích đất tự nhiên là 5.062,59 km 2. Trong đó, đồi núi chiếm khoảng 75% tổng diện
tích của khu vực, đồng bằng duyên hải chiếm 16% ( bao gồm cả vùng trảng cát nội
đồng Quảng Điền, Phong Điền…), phần còn lại là cồn cát chắn bờ và đầm phá. Tuy
nhiên, vùng đồng bằng của tỉnh Thừa Thiên Huế phần lớn nhỏ hẹp, bị chia cắt thành
từng mảnh bởi các dãy núi thấp nhô ra sát biển và mạng lưới sông ngòi dày đặc có độ
dốc lớn. Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Do vị trí địa lý, đặc
điểm địa hình, đặc biệt là độ cao, hướng các dãy núi chính đã tạo nên sự khác biệt của
khí hậu tỉnh Thừa Thiên Huế: Về mùa đông ( hay còn gọi là mùa mưa ), vẫn bị ảnh
hưởng bởi thời tiết lạnh do gió mùa Đông Bắc mang đến và thường kèm theo mưa
nhiều trong khoảng tháng 9 đến tháng 2, trong đó từ tháng 10 trở đi là mùa bão lụt,
nhiệt độ trung bình là 200C có khi còn xuống thấp dưới 90C. Gió mùa thổi theo đúng
hướng Đông Bắc mang theo hơi nước từ biển vào, điều này khác biệt với thời tiết khô
hanh của miền Bắc cùng trong mùa đông. Về mùa Hè ( hay còn gọi là mùa khô ), bắt
đầu từ tháng 3 đến tháng 8. Lúc này gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh thổi từ vịnh
Thái Lan qua vùng lục địa rộng lớn đến dãy Trường Sơn thì bị trút hết mưa xuống
sườn Tây Trường Sơn nhưng vẫn tiếp tục vượt qua dãy núi để thổi sang vùng này. Lúc
này do không còn hơi nước nên gió mùa Tây Nam gây ra thời tiết khô nóng (có khi tới
> 40 °C, độ ẩm chỉ còn 50 ÷ 60%), gió này gọi là gió “phơn” [4], [11].
Trong đề tài này hai xã được chọn nghiên cứu là xã Quảng Lợi, huyện Quảng
Điền và xã Phú Đa, huyện Phú Vang. Vì vậy, các điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội
chủ yếu phân tích kỹ ở hai xã nghiên cứu này:
3.1.1. Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu
3.1.1.1. Vị trí địa lý
 Xã Quảng Lợi: Xã Quảng Lợi nằm về phía Đông Bắc của huyện Quảng Điền,
là vùng đất đồng bằng thấp trũng ven đầm phá Tam Giang, thuộc hạ lưu sông Ô Lâu.

Bản đồ 1. Bản đồ huyện Quảng Điền và điểm nghiên cứu
Phía Bắc giáp xã Quảng Thái và huyện Phong Điền .
Phía Nam giáp thị trấn Sịa.
Phía Tây giáp xã Quảng Vinh và huyện Phong Điền.
Phía Đông giáp Quảng Ngạn.
Xã Quảng Lợi có tọa độ 16 030'08" đến 16040'13" độ Vĩ Bắc; 107021'38" đến
107 34'57" kinh Đông. Xã cách trung tâm huyện Quảng Điền 5km và đến trung tâm
thành phố huế là 30km. Xã bao gồm 9 thôn: Cư Lạc, Mỹ Thạnh, Ngư Mỹ Thạnh, Thủy
Lập, Cổ Tháp, Đức Nhuận, Hà Lạc, Sơn Công, Hà Công.
0


21

Điểm nghiên cứu

 Xã Phú Đa: Phú Đa là xã đồng bằng nằm về phía Đông Nam của tỉnh TT Huế,
được xác định là trung tâm huyện lỵ của huyện Phú Vang.
Phía Tây - Bắc giáp với xã Phú Lương, xã Phú Xuân.
Phía Đông - Nam giáp với xã Vinh Phú, xã Vinh Thái.
Phía Tây - Nam giáp với thị xã Hương Thủy.
Phía Đông - Bắc giáp với đầm Thủy Tú, phá Tam Giang.
Khoảng cách đi từ Ủy ban Nhân dân xã đến trung tâm huyện là 3 km và đến
trung tâm thành phố Huế 20 km. Đây là vùng đất đồng bằng thấp trũng ven đầm phá
Tam Giang. Xã bao gồm 9 thôn: Hòa Tây, Hòa Đông, Nam Châu, Thanh Lam, Đức
Thái, Trường Lưu, Lương Viện, Viễn Trình, Định Cư.

Điểm nghiên
cứu


Bản đồ 2. Bản đồ huyện Phú Vang và điểm nghiên cứu


22

3.1.1.2. Đặc điểm địa hình
 Xã Quảng Lợi: Có địa hình bằng phẳng, thấp trũng, không có đồi núi, có thể
chia làm hai vùng đất chính:
-Vùng nằm sát phá Tam Giang: Là vùng đất thấp trũng, đất đai thường xuyên bị
nhiễm mặn. Vì vậy, trong sản xuất nông nghiệp thường bị mất mùa, vùng này chủ yếu
trồng các loại cây hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày.
-Vùng đồng bằng phía Nam: Chạy dọc theo tuyến tỉnh lộ 4B, đây là vùng lúa
trọng điểm của xã.
Nhìn chung, địa hình của xã Quảng Lợi mang đặc điểm chung của vùng canh tác
lúa nước và hoa màu. Hàng năm thường xuyên bị ngập úng vào mùa mưa, ảnh hưởng
đến việc sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn đi lại
khó khăn vào mùa mưa.
 Xã Phú Đa: Là khu vực đồng bằng nên địa hình tương đối bằng phẳng, cao độ
từ 0,4m-6,0m có hướng dốc sang phía Tây - Tây Nam và Đông Nam, được chia làm 3
khu vực:
- Khu vực phía Đông đường Quốc Phòng ra đến đầm Thuỷ Tú, cao độ từ 0,52,0m, khu vực này chủ yếu trồng hoa màu và lúa.
- Khu vực phía Tây đường 10A, và khu vực phía Tây Bắc đường 10C địa hình
lồi lõm, các khoảng trũng cao độ từ 0,1-1,5m, khu vực này chủ yếu là trồng lúa.
- Khu vực phía còn lại nằm giửa đường quốc phòng và 2 tỉnh lộ 10A, 10C cao
độ trung bình 4,5m-5,0m, khu vực này được xây dựng nhà ở, các công trình công công,
trồng rừng và trồng hoa màu.
3.1.1.3. Điều kiện khí hậu vùng nghiên cứu
Bảng 3.1. Tình hình khí hậu của hai xã nghiên cứu năm 2010
Các yếu tố khí hậu


Nhiệt độ

Lượng bốc
hơi và độ

Xã Quảng Lợi

Xã Phú Đa

Nhiệt độ trung
bình hàng năm

24,8 0C

24,90C

Nhiệt độ cao tuyệt
đối

40,8 0C

39,30C

Nhiệt độ thấp
tuyệt đối

11 0C

12,60C


980mm/năm

980mm/năm

Lượng bốc hơi
trung bình


23

ẩm không
khí

Mưa

Nắng

Độ ẩm trung bình

83%

85,2%

Lượng mưa trung
bình

3.076,4mm/năm

3.032,2mm/năm


Số ngày mưa
trung bình

170,11 ngày/năm

167,67ngày/năm

Số ngày nắng
trung bình

136 ngày/năm

134ngày/năm

Số giờ nắng trung
bình

1.893,6 giờ/năm

1.857,7giờ/năm

Mùa hè

Gió Tây Nam ( với tốc
độ gió trung bình từ
1,3-1,6m/s)

Gió Tây Nam ( với
tốc độ gió trung bình
từ 1,5-1,8m/s)


Gió
Mùa đông

Gió mùa Đông
Gió mùa Đông Bắc( tốc
Bắc( tốc độ trung bình
độ trung bình 1,62-2,3m/s, khi có khí
1,9m/s, khi có khí lạnh
lạnh tràn về đặt tới
tràn về đặt tới 20m/s)
20m/s)
(Nguồn: UBND xã Quảng Lợi và Phú Đa năm 2011)

Qua bảng 3.1 cho thấy: Khí hậu tại hai xã nghiên cứu tương tự nhau và mang
đặc điểm chung của khí hậu tỉnh Thừa Thiên Huế, thời tiết trong năm chia thành 2 mùa
rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 năm
sau. Về mùa khô do chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam nên khô nóng, oi bức. Nhưng về
mùa rét do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc mưa nhiều, trời lạnh.
+ Bão lụt thường xuất hiện trong mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11. Đặc biệt
hằng năm xuất hiện lũ tiểu mãn trong khoảng tháng 4, tháng 5, cơn lũ này tuy cường
độ không lớn nhưng gây thiệt hại đáng kể vì nó rơi trúng vào mùa vụ của người nông
dân và người nuôi trồng thủy sản.
+ Lượng nước bốc hơi trong năm trung bình là 980mm, trong khi đó thời kỳ từ
tháng 3 đến tháng 8, lượng mưa thấp chỉ từ 47,1- 62,6mm/tháng do đó khiến cây trồng dễ
bị khô hạn vào đầu vụ Hè Thu. Ngược lại cuối vụ Hè Thu lại trở nên bấp bênh, kém ổn
định do hệ thống thủy lợi chưa được đảm bảo.
3.1.1.4 Thủy văn
 Xã Quảng Lợi: Là xã có vùng đầm phá khá lớn nên các mương rãnh, sông trên
địa bàn đều đổ vào phá Tam Giang nên ảnh hưởng về thủy văn của xã. Quảng Lợi cũng



24

là xã chịu chi phối nhiều nhất bởi hạ lưu sông Ô Lâu khi mùa mưa lũ về. Sông Ô Lâu
bắt nguồn từ núi Thượng Hùng huyện A lưới có độ cao 600m đổ vào phía Bắc phá
Tam Giang để ra cửa Thuận An với diện tích lưu vực khoảng 752km 2. Hằng năm sông
Ô Lâu đổ vào phá Tam Giang khoảng 550 tỉ m3 nước.
 Xã Phú Đa: Nằm giữa sông Đại Giang và đầm Thuỷ Tú, do đó chế độ thuỷ văn
của xã chịu ảnh hưởng của hệ thống sông và đầm này. Mỗi năm thường có 2-3 lần
ngập lụt ở những vùng lân cận đường 10C và những vùng đất thấp có cao độ < 2m,
thời gian ngập từ 2-4 ngày.
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu
3.1.2.1. Tình hình sử dụng đất vùng nghiên cứu
Diện tích đất tự nhiên xã Quảng Lợi (3288,25m 2) cao hơn so với xã Phú Đa
(2966,06m2). Đất nông nghiệp chiếm diện tích khá lớn tại hai xã nghiên cứu, đất nông
nghiệp ở xã Quảng Lợi chiếm 43,60% tổng diện tích đất, ở xã Phú Đa là 51,97% (bảng
3.2). Trong đó, Phú Đa đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ lệ lớn (44,24%), nhưng xã
Quảng Lợi diện tích đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ ít chỉ chiếm 29,08% diện
tích. Trong khi đó diện tích đất phi nông nghiệp ở Quảng Lợi chiếm tỷ lệ khá lớn
(54,83%). Các loại đất phi nông nghiệp chủ yếu là đất sông suối và mặt nước chuyên
dùng(34,19%), còn lại là đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, đất tôn giáo,
tín ngưỡng, nghĩa trang, nghĩa địa... làm cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp của
người dân bị thu hẹp.
Bảng 3.2. Tình hình sử dụng đất của hai xã nghiên cứu năm 2010
Quảng Lợi

STT

1


Hiện trạng sử dụng đất

Tổng
diện
tích
(ha)

Cơ cấu
(%)

Phú Đa

Tổng
diện
tích
(ha)

Cơ cấu
(%)

Đất nông nghiệp

1433,68

43,60

1541,37

51,97


-Đất sản xuất nông nghiệp

956,07

29,08

1312,20

44,24

+ Đất trồng cây hàng năm

956,07

29,08

1242,36

41,89

* Đất trồng lúa

377,88

11,49

902,08

30,41


* Đất trồng cây hằng năm khác

578,19

17,59

340,28

11,47

-

-

69,84

2,34

+ Đất trồng cây lâu năm


25

- Đất lâm nghiệp

416,21

12,66


129,93

4,38

- Đất nuôi trồng thuỷ sản

61,40

1,87

96,24

3,24

* NTTS nước lợ, mặn

18,50

0,56

88,74

2,99

* NTTS nước ngọt

42,90

1,31


7,50

0,25

-

-

3,00

0,10

1802,93

54,83

1162,95

39,21

51,64

1,57

261,74

8,82

3288,25


100

2966,06

100

- Đất nông nghiệp khác
2

Đất phi nông nghiệp

3

Đất chưa sử dụng
Tổng diện tích tự nhiên

(Nguồn: UBND xã Quảng Lợi và Phú Đa, 2011)
Qua bảng 3.2 ta thấy diện tích đất chưa sử dụng của hai xã vẫn còn lớn. Ở Phú
Đa (261,75ha) và Quảng Lợi (51,64ha) nhưng chủ yếu là các loại đất thuộc vùng cồn
cát nên rất khó để quy hoạch sử dụng hợp lý. Đồng thời qua bảng số liệu ta thấy diện
tích trồng cỏ, chăn thả hầu như không có tại hai xã, đây cũng chính là nguyên nhân làm
chăn nuôi gia súc khó phát triển.
3.1.2.2. Dân số vùng nghiên cứu
Theo số liệu thống kê tại hai xã tính đến cuối năm 2010 tổng số dân của Quảng
Lợi là 8192 người (1899 hộ) và Phú Đa là 11988 người (2414 hộ). Mật độ dân số của
hai xã đều không quá cao. Ở Quảng Lợi là 2,5 người/ha, còn ở Phú Đa mật độ dân số
bình quân là 5,0 người/ha (bảng 3.3).
Bảng 3.3. Một số chỉ tiêu xã hội chính của hai xã nghiên cứu năm 2010
Chỉ tiêu


Quảng Lợi

Phú Đa

Số hộ (hộ)

1899

2414

Dân số (người)

8192

11988

Số người/hộ

4,3

5,0

Mật độ dân số (người/ha)

2,5

4,0

Tỷ lệ hộ nghèo (%)


15,1

9,4

Tỷ lệ cận nghèo (%)

6,7

6,59


×