Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích nghệ thuật trong tác phẩm “Bà Bôvary” của G. Flôbe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.77 KB, 8 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
* * *
VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÁP
Đề bài: Phân tích nghệ thuật trong tác phẩm “Bà Bôvary” của G. Flôbe.
Giảng viên :TS.Đào Duy Hiệp
Sinh viên : Lã Xuân Quý
Lớp : Văn K47
Hà Nội– 3/2005
Ra đời năm 1857, tiểu thuyết “Bà Bôvary”(Madamme Bovary) của
Gustave Flaubert ngay lập tức đã thu hút được sự chú ý của công chúng Pari.
Người ta quan tâm, thậm chí vồ vập nó không phải ở nội dung của tác phẩm mà
chính là ở chỗ tác giả của tác phẩm này vừa được xoá trắng án trong một vụ kiện
hy hữu: một cuốn tiểu thuyết, cùng với tác giả và nhân vật trong truyện bị đưa ra
toà vì “vi phạm thuần phong mỹ tục”. Trong lịch sử văn học Pháp từ trước tới
nay mới chỉ có hai người bị ra toà vì chuyện văn chương: một là Flaubert và hai
là Baudelaire-người mở đầu thơ ca Pháp hiện đại-với tập thơ “Hoa ác”(Les
Fleurs du Mal-1857). “Bà Bôvary”là một cuốn tiểu thuyết kể về số phận một
người phụ nữ nông thôn trưởng giả vì chán chồng-một thầy thuốc làng-mà đi
ngoại tình với một chàng luật sư trẻ tuổi nhưng không thành, rồi sau đó trở thành
tình nhân của một tay chơi, nhưng cũng bị anh ta bỏ rơi. Cuối cùng thì cô ta gặp
và bắt tình với anh chàng luật sư, nhưng sau đó thì phá sản và tự tử bằng thạch
tín để lại chồng và đứa con gái lên ba tuổi. Một cuốn tiểu thuyết có cốt truyện
đơn giản, bình thường mang dáng vẻ lãng mạn và có bề ngoài khá cổ điển nhưng
ý nghĩa và sự thành công của cuốn tiểu thuyết không chỉ dừng lại ở đó. Trước
hết phải kể đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của Flaubert, điều đã làm nên
thành công và sức sống lâu bền cho tác phẩm cho tới tận ngày nay. Tiểu thuyết,
đến Flaubert đã thực sự làm một cuộc chuyển mình lớn lao, một cuộc cách tân
lớn về mặt thể loại tiến gần đến tiểu thuyết hiện đại. Với công lao của mình,
Flaubert được xem là nhà văn bắc cầu giữa chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ
điển Pháp nửa đầu thế kỷ XIX với Xtăngđa, Banzắc và chủ nghĩa hiện đại Pháp


nửa cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX với Anaton Frăngxơ, Rômanh Rôlăng,
Rôriê Máctanh Đuyga…
Với “Bà Bôvary” Flaubert đã nói lên sự phản kháng của cá nhân chống
lại những quy tắc của xã hội và đạo đức của thế giới tư sản chật hẹp và giả dối
làm méo mó nhân cách, cằn cỗi tâm hồn và tha hoá con người. Đồng thời tác giả
vạch ra sự tan vỡ của những ảo tưởng thơ mộng lãng mạn mà cá nhân khao khát
hạnh phúc đặt vào thực tại tư sản tầm thường và hèn kém. Trong tác phẩm của
2
mình, Flaubert cắt đứt sự tồn tại của người kể chuyện, trên từng trang viết chỉ
còn lại những suy tư của trường ý thức miên man, mơ hồ và đa âm…
Không phải ngẫu nhiên trong lá thư đề ngày 30.04.1857 gửi cho Flaubert,
Victo Hugo đã viết: “Thưa ông, ông là một trong những trí tuệ dẫn đường cho
thế hệ của mình. Hãy gìn giữ cho thế hệ ấy ngọn đuốc nghệ thuật. Tôi ở trong
bóng tối, nhưng tôi yêu ánh sáng”. Còn St Beuve-nhà phê bình nảy lửa của thế
kỷ XIX-viết ngày 25.04.1987: “ Thưa ông, đấy là một quyển sách đẹp, một
quyển sách bậc thầy về miêu tả và bố cục”. Điều ấy có nghiã là, chỉ có các nhà
văn lớn đương thời mới đánh giá được hết ý nghĩa và giá trị của tác phẩm-dù
mới chỉ là ở mức tiên cảm. Công chúng Pari thời bấy giờ, cũng như bạn đọc
ngày nay không thể thấy hết giá trị to lớn của tác phẩm nếu không đi sâu vào tìm
hiểu nghệ thuật của tác giả. Chính nghệ thuật xây dựng tác phẩm đã khiến cho
Flaubert bước đi sớm một bước so với rất nhiều nhà văn đương thời.
“Bà Bôvary” là tác phẩm đầu tiên biểu hiện đầy đủ nghệ thuật khách quan
của Flaubert. Tính khách quan chính là một đặc điểm tuyệt vời trong sáng tạo
của ông. Flaubert quan niệm sáng tạo nghệ thuật là một hành vi nhận thức. Nghệ
sĩ phải thể hiện bản chất của sự vật, phải nhìn hiện tượng trong tổng thể, trong
mối liên hệ với các hiện tượng khác, phải “logic hơn tính ngẫu nhiên của các
hiện tượng, phải gạt bỏ cá nhân nghệ sĩ ra ngoài tác phẩm văn học”. “Chẳng có
gì kém cỏi hơn là đưa vào nghệ thuật tình cảm cá nhân”. Ông cho rằng nhà nghệ
sĩ lí tưởng là biết làm cho những người suy nghĩ rằng ông ta không tồn tại, nghệ
sĩ phải có một gián cách, một độ lùi với đối tượng miêu tả đó để có thể ngắm

nhìn và tái hiện nó. Chính quan điểm nghệ thuật như vậy mà Flaubert được coi
là “nhà pháp sư của ngôn ngữ, cũng khách quan như mặt trời gay gắt rọi sáng cả
vào đám bùn nhơ ngoài phố lẫn mớ đăng-ten sang trọng” (Macxim Gócki). Viết
“Bà Bôvary” thể hiện những con người hết sức xa lạ với bản thân nhà văn không
dựa được vào những gì chính mình cảm xúc mà phải nhập vào nhân vật nhờ nỗ
lực của trí tuệ và sức tưởng tượng. Mô tả đời sống bên trong của Sáclơ hay Ema,
Flaubert nhiều khi phải thâm nhập vào trong bóng tối của tiềm thức, tìm ở đó
3
những nguyên nhân của hành động, của “những phép biện chứng của tâm
hồn”…
Nhờ sự khách quan trong miêu tả và trong quá trình thâm nhập sâu vào
nhân vật, hoàn cảnh mà Flaubert đã xây dựng được cái gọi là “ảo mộng tan vỡ”
trong tác phẩm của mình. Hiện tại xã hội tư sản không dung chứa bất kì ước mơ
cao đẹp và chân chính của con người. Flaubert đã vạch trần cái tầm thường ngay
trong bản thân những mộng đẹp lãng mạn, ông chỉ ra cái nghèo nàn, bế tắc và sự
xuống dốc của mọi lực lượng trí tuệ, sự sa đoạ về nhân cách trong giới trí thức
tư sản…
Di chuyển điểm nhìn cũng là một sáng tạo đặc sắc trong tiểu thuyết của
Flaubert. Nó là một minh chứng cho tính khách quan của nghệ thuật. Đây cũng
chính là một đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại. Tiểu thuyết truyền thống thường
thống nhất trong một điểm nhìn. Ở tiểu thuyết “ Bà Bôvary” thiên nhiên, cảnh
vật, con người không chỉ được nhìn qua con mắt của Ema mà còn qua Sáclơ,
Rôđônphơ…tuỳ theo từng cảnh ngộ. Điểm nhìn di chuyển vào bên trong nhân
vật mà vẫn khách quan bởi di động qua nhiều nhân vật. Điều này khiến thế giới
miêu tả trong tiểu thuyết của Flaubert thiếu tính nhất quán, trong suốt khó tiếp
cận so với tiểu thuyết trước đây vì nó vắng bóng người bắt nhịp, cầm trịch trong
tác phẩm nhưng lại thích hợp để miêu tả một bức tranh xã hội bề bộn, phức tạp
và đa âm. Do điểm nhìn xuất phát từ nhân vật nên những cảm giác trước hiện
tượng được miêu tả nhiều khi không được họ tiếp nhận rõ ràng khiến nhân vật
không hiểu rõ về nhau thậm chí không hiểu rõ chính bản thân mình: khi Ema

xuất hiện trước Sáclơ, Lêông hoặc Rôđônphơ hay ngược lại khi Ema cảm nhận
về những người đàn ông ấy chúng ta đều nhận thấy sự cảm nhận của họ rất tản
mạn, vụn vặt không trọn vẹn.
Để nhân vật hiện lên một cách đầy đủ và sinh động Flaubert đã sử dụng
một thứ ngôn ngữ thích hợp: ngôn ngữ trực tiếp tự do, nó giống như một thứ độc
thoại nội tâm. Nhờ ngôn ngữ này mà ta có thể nhìn nhận nhân vật từ bên ngoài
và di chuyển dần vào bên trong mà vẫn giữ được tính khách quan.
4
Một yếu tố hiện đại trong nghệ thuật của tác phẩm “Bà Bôvary” không
thể không kể đến là sự xuất hiện những quãng lặng và khoảng trống. Thủ pháp
nghệ thuật này được biểu hiện rõ nhất ở chương “Hội chợ nông nghiệp” cảnh
này được xem như then chốt của tư tưởng và nghệ thuật của Flaubert. Tác giả đã
cài xen kẽ hai hình thức phát ngôn hoàn toàn trái ngược nhau: một là lời diễn
văn của một vị tai to mặt lớn và một bên là lời tình tự giữa Êma và Rôđonphơ:
một bên nói chuyện lợn, bò, phân bón…một bên thì ước mơ hạnh phúc, tình
cảm cao đẹp. Trên văn bản chúng ta không hề thấy một mối liên hệ nào giữa
những mạch ngắt đoạn của hai phát ngôn trên, “tưởng như một cuộc hoà tấu lỡ
điệu”. Khoảng trống và quãng lặng toát ra từ chính sự khập khiễng, không ăn
khớp của các đối thoại. Một bên là giọng bịp bợm, mị dân của chính quyền với
bọn ưa phỉnh nịnh. Một bên là sự lừa bịp của tình yêu. Tác giả không đưa ra một
lời bình luận, giải thích, so sánh trực tiếp nào mà chính người đọc phải tự tìm
lấy qua những đối thoại “ông chẳng bà chuộc”, “ông nói gà bà nói vịt” kia.
Khoảng trống và quãng lặng góp phần tạo ra tính đa âm, khách quan và giầu sức
thuyết phục.
Thời gian trong “Bà Bôvary” được tác giả xử lý theo ba hướng: miêu tả tự
nhiên, miêu tả đồ vật và miêu tả tâm lý. Theo Flaubert mọi sự trên đời không đổi
mới mà chỉ là sự tuần hoàn bất biến. Chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên của
ông mang sự chuyển động của thời gian mà vẫn im lìm, lặng lẽ và đôi khi thiu
ngủ trong một nỗi buồn mênh mang. Trong “Bà Bôvary” ta thấy có một hệ
thống đồ vật đã “xâm lăng”vào không gian sống, hoạt động của con người. Miêu

tả đồ vật trong trạng thái nhất định cũng là một phương thức biểu thị thời gian: “
Đồ đạc dường như càng trở nên bất động tại chỗ và mất đi trong bóng tối như
trong đại dương u ám. Lửa trong lò sưởi đã tắt, chiếc đồng hồ quả lắc vẫn đu
đưa và Êma sửng sốt một cách mơ hồ trước sự yên tĩnh ấy của mọi vật…Đưa hệ
thống đồ vật vào tác phẩm tác giả làm nổi bật hơn tính trì trệ về thời gian trong
tiến trình phát triển của nhân vật.
Tâm lí nhân vật cũng được khắc hoạ đậm nét qua thời gian. Với Sáclơ “
vũ trụ không vượt quá vòng váy của vợ”. y làm việc, ăn ngủ…chỉ là một hiện tại
5

×