1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, hoạt động bảo hiểm tiền gửi (BHTG) xuất hiện đầu tiên ở
Mỹ sau cuộc đại suy thoái 1929-1933, cuộc đại suy thoái này đã đặt ra một yêu
cầu cấp bách cần phải hình thành một tổ chức tài chính có chức năng bảo vệ
quyền lợi và duy trì niềm tin của người gửi tiền, góp phần ổn định sự phát triển
hệ thống tài chính ngân hàng. Trước tình hình đó, Tổng công ty bảo hiểm tiền
gửi Liên bang Mỹ (FDIC) đã thành lập và triển khai hoạt động BHTG từ năm
1934. Để đảm bảo thực hiện được mục tiêu giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín
dụng (TCTD), ngăn ngừa đổ vỡ ngân hàng và bảo vệ tối đa quyền lợi người gửi
tiền, một trong những công cụ thiết yếu của tổ chức BHTG là nghiệp vụ giám sát
hoạt động của các TCTD. Nguồn thông tin từ hoạt động giám sát là vô cùng
quan trọng giúp tổ chức BHTG có căn cứ để đưa ra những quyết định chính xác
trong việc đánh giá tình trạng của một TCTD.
Ở Việt Nam, hoạt động BHTG đã được triển khai từ những năm 2000 theo
chính sách BHTG của Nhà nước. Triển khai chính sách của Nhà nước, Bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) được thành lập và đã thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các
TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Là Chi nhánh thuộc hệ thống BHTGVN, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam khu vực Hà Nội (Chi nhánh) được thành lập năm 2002 và thực hiện
triển khai chính sách BHTG trên địa bàn 12 tỉnh phía Bắc và thành phố Hà Nội.
Chi nhánh thực hiện quản lý một số lượng lớn các TCTD (gồm 299 TCTD trong
đó có 28 ngân hàng thương mại (NHTM), 02 công ty tài chính, 04 công ty cho
thuê tài chính và 265 quỹ tín dụng nhân dân (QTDND)) nên hoạt động giám sát
2
từ xa là một trong những nghiệp vụ được Chi nhánh quan tâm, chú trọng hàng
đầu. Kết quả từ hoạt động này giúp Chi nhánh có những thông báo, cảnh báo kịp
thời tới các TCTD đồng thời cũng là cơ sở để Chi nhánh tiến hành nghiệp vụ
kiểm tra tại chỗ các TCTD. Tuy nhiên, các TCTD Chi nhánh quản lý đang gia tăng
về số lượng và loại hình bao gồm cả những tổ chức có vốn nước ngoài, thị thường
tài chính ngân hàng thường xuyên biến động, môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt nên rủi ro cho các TCTD ngày càng cao, vì vậy, yêu cầu hoạt động giám sát từ
xa cần hoàn thiện hơn nữa để đảm bảo cảnh báo sớm và giảm thiểu rủi ro cho hệ
thống. Bởi vậy, hoàn thiện hoạt động giám sát từ xa đang là yêu cầu cấp bách tại
Chi nhánh.
Lĩnh vực BHTG được xem là mới xuất hiện ở Việt Nam, các công trình
nghiên cứu chuyên sâu, sách chuyên khảo về BHTG chưa nhiều, chưa có giáo trình
BHTG chính thức được xuất bản tại Việt Nam và một số đề tài khoa học về BHTG
còn chưa được phổ biến rộng rãi. Các tài liệu tham khảo về BHTG chủ yếu là các
văn bản, quy định của Nhà nước, các bài viết, bài nghiên cứu được đăng tải trên các
website, tạp chí chuyên ngành và Thông tin của BHTGVN.
Chính vì vậy đề tài “Hoàn thiện hoạt động giám sát từ xa tại Chi nhánh
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội” được lựa chọn để góp phần giải
quyết yêu cầu lý luận và thực tiễn đó.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động giám sát từ xa của tổ
chức BHTG.
Phân tích thực trạng hoạt động giám sát từ xa tại Chi nhánh để thấy được
những mặt tích cực, hạn chế cũng như nguyên nhân.
Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động giám sát
từ xa tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động giám sát từ xa tại Chi
nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội 3 năm trở lại đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính trong thu thập và xử lý
thông tin đồng thời sử dụng các dữ liệu đã có sẵn để phân tích, so sánh, tổng hợp.
Cách thức tiếp cận nguồn dữ liệu thông qua quan sát, phỏng vấn, thu thập
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ
các tài liệu, báo cáo, thông tin của các phòng tại Chi nhánh và của BHTGVN.
Nguồn dữ liệu thu thập từ bên ngoài bao gồm: các bài báo, bài nghiên cứu, báo cáo
thường niên, … được đăng tải trên các báo, tạp chí, thông tin từ các website, thông
cáo báo chí của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức có uy tín. Các nguồn dữ liệu
này được trích dẫn trực tiếp trong luận văn và được ghi chú chi tiết trong mục Tài
liệu tham khảo.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động giám sát từ xa của tổ chức bảo hiểm
tiền gửi
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát từ xa tại Chi nhánh Bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam khu vực Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động giám sát từ xa tại
Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam khu vực Hà Nội.
4
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỪ
XA CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1. Khái quát về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Năm 1829,
hoạt động BHTG được công khai và thực hiện đầu tiên tại Mỹ nhằm phòng ngừa
sự đổ vỡ có tính chất định kì của ngân hàng vào thế kỉ XIX.
Trong giai đoạn 1930 – 1933, tại Mỹ mỗi năm có hơn 1.000 ngân hàng
ngừng hoạt động, đỉnh cao là năm 1933 có 4.000 ngân hàng thương mại phải
ngừng hoạt động [9]. Trước tình hình đó, ngày 01/01/1934 Bảo hiểm tiền gửi
liên bang Mỹ (FDIC) đã được thành lập, đây là mô hình được xem là hình mẫu
đầu tiên về BHTG.
Biểu đồ 1.1. Tiến độ thành lập các hệ thống BHTG trên thế giới (Nguồn: [9], [14])
5
Sau FDIC, những năm 1960, trên thế giới có sáu quốc gia thành lập tổ chức
BHTG, những năm 1970 có thêm bốn quốc gia. Hầu hết các quốc gia triển khai
hoạt động BHTG công khai vào những năm cuối 1990 (xem hình). Tính đến
31/3/2011, trên thế giới đã có 111 quốc gia thành lập hệ thống BHTG [14].
Ngày 6/5/2002, Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI) được thành lập có trụ sở
đặt tại Thụy Sỹ. Cho đến nay, IADI đã có 64 nước có hệ thống BHTG là thành
viên, 8 hội viên và 12 đối tác [15]. Việc ra đời IADI đánh dấu sự quan tâm của
nhiều nước trên thế giới về hoạt động BHTG và là động lực thúc đẩy phát triển
hoạt động BHTG tại các nước trên thế giới.
Mặc dù hoạt động BHTG đã được triển khai trong thời gian dài song ở các
nước có hoạt động này thường chỉ xác định mục tiêu, mô hình BHTG, liệt kê các
hoạt động của tổ chức BHTG. Vì vậy, một định nghĩa cụ thể, rõ ràng về BHTG
là hết sức cần thiết, đặc biệt đối với công chúng gửi tiền nhằm tạo sự thống nhất
trong việc thanh toán bảo hiểm và tạo điều kiện để xử lí các tranh chấp phát sinh
có liên quan đến tiền gửi một cách hiệu quả. Có thể hiểu khái niệm về BHTG
như sau: BHTG là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham
gia
BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho
người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG
bị
chấm dứt hoạt động và không có
khả năng thanh toán cho người gửi tiền
[8]. Trong đó:
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi là đối tác nhận đóng góp tài chính từ tổ
chức
tham gia BHTG và có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền bảo hiểm tới người có
tiền
gửi
thuộc
đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức
đó chấm dứt hoạt động
và
mất khả
năng
thanh
toán.
Tổ chức tham gia BHTG là các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân
hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi được tham gia BHTG
6
có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG và được quyền yêu cầu tổ
chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường
hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán và bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt
hoạt động.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là khách hàng có tiền gửi
thuộc
đối
tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Người gửi tiền
không phải đóng góp tài
chính
cho tổ chức BHTG nhưng có quyền yêu cầu tổ
chức BHTG thanh toán tiền gửi kể cả tiền lãi
tích
lũy trên tiền gửi đó trong
hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm của tổ chức BHTG có thể
là
toàn
bộ
hoặc một phần tiền gửi do chính sách của mỗi quốc
gia.
Hoạt động BHTG trên thế giới được tổ chức triển khai theo ba mô hình:
Tổ chức BHTG có chức năng chi trả đơn thuần: chỉ thực hiện việc chi trả
tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản nhằm
thực hiện một số mục tiêu chính sách công trong đó hai mục tiêu quan trọng
nhất là: khẳng định sự cam kết của Chính phủ về sự đảm bảo thông qua một tổ
chức và một cơ chế BHTG công khai bảo vệ người gửi tiền thông qua việc hình
thành một cơ chế bồi thường.
Tổ chức BHTG có quyền hạn mở rộng: Tổ chức này ngoài chức năng chi
trả đơn thuần còn được trao thêm một số quyền hạn như hỗ trợ tài chính cho tổ
chức tham gia BHTG gặp khó khăn trong thanh toán, theo dõi và khuyến nghị sự
cẩn trọng và phòng tránh rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG, tham gia
xử lý nợ và thu hồi nợ đối với tổ chức tham gia BHTG bị phá sản.
Tổ chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro: Ngoài các chức năng,
thẩm quyền theo hai mô hình trên còn có thêm chức năng, thẩm quyền để bảo vệ
7
tốt nhất người gửi tiền; đảm bảo sự an toàn của hệ thống tài chính và tham gia tái
thiết hệ thống tài chính – ngân hàng.
Mức độ phát triển hoạt động của hệ thống tài chính - ngân hàng, điều kiện
kinh tế, chính trị ở mỗi quốc gia có khác nhau nên việc lựa chọn mô hình triển
khai chính sách BHTG ở mỗi quốc gia cũng khác nhau.
1.1.2. Bản chất và mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Bản chất của hoạt động BHTG cũng như các loại hình bảo hiểm khác là
hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” thể hiện tính tương trợ, tính xã hội
trước rủi ro của các thành viên tham gia. Như vậy, dịch vụ BHTG là loại hàng
hóa mang tính xã hội cao, theo cách phân loại của nhà kinh tế học Stiglitz [8]:
dịch vụ BHTG thuộc loại hàng hóa công không thuần túy căn cứ vào tính không
loại trừ thụ hưởng một cách tuyệt đối của dịch vụ này.
Mặc dù cũng hoạt động dựa trên nguyên tắc như các loại hình bảo hiểm
khác nhưng hoạt động BHTG có những đặc điểm khác với các loại hình bảo
hiểm này. Trong khi bảo hiểm thương mại là loại bảo hiểm hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận và chỉ bảo hiểm cho tài sản của từng cá nhân thì BHTG là loại
hình bảo hiểm phi lợi nhuận thực hiện mục tiêu chính sách công nhằm bảo vệ
quyền lợi cho người gửi tiền và góp phần ổn định hệ thống tài chính quốc gia.
Ngoài ra, BHTG không thụ động đối với những rủi ro xảy ra mà sử dụng tất cả
các phương thức nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG hoạt động an
toàn và kiểm soát hiệu quả các rủi ro tài chính.
Theo khảo sát của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế (IADI) [2] thì mục
đích cơ bản nhất của BHTG là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần ổn
định hệ thống tài chính ngân hàng, bên cạnh đó là cải tiến xử lý những đổ vỡ của
8
các TCTD, bảo vệ hệ thống thanh toán, đảm bảo để các ngân hàng chia sẻ chi phí
đối với những đổ vỡ và khủng hoảng tài chính
Trên thế giới, mỗi một hệ thống BHTG đều có những mục tiêu cụ thể khác
nhau nhưng nhìn chung đều nhằm:
Bảo vệ số đông người gửi tiền, đây thường là đối tác có những hạn chế nhất
định trong tiếp cận thông tin về quản lý, điều hành và tình hình hoạt động của
các TCTD;
Đảm bảo hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động lành mạnh, ổn định và
ngăn
chặn
đổ
vỡ ngân hàng thông qua các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức
BHTG;
Góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh, công bằng và bình
đẳng giữa các TCTD có qui mô và trình độ phát triển khác nhau;
Qui định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức
BHTG, tổ chức tham gia BHTG, Chính phủ và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho
người đóng thuế trong trường hợp có ngân hàng đổ vỡ.
Trong trường hợp có ngân hàng bị đổ vỡ, nếu Chính
phủ
bỏ tiền để chi trả
cho người gửi tiền, tức là Chính phủ phải lấy tiền từ ngân sách để trang trải
cho
sự
sụp đổ của ngân hàng này. Điều này không phù hợp với quy luật của nền
kinh tế
thị
trường, bởi lẽ đã kinh doanh thì phải gánh chịu rủi ro. Chính vì vậy,
nhiều quốc gia rất hạn chế việc
sử
dụng ngân sách để xử lý đổ vỡ của các
TCTD. Với sự hình
thành
của
hệ thống BHTG, rủi ro được phân tán, chia sẻ
cho nhiều bên liên
quan
và điều đó sẽ tạo ra tính ổn định cho xã
hội.
1.1.3. Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi:
Có thể hình dung vai trò của tổ chức BHTG thông qua sơ đồ:
9
Sơ đồ 1.1 Vai trò của tổ chức BHTG [10]
Bảo vệ người gửi tiền, nâng cao niềm
tin
của công chúng đối với hệ thống
tài chính, ngân hàng: Trong nền kinh tế thị trường,
bảo
vệ người tiêu dùng nói
chung và người gửi tiền nói riêng là yêu cầu đặt ra đối với
Chính
phủ mỗi nước.
Bảo vệ người tiêu dùng là để đảm bảo cân bằng giữa sự phát triển và đảm bảo
quyền
lợi
của người dân trong xã hội. BHTG là một công cụ tài chính hữu hiệu
được hầu
hết
các Chính phủ sử dụng để bảo vệ
người
gửi
tiền.
Tổ
chức
BHTG
có nhiệm vụ thay mặt Chính phủ bảo vệ tiền gửi của người dân, và trong trường
hợp
TCTD
bị đổ vỡ thì tổ chức BHTG phải có trách nhiệm chi trả toàn bộ hoặc
Vai trò của tổ
chức BHTG
Bảo vệ người gửi
tiền, nâng cao niềm
tin
của công chúng
vào hệ thống tài
chính, ngân hàng
Vai trò trong xử
lý khủng hoảng tài
chính, ngân hàng
Góp phần thúc đẩy
quá trình huy động
vốn phục vụ phát
triển kinh
tế
và ổn
định xã hội.
Góp phần đảm
bảo an toàn lành
mạnh hoạt động
của các TCTD
10
một phần tiền gửi cho người gửi
tiền.
Thực tế cho thấy khi người dân không tin tưởng vào hệ thống tài chính -
ngân
hàng thì trước hết hệ thống ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng và sau đó là toàn bộ
nền kinh tế của
quốc
gia cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng theo. Một ví dụ điển
hình là cuộc khủng hoảng tài
chính
tại Mỹ từ
năm
2007 đến nay chính là cuộc
khủng hoảng niềm tin của người dân vào khả năng thanh khoản
của
các ngân
hàng, họ đã rút tiền ồ ạt, không gửi tiền tại các ngân hàng nữa và điều này đã
chứng
minh rõ nét vai trò của người gửi tiền đối với sự tồn tại, sự phát triển
của hệ thống ngân
hàng
quốc gia. Khi công chúng không tin tưởng vào hệ
thống ngân hàng - tài chính, họ thường lựa
chọn
mua vàng hay bất động sản
để tích lũy tài sản thay vì gửi tiền vào ngân hàng.
Điều
này ảnh hưởng không tốt
đến toàn bộ nền kinh tế, do vậy sẽ cản trở sự phát triển, đặc biệt
ở
những
quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Ở Việt Nam, vào khoảng cuối những
năm 2000 khi mà hàng loạt quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) bị sụp đổ đã gây
tổn
thất rất lớn cho nền kinh tế của Việt Nam lúc bấy
giờ.
Mặt khác, nếu người
dân không tin tưởng vào hệ thống ngân hàng nói chung và TCTD nói riêng, lập
tức người dân sẽ có hành động rút tiền nhanh chóng ra khỏi hệ thống ngân hàng.
Trường
hợp này vô cùng nguy hiểm nếu hiện tượng này xảy ra hàng loạt và điều
đó có thể dẫn đến đổ
vỡ
dây chuyền trong hệ thống ngân hàng gây nguy hại đến
toàn bộ nền kinh tế. Lịch sử hoạt động tài chính - ngân hàng
đã
xảy ra khá nhiều
vụ rút tiền ồ ạt, gây tê liệt và đổ vỡ của các ngân hàng, như ở Mỹ
vào
những
năm 1920, 1930 hay ở châu Á năm 1997 và gần đây nhất là
ở
Anh, Mỹ (Ngân
hàng
Northern Rock của Anh,
và
ngân hàng Contrywide của Mỹ). Do đó, nền
kinh tế của các quốc gia này đã bị chao đảo bởi
hệ
quả của khủng hoảng tài
chính - ngân hàng. Qua đó, cho thấy tổ chức BHTG có vai trò quan trọng trong
việc xây dựng và củng cố niềm tin
của
công chúng đối với hệ thống tài chính -
11
ngân hàng. Tổ chức BHTG đã thay mặt Chính phủ
bảo
vệ tiền gửi của dân, và
trong trường hợp TCTD bị đổ vỡ, BHTG sẽ chi trả toàn
bộ
hoặc một phần tiền
gửi cho người gửi tiền. Trong nền kinh tế, ngân hàng là trung gian tín dụng, là
cầu nối
giữa
người có vốn và người cần vốn. Trong quá trình chu chuyển của
nguồn vốn nếu không có
yếu
tố
niềm tin thì chu trình đó sẽ bị “tắc nghẽn” và
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh
tế.
BHTG xây dựng và củng cố
niềm tin của công chúng đối với hệ thống
ngân
hàng thông qua một số hoạt
động
như:
Cung cấp đầy đủ hơn cho công chúng thông tin về các ngân
hàng;
Thực hiện các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro đối với tổ chức tham gia
BHTG;
Hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn về tài chính
nhằm phục hồi
hoạt
động của tổ chức
đó;
Xử lý tổ chức tham gia BHTG bị đổ
vỡ;
Góp phần thúc đẩy và đảm bảo hoạt động tài chính, ngân hàng phát triển an
toàn,
lành
mạnh và nâng cao kỷ cương thị
trường;
Tạo sự cạnh tranh bình đẳng
giữa các TCTD
,
đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của các TCTD
.
Góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hoạt động của các TCTD: BHTG
đã tạo ra sự công bằng, tạo
ra
“sân chơi bình đẳng” cho tất cả các TCTD, đặc
biệt là các TCTD có quy
mô
hoạt động nhỏ. Bên cạnh đó, yếu tố tâm lý cũng ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động ngân hàng. Nếu không có BHTG thì thông thường
người gửi tiền sẽ có cảm giác yên tâm hơn khi gửi
tiền
vào các ngân hàng lớn.
Tuy nhiên, nếu có hoạt động của hệ thống BHTG thì họ cũng có
thể
lựa chọn
những TCTD có quy mô nhỏ để gửi tiền vì ở đâu thì tiền gửi của họ cũng
vẫn
được an toàn. Điều đó thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển bình đẳng, tránh
được tình trạng
thu
hẹp cơ hội khách hàng đến với TCTD quy mô nhỏ hoặc loại
hình khác
nhau.
Thông qua các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro các TCTD, tổ chức
BHTG
đã
góp
phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân
12
hàng. Bằng
các
nghiệp vụ này, BHTG có thể cảnh báo đến cơ quan chức năng
hoặc TCTD về tình
hình
hoạt động của các TCTD có vấn đề để từ đó giúp các
cơ quan chức năng và các TCTD có vấn đề có những biện pháp điều chỉnh kịp
thời nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống
.
Như vậy, BHTG không chỉ có vai trò
trong việc bảo vệ tiền gửi mà còn có vai trò quan
trọng
trong việc quản lý rủi ro.
Trong
trường hợp TCTD gặp khó khăn thì BHTG sẽ dùng biện pháp hỗ trợ tài
chính, và
trong
tình thế không thể cứu vãn được nữa thì BHTG sẽ đứng ra chi
trả tiền gửi cho người gửi
tiền.
Có thể hình dung vai trò của tổ chức BHTG trong chu kỳ hoạt động của
một TCTD cụ thể:
Sơ đồ 1.2 Vai trò của tổ chức BHTG trong chu kỳ hoạt động của TCTD [10]
Góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh
tế
và
ổn định xã hội. Huy động vốn trong dân để phục vụ phát triển là yêu cầu quan
trọng đặt ra đối với
mỗi
nền kinh tế đặc biệt ở những nước đang phát triển thì
nhu cầu này càng tăng. Nhà nước sử
dụng
nhiều kênh để thu hút nguồn vốn
nhưng có một kênh rất quan trọng là thu hút nguồn vốn qua
các
ngân hàng. Để
BHTG tham gia
thẩm
định điều
kiện
được
cấp
phép hoạt
động
của
TCTD.
BHTG tham gia xử
lý TCTD bị đổ vỡ
thông qua một số
biện pháp như hỗ
trợ tài chính, thành
lập ngân hàng bắc
cầu, chi trả tiền gửi
được
bảo hiểm.
BHTG thực hiện
kiểm tra,
giám sát
thường
xuyên và
đưa ra cảnh báo
kịp thời, tham gia
tái
cấu
trúc hệ
thống ngân hàng.
Bắt đầu cấp
phép hoạt động
Chấm dứt hoạt
động
Đang hoạt
động
13
thu hút được vốn nhàn rỗi trong dân cư tức là người dân sẽ gửi tiền vào
các
ngân hàng thay vì cất giữ dưới dạng tài sản khác thì người
dân
cần phải có
niềm tin đối với hệ thống tài chính ngân hàng. Khi người dân biết được có tổ
chức
BHTG
thay mặt Chính phủ để bảo vệ tiền gửi của họ thì họ sẽ yên tâm
hơn khi gửi tiền vào ngân
hàng.
Vai trò trong xử lý khủng hoảng tài chính, ngân hàng: hoạt động BHTG
không
chỉ
có
vai trò quan trọng trong thời kỳ hoạt động ổn định mà còn có vai
trò quan trong trong
trường
hợp xảy ra khủng hoảng tài chính - ngân hàng. Điều
đó lý giải tại sao hệ thống BHTG đầu
tiên
trên thế giới hình thành sau khi xảy ra
khủng hoảng tài chính, ở Mỹ và hàng loạt các quốc
gia
ở khu vực Châu Á thành
lập hệ thống BHTG sau khi xảy ra khủng hoảng tài chính, kinh tế
trong
khu
vực.
Một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính - ngân hàng là
để xảy
ra
hiện tuợng rút tiền hàng loạt. Trong khi đó hoạt động tài chính - ngân
hàng là hoạt động
có
tính nhạy cảm và lan truyền cao do vậy hiện tượng đó có
thể xảy ra bất cứ lúc nào, đôi khi có thể do những tin đồn thất thiệt mà không
phải xuất phát từ nguyên nhân do hoạt động của một
TCTD
yếu kém nào, trong
trường hợp này, BHTG là một “lá chắn” quan trọng để
ngăn
chặn hiện tượng
đó.
Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 2008 vừa qua, BHTG đã là công
cụ đắc
lực
góp
phần giúp các chính phủ tạo lập niềm tin của người dân đối với
hệ thống tài chính
ngân
hàng.
Với những quốc gia có hệ thống BHTG hoạt động
hiệu quả thì việc xử lý
khủng
hoảng tài chính ở những quốc gia đó sẽ tốt hơn và
ngược lại. Ví dụ điển hình tại hai ngân hàng Northern Rock của Anh và Ngân
hàng Countrywide của Mỹ cho thấy. Đây
là
hai
ngân hàng cho vay thế chấp bất
động sản lớn nhất ở Anh và Mỹ. Chỉ vì có thông tin cho rằng Ngân hàng
Northern Rock cho vay thế chấp tràn lan và không có khả năng thanh toán
nên
14
người gửi tiền đã đua nhau đến rút tiền tại ngân hàng này. Mặc dù Ngân hàng
Trung ương Anh
đã
“bơm” rất nhiều tiền để
“cứu”
Northern Rock nhưng không
ngăn được dòng người đến rút tiền hàng
loạt. Trong khi đó, tại
Countrywide
không xảy ra hiện tượng này
do hệ thống BHTG ở Mỹ hoạt động hiệu quả và
người dân tin tưởng vào hệ thống tài chính ngân hàng [10].
1.1.4. Các hoạt động chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi:
Tùy vào mục đích và mô hình tổ chức ở mỗi quốc gia mà tổ chức BHTG
có những hoạt động cụ thể. Tuy nhiên, nhìn chung các tổ chức BHTG trên thế
giới đều thực hiện một số hoạt động: kiểm tra, giám sát từ xa, hỗ trợ, chi trả tiền
bảo hiểm. Ngoài các hoạt động này, tổ chức BHTG còn thực hiện các hoạt động
liên quan tới công tác quản trị, điều hành để vận hành bộ máy tổ chức của mình.
1.2 Hoạt động giám sát từ xa của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
1.2.1. Khái niệm về giám sát từ xa
Trong Từ điển tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét
làm đúng hoặc sai những điều đã quy định” hoặc được hiểu là “theo dõi và kiểm
tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không” [17].
Trong hoạt động giám sát nói chung cả chủ thể giám sát, đối tượng được
giám sát, nội dung, tính chất của hoạt động giám sát đều rất đa dạng, tuy nhiên
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ đề cập đến hoạt động giám
sát của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG.
Theo Sahajwala R., and Bergh P.V trong Supervisory Risk Assessment and
Early Warning Systems thì khái niệm “giám sát từ xa” được hiểu là một trong
những công cụ hữu hiệu phục vụ cho mục tiêu kiểm soát thường xuyên hoạt động
của các tổ chức tài chính. Các cơ quan kiểm soát tài chính ở những quốc gia
15
không đủ nguồn lực và thẩm quyền để thực hiện việc kiểm tra trực tiếp, định kỳ
thường sử dụng nhiều công cụ này để quản lý tình hình và điều kiện tài chính của
các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính khác, qua đó xác định những tổ
chức nào cần phải áp dụng những biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn [1, tr.8].
Theo Quyết định số 628/QĐ-BHTG111 ngày 31/12/2010 của Tổng giám
đốc BHTGVN về việc “Hướng dẫn thực hiện Quy chế giám sát từ xa đối với ngân
hàng thương mại”, khái niệm “giám sát từ xa” được hiểu như sau: Là quá trình theo
dõi, phân tích, đánh giá việc thực hiện quy định về bảo hiểm tiền gửi, tình hình hoạt
động và mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dựa trên nguồn thông
tin của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và các nguồn thông tin khác, từ đó đưa ra
các cảnh báo, đề xuất biện pháp chấn chỉnh, giúp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi hoạt động đúng pháp luật, an toàn và hiệu quả. Trong phạm vi nghiên cứu, Luận
văn sẽ sử dụng khái niệm “giám sát từ xa” theo cách hiểu như trên.
1.2.2. Mục tiêu của hoạt động giám sát từ xa
Mục tiêu của hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG cũng không
khác nhiều so với các cơ quan kiểm soát tài chính khác. Hoạt động này của tổ
chức BHTG được tiến hành trên cơ sở báo cáo định kỳ và thông tin về khách
hàng tham gia BHTG, căn cứ trên thông tin đầu vào tổ chức BHTG phân tích,
đánh giá và đưa ra những khuyến nghị, cảnh báo sớm đối với tổ chức tham gia
BHTG giúp các đơn vị có những điều chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, hoạt động
giám sát từ xa còn là cơ sở để tổ chức BHTG tiến hành lựa chọn kiểm tra định
kỳ, đột xuất các tổ chức tham gia BHTG.
Các mục tiêu chính của hoạt động giám sát từ xa: giám sát sự phát triển và
mức độ rủi ro tại từng ngân hàng và trong mức chuẩn được quy định, so sánh với
các ngân hàng tương xứng. Thứ hai, là giám sát sự tuân thủ các giới hạn thận
16
trọng của một ngân hàng. Thứ ba, cung cấp đầu vào cho nguồn dữ liệu phục vụ
cho hoạt động kiểm tra và lên kế hoạch kiểm tra.
1.2.3. Quy trình và phương pháp giám sát từ xa
Quy trình giám sát bao gồm việc phân tích và đánh giá tình trạng tài chính
định kỳ và các thông tin khác để xác định xem có cần phải tiến hành một cuộc
kiểm tra đối với tổ chức đó hay không. Các khía cạnh trong quy trình giám sát
được miêu tả trong Sơ đồ 1.3.
Sơ đồ 1.3 Quy trình giám sát từ xa [1, tr.10]
Có nhiều phương pháp giám sát từ xa để phân tích đánh giá tình hình hoạt
động của tổ chức tham gia BHTG, tuy nhiên có thể phân biệt thành hai loại:
Phương pháp đơn giản: phương pháp này chủ yếu là việc theo dõi hoặc
phân tích các chỉ số, tỷ lệ trên bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập và các báo
cáo khác để xác định các khả năng, mức độ hoạt động của tổ chức tham gia
BHTG có đạt chuẩn theo quy định hay không để có biện pháp cảnh báo, xử lý
kịp thời.
Phương pháp tiên tiến: Phương pháp này sử dụng phân tích thống kê kinh
tế lượng có thể kết hợp với phương pháp định tính để ước lượng, phân loại. Mức
Bộ thông tin định
lượng (trong quá
khứ)
GIÁM SÁT TỪ XA
Nhập dữ liệu vào
cơ sở dữ liệu
Ra quyết định
hành động
Đánh giá thông tin
17
độ phức tạp của các phương pháp giám sát từ xa được áp dụng trên thế giới hiện
đang tăng lên theo mô hình kim tự tháp. Từ phân tích định lượng dựa trên các
chỉ số của một ngân hàng, phân tích theo nhóm ngân hàng, đánh giá theo mức độ
rủi ro và hệ thống cảnh báo sớm. Trong đó hệ thống cảnh báo sớm là mô hình
giám sát tiên tiến và hiệu quả nhất nhưng mới chỉ áp dụng ở một số nước tiên
tiến trong hoạt động giám sát tài chính ngân hàng, trong khi phương pháp phân
tích định lượng dựa trên các chỉ số CAMELS được áp dụng phổ biến tại các
nước đang phát triển [1].
1.2.4. Tổ chức giám sát từ xa
Địa điểm tiến hành giám sát: hoạt động giám sát được thực hiện tại trụ sở
của tổ chức BHTG, chứ không phải tại trụ sở của tổ chức tham gia BHTG.
Tổ chức bộ máy cho hoạt động giám sát từ xa: tổ chức BHTG tùy vào
điều kiện, đặc điểm của mô hình để tổ chức bộ máy giám sát theo phân loại các
tổ chức tham gia BHTG, theo địa bàn hoạt động hoặc theo quy mô của tổ chức
tham gia BHTG.
Nguồn số liệu để giám sát: giám sát từ xa sử dụng nguồn thông tin từ các
tổ chức tham gia BHTG và thu thập từ các nguồn thông tin khác. Định kỳ, các
tổ chức tham gia BHTG gửi thông tin, báo cáo cho tổ chức BHTG theo quy
định. Đây là nguồn số liệu chủ yếu phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa, ngoài
ra, hoạt động giám sát từ xa còn sử dụng các nguồn thông tin khác: thông tin
do NHNN, các cơ quan có thẩm quyền cung cấp, thông tin từ các phương tiện
thông tin đại chúng
Cách thức giám sát: hoạt động giám sát được thực hiện liên tục theo định
kỳ tháng, quý, năm trên cơ sở nguồn thông tin đầu vào từ tổ chức tham gia
BHTG, của các cơ quan thanh tra giám sát khác và các nguồn thông tin khác tự
18
thu thập. Cán bộ giám sát sử dụng hệ thống các chỉ tiêu phân tích, đánh giá dựa
trên khuôn khổ CAMELS và hệ thống các nguyên tắc của Hiệp ước Basel 1,
Basel 2, để xử lý, phân tích thông tin. Căn cứ vào kết quả giám sát đưa ra
những nhận định về tình hình hoạt động của từng tổ chức tham gia BHTG và của
toàn hệ thống. Các chương trình giám sát được thực hiện trên mạng máy tính,
trên cơ sở phần mềm giám sát xử lý thông tin.
1.2.5. Các mô hình sử dụng trong hoạt động giám sát từ xa
Mỗi tổ chức BHTG ở các quốc gia khác nhau thường vận dụng các mô
hình đo lường rủi ro khác nhau để tiến hành hoạt động giám sát các tổ chức
tham gia BHTG: mô hình 6C, mô hình CAMELS, mô hình chấm điểm, … hoặc
có thể sử dụng kết hợp các mô hình trong hoạt động giám sát. Trong phạm vi
nghiên cứu, Luận văn trình bày cụ thể về mô hình CAMELS, là mô hình được sử
dụng phổ biến trong hoạt động giám sát các tổ chức tham gia BHTG.
Mô hình CAMELS: là hệ thống xếp hạng giám sát ngân hàng được dựa
trên cơ sở kết quả kiểm tra tại chỗ, cho phép cơ quan giám sát xác định được
các tổ chức cần phải lưu ý theo kết quả xếp hạng hàng năm.
Hệ thống xếp hạng được xây dựng theo thông lệ quốc tế và có vận dụng
cho phù hợp với thực trạng hệ thống tài chính ngân hàng ở mỗi nước. Thực tế, có
nhiều mô hình khác nhau được sử dụng như: CAMELS hay ORAP, PATROL
(về cơ bản, các mô hình này cũng dựa trên cơ sở các tiêu chí tương đối giống
như mô hình CAMELS).
Hệ thống CAMELS được xây dựng và các cơ quan giám sát Mỹ sử dụng
từ những năm 1980. Hệ thống xếp hạng theo phương pháp CAMELS tính toán
với các tiêu chí Vốn, Chất lượng tài sản, Khả năng Quản lý, Thu nhập và Tính
19
thanh khoản để xếp hạng các ngân hàng theo mức từ 1 đến 5 theo mức độ cần
giám sát tăng dần. Từ năm 1996, hệ thống này mới bổ sung thêm các tiêu chí về
mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường. Mô hình giám sát từ xa theo CAMELS
hiện đang được nhiều nước trên thế giới thực hiện, chứa đựng đầy đủ những nội
dung cần thiết để tiến hành đánh giá xếp hạng các ngân hàng. Các thành phần
của CAMELS là: C = Capital adequacy (sự đủ vốn); A = Assets quality (chất
lượng tài sản có); M = Management capacity (năng lực quản lý); E = Earnings
(khả năng sinh lời); L = Liquydity (khả năng thanh toán); S = Sensibility to
market risk (sự nhạy cảm rủi ro thị trường) [7].
Sự đủ vốn (C): Vốn ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng hơn không chỉ
đơn thuần là vốn tự có của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động trong môi
trường kinh doanh bình đẳng, có đủ vốn là một lợi thế và còn là nội dung bắt
buộc theo quy định của pháp luật. Một ngân hàng cần duy trì một mức vốn đảm
bảo chống đỡ với các loại rủi ro đặc trưng của ngân hàng và khả năng quản lý để
xác định, đo lường, kiểm soát và điều chỉnh những rủi ro này.
Chất lượng tài sản có (A): Tài sản có của ngân hàng được xem là có chất
lượng, khi ngân hàng quản lý được rủi ro, tránh được sự tập trung tín dụng, tỷ lệ
nợ bị phân loại trong tổng dư nợ ở mức chấp nhận được. Việc đánh giá chất
lượng tài sản có nên xem xét đến các mức độ tập trung tín dụng hoặc đầu tư, bản
chất và số lượng của các nhóm nợ đặc biệt, và tính hợp lý của các chính sách cho
vay và các quy trình thủ tục tín dụng.
Năng lực quản lý (M): Trình độ năng lực của Hội đồng quản trị, của Ban
giám đốc, trình độ của hệ thống nhân viên, sự hoàn hảo của hệ thống thông tin
quản lý… Năng lực quản lý cần được đánh giá dựa trên tất cả các yếu tố được
cho là cần thiết đối với hoạt động của ngân hàng trong một môi trường hoạt động
20
an toàn. Việc đánh giá năng lực quản lý cũng cần xem xét đến những chất lượng
của những hoạt động kinh doanh và các chính sách cho vay, đầu tư cũng như sự
tham gia của Ban giám đốc và các cổ đông. Căn cứ vào đặc trưng và phạm vi
hoạt động của ngân hàng, hoạt động quản lý có thể xem xét đến một số hoặc tất
cả những rủi ro sau: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, hoặc các
giao dịch, danh tiếng, chiến lược, khả năng tuân thủ, tính pháp lý và thanh khoản
của ngân hàng.
Khả năng sinh lời (E): Được đánh giá dựa trên khả năng xử lý các khoản
nợ mất vốn, khả năng đảm bảo mức vốn cần thiết, xu hướng tăng trưởng của thu
nhập, … Việc đánh giá cũng cần xem xét mối quan hệ với tỷ lệ chi trả cổ tức, với
tốc độ tăng trưởng lợi nhuận để lại và mức độ đảm bảo vốn của ngân hàng.
Ngoài ra, đề phòng với những bất thường, với các giao dịch chứng khoán và các
tác động của thuế cũng được xem xét khi đánh giá khả năng sinh lời.
Khả năng thanh khoản (L): Được đánh giá theo khả năng thanh toán
nhanh chóng các khoản tiền gửi, tần suất và mức độ sử dụng nguồn vốn đi vay
của ngân hàng, năng lực chuyên môn liên quan đến cơ cấu tài sản nợ, mức độ
sẵn có của tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt và mức độ tiếp cận với thị
trường tiền tệ hoặc những nguồn vốn khác. Mức độ thanh khoản của một ngân
hàng phải được đánh giá theo từng giai đoạn và từng thời điểm cụ thể.
Sự nhạy cảm rủi ro thị trường (S): Yếu tố này phản ánh mức độ tại đó
những thay đổi về lãi suất, tỉ giá hối đoái, giá tiêu dùng hoặc giá vốn có thể ảnh
hưởng đến thu nhập hoặc vốn của một ngân hàng. Khi đánh giá yếu tố này cần
xem xét các vấn đề như: khả năng trong việc xác định, đo lường, giám sát và
kiểm soát rủi ro thị trường; quy mô ngân hàng; bản chất và mức độ phức tạp về
các hoạt động kinh doanh của ngân hàng; và mức độ đầy đủ về vốn và thu nhập
21
liên quan đến mức độ rủi ro thị trường. Đối với nhiều ngân hàng, các rủi ro thị
trường thường xuất phát từ trạng thái đầu tư và mức độ nhạy cảm với những thay
đổi về lãi suất. Ở các ngân hàng lớn hơn, hoạt động ở nước ngoài có thể là
nguyên nhân chủ yếu về rủi ro thị trường và một số ngân hàng khác thì hoạt
động kinh doanh ngoại hối lại là nguyên nhân chính về rủi ro thị trường.
Nhìn chung, việc xếp hạng sẽ được sử dụng để đánh giá thực trạng của hệ
thống các TCTD, từ đó đưa ra những đề xuất cần thiết cho công tác kiểm tra tại
chỗ. Nội dung của toàn bộ hoạt động kiểm tra tại chỗ sẽ dẫn đến những điều
chỉnh cho việc xếp hạng tổng thể CAMELS. Mức xếp hạng tổng hợp là kết quả
của việc xếp hạng 6 yếu tố trên. Xếp hạng 1 là mức xếp hạng cao nhất với ý
nghĩa là tổ chức có hệ thống tốt nhất, đảm bảo chất lượng quản lý rủi ro, gắn liền
với một mức độ giám sát ít nhất. Xếp hạng 5 là mức xếp hạng xấu nhất, tức là tổ
chức này có hoạt động yếu kém, không đảm bảo khả năng quản lý rủi ro và đòi
hỏi khả năng quản lý rủi ro và đòi hỏi hoạt động giám sát cao nhất cho tổ chức
này [7].
1.3 Hoàn thiện hoạt động giám sát từ xa của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
1.3.1 Sự cần thiết của hoạt động giám sát từ xa
Mục tiêu cơ bản của tổ chức BHTG là bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền
và góp phần ổn định hoạt động tài chính ngân hàng của quốc gia. Để thực hiện
tốt mục tiêu của mình tổ chức BHTG cần phải triển khai đồng bộ các nghiệp vụ
đồng thời ưu tiên việc ngăn ngừa phòng chống đổ vỡ các TCTD hơn là thực hiện
chi trả khi các tổ chức này lâm vào phá sản.
Hoạt động giám sát từ xa giúp tổ chức BHTG nắm bắt đầy đủ thông tin, cập
nhật chính xác tình hình hoạt động của từng tổ chức tham gia BHTG từ đó đưa ra
các biện pháp, kiến nghị xử lý kịp thời. Đây là bước cơ bản để có được những
thông tin quan trọng giúp tổ chức BHTG đưa ra những quyết định về hỗ trợ hay
22
gửi thông báo, cảnh báo đến các tổ chức có dấu hiệu vi phạm quy định. Ngoài ra,
khi chất lượng hoạt động giám sát được nâng cao thì khả năng đánh giá, xếp hạng
rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG sẽ chính xác và có tính thuyết phục
hơn, đây là một trong những điều kiện thuận lợi để tổ chức BHTG triển khai áp
dụng mức phí theo mức độ rủi ro.
Hoạt động giám sát từ xa của tổ chức BHTG còn là cơ sở để tiến hành
nghiệp vụ kiểm tra tổ chức tham gia BHTG. Trong giai đoạn đầu mới triển khai
hoạt động BHTG, để tổ chức BHTG chuẩn bị một đội ngũ nhân lực lớn tiến hành
kiểm tra thường xuyên khách hàng tham gia BHTG có thể sẽ là khó khăn cho tổ
chức BHTG và cả khách hàng tham gia BHTG. Khi này, trên cơ sở kết quả của
hoạt động giám sát cho phép tổ chức BHTG có thể tiến hành kiểm tra theo
phương thức chọn mẫu, không nhất thiết phải kiểm tra đồng loạt các tổ chức tham
gia BHTG. Hơn nữa, khi nền kinh tế càng phát triển, cần phải tìm các giải pháp
để khuyến khích tính tuân thủ các qui định từ các tổ chức tham gia BHTG một
cách tự giác. Mục đích này sẽ đạt được khi chất lượng và hiệu quả công tác giám
sát khách hàng tham gia BHTG của tổ chức BHTG ngày càng được nâng cao.
Ngày nay, hoạt động giám sát an toàn hệ thống đã làm thay đổi cơ bản
diện mạo và nội dung hoạt động của tổ chức BHTG là tổ chức tài chính Nhà
nước, so với các quỹ BHTG chỉ thực hiện chức năng chi trả tiền gửi cho người
gửi tiền sau khi TCTD bị phá sản. Hoạt động giám sát quan trọng đến mức nhiều
nước gọi tổ chức này là cơ quan giám sát hoặc như một thành viên của hệ thống
giám sát an toàn tài chính quốc gia.
1.3.2. Kết quả hoạt động giám sát từ xa
Hoạt động giám sát là một trong những nghiệp vụ quan trọng của tổ chức
BHTG, Nhờ hoạt động giám sát từ xa, tổ chức BHTG có thể tiếp cận được các
23
mặt yếu kém trong hoạt động của các TCTD để đánh giá chính xác những yếu tố
rủi ro. Đối tượng giám sát là tài sản xấu, nợ khó đòi, công tác quản lý có nhiều
vấn đề Kết quả hoạt động giám sát là cơ sở để tổ chức BHTG áp dụng các giải
pháp tác động tích cực tiếp theo như: để thu phí theo mức độ rủi ro, để xử lý tài
sản, nợ xấu, nợ khó đòi, thông qua các nghiệp vụ mua bán nợ, hỗ trợ tài chính…
Bởi vậy, kết quả giám sát từ xa có tác dụng phát hiện, cảnh báo nguy cơ
rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG; có tác
dụng tư vấn và tham khảo trong việc nhận định tổng quan về hoạt động của các
tổ chức tham gia BHTG đối với các cơ quan chức năng để từ đó đưa ra những
nhận định phù hợp phục vụ cho công tác quản lý.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả hoạt động giám sát từ xa
Quy trình giám sát: Tùy theo điều kiện và quy định của từng quốc gia mà
các tổ chức BHTG xây dựng cho mình các quy trình giám sát tương ứng. Việc
phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan giám sát về tài chính ngân hàng ở
các quốc gia sẽ liên quan trực tiếp đến quy trình giám sát của tổ chức BHTG. Từ
việc tiếp nhận thông tin đầu vào, quy trình xử lý thông tin đến kết luận cuối
cùng đều có sự khác biệt ở từng nước. Ngoài ra, đối với mỗi tổ chức BHTG việc
lựa chọn mô hình hay phối hợp giữa các mô hình giám sát khác nhau đều có ảnh
hưởng tới kết quả của hoạt động giám sát.
Nội dung giám sát: Mỗi tổ chức BHTG tùy vào mô hình hoạt động mà có
nội dung giám sát khác nhau. Đối với tổ chức BHTG hoạt động theo mô hình
giảm thiểu rủi ro thì chức năng giám sát được thiết lập chặt chẽ để bảo đảm chức
năng giám sát giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tài chính ngân hàng. Với tổ chức
BHTG hoạt động theo mô hình chi trả thì hoạt động giám sát các tổ chức tham
gia BHTG hầu như không có, do mục đích chủ yếu của tổ chức này là thực hiện
24
việc chi trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG phá sản. Tương ứng với
mỗi mô hình hoạt động của tổ chức BHTG thì nội dung giám sát cũng khác
nhau. Có mô hình thì xây dựng nội dung giám sát chi tiết, cụ thể về các chỉ tiêu
an toàn trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, có mô hình thì nội dung
giám sát chỉ nhằm mục tiêu để tổ chức tham gia BHTG chấp hành tốt các quy
định của pháp luật về hoạt động BHTG.
Mô hình giám sát: Việc lựa chọn mô hình nào để tiến hành giám sát các
tổ chức tham gia BHTG đều có ảnh hưởng tới kết quả giám sát ở một mức độ
nhất định. Có nhiều mô hình giám sát từ xa để phân tích đánh giá tình hình hoạt
động của tổ chức tham gia BHTG, tuy nhiên việc sử dụng từng mô hình hay kết
hợp sử dụng các mô hình sẽ cho kết quả giám sát khác nhau.
Trong các mô hình sử dụng cho hoạt động giám sát từ xa thì hệ thống cảnh
báo sớm được xem là mô hình giám sát tiên tiến và hiệu quả nhất nhưng mới chỉ
áp dụng ở một số nước tiên tiến trong hoạt động giám sát tài chính ngân hàng,
trong khi mô hình phân tích định lượng dựa trên các chỉ số CAMELS được áp
dụng phổ biến tại các nước đang phát triển [1].
Ngoài ra, các yếu tố như nguồn nhân lực thực hiện hoạt động giám sát và
hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động giám sát cũng là những yếu tố
quan trọng có ảnh hưởng lớn tới kết quả của hoạt động giám sát. Ở một số nước
tiên tiến nhân lực và hạ tầng công nghệ phục vụ giám sát được đầu tư xứng đáng,
hoạt động chuyên nghiệp bởi vậy chất lượng giám sát được nâng cao, kết quả
giám sát chính xác và có ý nghĩa to lớn trong phòng ngừa, cảnh báo rủi ro hoạt
động tài chính ngân hàng. Tuy vậy, một số tổ chức BHTG hoạt động theo mô
hình chi trả, chi trả với quyền hạn mở rộng thì sự đầu tư vào các yếu tố này chưa
nhiều bởi vậy kết quả giám sát, đánh giá chỉ dừng lại ở mức độ nhất định.
25
1.4 Kinh nghiệm về hoạt động giám sát từ xa của các tổ chức bảo hiểm tiền
gửi trên thế giới.
1.4.1 Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC)
FDIC được thành lập vào ngày 01/01/1934, đây là tổ chức BHTG đầu tiên
trên thế giới. Đến nay, FDIC đang bảo hiểm cho khoảng 8390 ngân hàng và tổ
chức nhận tiền gửi phi ngân hàng [19]. Một trong những yếu tố quyết định sự
thành công và phát triển của FDIC là họ đã rất quan tâm chú ý đến hoạt động
kiểm tra, giám sát. Ngay từ khi thành lập, tổ chức này đã cử 4.000 kiểm tra viên
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các ngân hàng. So với số lượng thanh tra
viên của hệ thống ngân hàng Nhật Bản năm 1995 là 400 người của Mỹ là 8000
người sẽ thấy rằng FDIC đã rất chú trọng đầu tư tới hoạt động kiểm tra, giám sát
ngay khi mới triển khai hoạt động [8].
Nội dung kiểm tra, giám sát của FDIC bao gồm: Kiểm tra, giám sát việc
đảm bảo là thành viên tham gia BHTG và bổ sung vốn nhằm đảm bảo quy định
về vốn trong hoạt động ngân hàng; kiểm tra, giám sát khả năng đảm bảo hoạt
động lành mạnh, an toàn của tổ chức tham gia BHTG với các nội dung cụ thể:
Thẩm định tài sản có nhằm xác định giá trị ròng của ngân hàng;
Xác định chất lượng tài sản hiện có;
Phát hiện các hoạt động phát sinh có thể dẫn đến khó khăn tài chính;
Thẩm định điều hành ngân hàng;
Phát hiện các hoạt động không bình thường và có dấu hiệu vi phạm pháp
l
uật [8].
FDIC đã phát triển và áp dụng 8 hệ thống để giám sát các tổ chức tham
gia BHTG giữa các kỳ kiểm tra, tuy nhiên có 3 mô hình được FDIC sử dụng và
đánh giá là hiệu quả trong hoạt động giám sát từ xa đó là: Mô hình xếp loại từ