MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NSNN:
KBNN:
HĐND:
UBND:
XDCB:
KT-XH
ANQP
SNGD
SNKT
QLNN
Ngân sách Nhà nước
Kho bạc Nhà nước
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Xây dựng cơ bản
Kinh tế xã hội
An ninh quốc phòng
Sự nghiệp giáo dục
Sự nghiệp kinh tế
Quản lý nhà nước
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Hoạt động tài chính gắn liền với hoạt động của nhà nước. Nó vừa là nguồn
lực để nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, vừa là công cụ để thực hiện
các dịch vụ công, chi phối, điều chỉnh các mặt hoạt động kinh tế-xã hội của đất
nước. Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước,
Đảng và Nhà nước ta coi cải cách tài chính công là một trong những nội dung
quan trọng hàng đầu.
NSNN có thể hiểu là một kế hoạch tài chính quốc gia bao gồm chủ yếu các
khoản thu và chi của Nhà nước được mô tả dưới hình thức cân đối bằng giá trị tiền
tệ. Phần thu thể hiện các nguồn tài chính được huy động vào NSNN; phần chi thể
hiện chính sách phân phối các nguồn tài chính đã huy động được để thực hiện mục
tiêu KT-XH. NSNN được lập và thực hiện cho một thời gian nhất định, thường là
một năm và được Quốc hội phê chuẩn thông qua.
Công tác quản lý, điều hành chi ngân sách nhà nước của quận Ba Đình tương
đối ổn định, hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm của năm ngân sách. Tổng chi
ngân sách cho các ngành, lĩnh vực được đáp ứng kịp thời đảm bảo nguồn lực tài
chính phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa
bàn quận.
Tuy nhiên thực trạng quản lý chi ngân sách quận Ba Đình còn nhiều hạn chế:
Chi cho đầu tư xây dựng đạt tỷ lệ thấp, vốn chi cho lĩnh vực này còn dàn trải, tiến
độ giải ngân chậm, đầu tư cho một số công trình còn bất hợp lý Một số khoản chi
thường xuyên ngân sách chưa tương xứng với nhiệm vụ chi và phân cấp theo Luật
như chi cho sự nghiệp môi trường, chi mua sắm sửa chữa Việc xây dựng dự toán
chi ngân sách còn chưa dự báo hết và xác định được đầy đủ các nhiệm vụ chi dẫn
đến khó khăn trong quá trình điều hành và quyết toán ngân sách.
" Hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận tại Quận Ba
Đình" là một đề tài mang tính thực tiễn cao góp phần làm rõ hơn thực trạng quản lý
chi ngân sách nhà nước của Quận sau 10 năm thực hiện Luật Ngân sách và làm cơ
i
sở để có các giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách phù hợp với yêu cầu nhiệm
vụ đổi mới trong công tác quản lý chi ngân sách nhà nước hiện nay, một nhiệm vụ
luôn được quan tâm hàng đầu trong quản lý nhà nước về tài chính, góp phần thực
hiện quản lý tốt và toàn diện các hoạt động kinh tế- xã hội, an ninh- quốc phòng
trên địa bàn Quận.
Đặc điểm
Thực chất chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tài
chính cho các nhiệm vụ của ngân sách nhà nước. Song việc cung cấp này có những
đặc thù riêng:
- Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế, chính
trị, xã hội
- Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể hiện ở tầm vĩ
mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội
và chính trị, ngoại giao.
- Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các
khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp
Vai trò
- Quản lý chi ngân sách cấp quận thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các
khoản chi NSNN nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn ngân sách quận,
- Thông qua quản lý các dự án đầu tư phát triển nhằm phục vụ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế có hiệu quả. Quản lý chi ngân sách góp phần điều tiết thu nhập dân cư
thực hiện công bằng xã hội.
Vai trò quản lý chi ngân sách có hiệu quả là yếu tố góp phần thúc đẩy phát
triển bền vững.
- Quản lý chi NSNN có vai trò điều tiết giá cả, chống suy thoái và chống lạm
phát.
- Duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế, Nhà nước sử dụng công cụ chi
ngân sách.
Trên cơ sở lý luận, luận văn hướng tới xem xét, phân tích thực trạng, từ đó tìm ra
ii
giải pháp quản lý chi ngân sách cấp quận tại quận Ba Đình
Thực trạng chi NSNN quận Ba Đình giai đoạn 2008-2011 như sau:
Trong những năm qua, việc quản lý chi ngân sách của quận Ba Đình, Thành
phố Hà Nội đã có nhiều cố gắng để hoàn thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh tế - xã
hội được giao. Chi ngân sách nhà nước cho đầu tư XDCB và chi thường xuyên ngày
càng tăng, được quản lý và sử dụng ngày càng chặt chẽ, hiệu quả, hạn chế thất
thoát, lãng phí, chống tham ô, tham nhũng. UBND quận đã bố trí kịp thời, đủ vốn
cho các công trình phục vụ Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, cho công tác
giải phóng mặt bằng, các dự án giải quyết nhu cầu dân sinh bức xúc đã được quan
tâm chỉ đạo kịp thời, tạo sự phấn khởi trong nhân dân,
Công tác quản lý chi ngân sách nhà nước đã góp phần tăng trưởng kinh tế, cải
thiện bộ mặt đô thị của quận Ba Đình, phát triển cơ sở hạ tầng; an sinh xã hội, tạo
điều kiện về cơ sở vật chất để phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế, thể dục
thể thao; nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân…
Tuy nhiên, những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý chi NSNN tại quận
Thứ nhất, công tác xây dựng định mức chi
- Đối với việc xây dựng định mức phân bổ ngân sách: là đơn vị hành chính
thuộc Thành phố Hà Nội nên quận Ba Đình không có thẩm quyền ban hành các
định mức phân bổ ngân sách, thẩm quyền này thuộc về HĐND và UBND Thành
phố. Trong giai đoạn 2008-2011 UBND Thành phố đã hai lần ban hành các định
mức phân bổ ngân sách cho các thời kỳ ổn định ngân sách 2008-2010 và 2011-
2015, các định mức này tương đối toàn diện trên các lĩnh vực để làm cơ sở xây
dựng dự toán chi ngân sách cho các cấp ngân sách và các đơn vị sử dụng ngân
sách.Tuy nhiên các định mức này cũng bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện:
+ Nhiều nội dung chi chưa thể hiện được vào định mức phân bổ ngân sách
như chi mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định, những nội dung này thường chỉ giải
quyết được trong quá trình thực hiện dự toán trên cơ sở khả năng tăng thu của ngân
sách. Điều này cũng có nguyên nhân nhiều khi do khả năng ngân sách chưa thể cân
đối được khi xây dựng định mức
iii
Thứ hai, công tác lập dự toán chi thường xuyên
- Xây dựng dự toán chi của một số đơn vị còn chưa dự báo được đầy đủ các
nhiệm vụ của các đơn vị trong năm dẫn đến việc điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, gây
khó khăn trong điều hành ngân sách, có đơn vị còn chưa trách rõ nhiệm vụ chi trong
định mức và nhiệm vụ chi ngoài định mức. Một số đơn vị chưa cân đối các nhiệm
vụ chi và định mức ngân sách được giao dẫn đến khó khăn về ngân sách trong
những tháng cuối năm.
- Quy trình lập dự toán chi thường xuyên theo quy định của Luật NSNN rất
phức tạp, đòi hỏi phải thực hiện qua nhiều bước, tốn kém rất nhiều thời gian và công
sức của các đơn vị cơ sở và cơ quan tài chính các cấp. Hạn chế lớn nhất ở đây là trình
độ xây dựng dự toán của các đơn vị sử dụng ngân sách còn yếu, thường không đảm
bảo quy định cả về căn cứ, nội dung, phương pháp, trình tự, hệ thống mẫu biểu, thời
gian, phổ biến là lập cho có. Trong thực tế công tác lập và thảo luận dự toán còn
mang nặng tính hình thức thiếu dân chủ, áp đặt một chiều từ trên xuống.
- Công tác lập, quyết định, phân bổ dự toán ngân sách còn chậm về thời gian
theo quy định, thường là không đủ thời gian chuẩn bị do thời gian giữa kỳ họp
HĐND Thành phố và HĐND quận quá ngắn.
- Phương án phân bổ ngân sách cấp thành phố thuộc Thành phố hoàn toàn
phụ thuộc vào phân cấp ngân sách, tỷ lệ điều tiết giữa các cấp ngân sách, các định
mức phân bổ ngân sách của cấp trên nên thường cứng nhắc, bị động, một số lĩnh
vực mang tính chất bình quân, dễ xảy ra khả năng có nơi thừa nơi thiếu, phân bổ
nguồn lực tài chính chưa thực sự hợp lý.
Thứ ba, việc chấp hành dự toán chi thường xuyên
- Việc kiểm soát, thanh toán chi ngân sách của các đơn vị còn hạn chế và vẫn
còn tình trạng một số đơn vị sử dụng sai nguồn, sai nội dung chi.
- Việc phân bổ dự toán của một số đơn vị sử dụng ngân sách chưa thực hiện
tốt, đôi khi chưa khớp đúng về tổng mức, phân bổ chi tiết không sát với yêu cầu chi
thực tế, điều này thường xảy ra đối với các đơn vị dự toán cấp1 có các đơn vị sử
dụng ngân sách trực thuộc.
iv
- Do việc phân bổ dự toán chưa thực sự sát hợp với nhu cầu chi nên thường
xảy ra tình trạng mục thừa, mục thiếu nên phải điều chỉnh, bổ sung gây khó khăn
cho công tác quản lý của cơ quan tài chính và kiểm soát chi của KBNN cung cấp.
- Công tác quản lý chi thường xuyên trên lĩnh vực sự nghiệp chưa có hiệu
quả cao, điển hình là khoản chi Sự nghiệp Môi trường
- Tình trạng lãng phí trong chi thường xuyên còn lớn và tương đối phổ biến.
Thể hiện ở việc mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc không đúng tiêu
chuẩn, định mức; quản lý và sử dụng đất đai trụ sở làm việc không đúng mục đích,
vượt tiêu chuẩn định mức;
- Chưa tính toán, xác định được hiệu quả chi ngân sách. Hiện nay chúng ta
đang quản lý NSNN theo đầu vào mà chưa tính đến kết quả đầu ra, nói cách khác là
hiệu quả KT-XH của các khoản chi tiêu ngân sách chưa được quan tâm đầy đủ.
Việc quản lý chi tiêu chủ yếu dựa vào hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ có sẵn,
kết quả là không thể đánh giá được hiệu quả của mỗi đồng kinh phí thường xuyên
đã sử dụng. Không có thông tin phản hồi từ hiệu quả chi thường xuyên sẽ cản trở
việc đánh giá kết quả sử dụng các khoản chi này, thiếu cơ sở cho việc hoạch định
chính sách và điều hành của lãnh đạo thành phố.
- Công tác thanh tra kiểm tra tuy có tiến hành thường xuyên nhưng chưa
mang lại hiệu quả cao, nhiều trường hợp còn nể nang, ngại va chạm, chưa xử ký
kiên quyết đối với các đơn vị có sai phạm về tài chính, ngân sách, chưa kết hợp
được thanh tra với phân tích hiệu quả sử dụng kinh phí chi thường xuyên để tham
mưu các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng ngân sách.
- Công tác kiểm soát chi của KBNN cơ bản bảo đảm đúng quy định, tuy
nhiên cũng còn nhiều trường hợp bị “lọt lưới”, mặt khác công tác cải cách thủ tục
hành chính của KBNN còn chậm, giải quyết công việc đôi khi còn cứng nhắc, gây
khó khăn cho các đơn vị sử dụng ngân sách trong quan hệ giao dịch với kho bạc.
Nhiều đơn vị sử dụng ngân sách thường phàn nàn KBNN còn có thái độ quan liêu,
của quyền,sách nhiễu.chế độ thông tin báo cáo của KBNN cho cơ quan tài chính
cùng cấp thường chưa đầy đủ và không kịp thời.
v
- Công tác công khai ngân sách của các cấp ngân sách, các đơn vị sử dụng
ngân sách chưa được quan tâm thực hiện một cách nghiêm túc, nhất là ở các xã
phường và các phòng ban chuyên môn trực thuộc thành phố. Phổ biến là không đảm
bảo đầy đủ về nội dung, hình thức công khai. Đối với xã, phường thì thường là nội
dung công khai việc huy động và sử dụng các quỹ tài chính ngoài ngân sách, các
khoản huy động nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng chưa được thực hiện
nghiêm túc.
Thứ tư, công tác quyết toán chi thường xuyên
- Báo cáo quyết toán của các đơn vị sử dụng ngân sách thường chưa đảm bảo
theo quy định về thời gian, hệ thống mẫu biểu (nhất là các báo cáo phân tích chi tiết
các khoản chi khác, tiếp khách, mua sắm…), chất lượng báo cáo chưa cao, nhiều
trường hợp chưa khớp đúng giữa chi tiết và tổng hợp.
- Chất lượng công tác thẩm định, xét duyệt báo cáo quyết toán chưa cao, đôi
khi còn mang tính hình thức, chưa kiên quyết xử lý xuất toán đối với các khoản chi
không đúng quy định mà thường chỉ rút kinh nghiệm. Công tác xét duyệt báo cáo
quyết toán thường chỉ dừng lại ở việc xác định số liệu thu, chi trong năm của đơn vị
mà chưa phân tích, đánh giá số liệu quyết toán đó để rút ra những vấn đề cần điều
chỉnh về xây dựng định mức phân bổ ngân sách, định mức sử dụng ngân sách của
các cơ quan tài chính, những bài học kinh nghiệm về việc chấp hành dự toán để
nâng cao chất lượng quản lý, sử dụng ngân sách.
Nguyên nhân của những điểm yếu trong quản lý chi NSNN
Một là, chế độ, chính sách trong lĩnh vực đầu tư xây dựng Thành phố ban
hành nhiều, luôn bổ sung thay đổi, trình tự, thủ tục phức tạp; chính sách về giải
phóng mặt bằng, tái định cư còn nhiều bất cập; việc thỏa thuân với các sở ngành về
chỉ giới đường đỏ, cung cấp thông tin quy hoạch thường kéo dài.
Hai là, nhu cầu đầu tư trên địa bàn lớn, số lượng biên chế có hạn, cán bộ tham
gia trực tiếp vào công tác đầu tư của một số phường và Phòng Giáo dục và Đào tạo
và đều là những cán bộ không chuyên về đầu tư nên việc triển khai thực hiện nhiệm
vụ còn nhiều lúng túng.
vi
Ba là, trách nhiệm của một số phường, Phòng Giáo dục và Đào chưa cao;
chưa kiểm soát chặt chẽ việc lựa chọn, quản lý các nhà thầu tư vấn, nhà thầu thi
công nên công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án còn chậm và còn nhiều phát
sinh, bổ sung trong quá trình thực hiện.
Bốn là, chế độ thông tin, báo cáo đã được quan tâm tuy nhiên vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu về chất lượng, tiến độ; sự phối hợp giữa các phòng chuyên môn
và các phường, Phòng Giáo dục và Đào tạo tuy đã có tiến bộ song vẫn còn chưa
đồng bộ; kinh nghiệm chỉ đạo điều hành của các phường, Phòng Giáo dục và Đào
tạo đối với các đơn vị khảo sát, thiết kế xây lắp, đặc biệt là đối với đơn vị tư vấn
quản lý dự án chưa cao và hiệu quả.
Năm là, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong công tác đầu tư nhưng
chưa đồng bộ, liên tục, đặc biệt là trong công tác giải phóng mặt bằng các dự án.
Sáu là, việc xử lý các trường hợp vi phạm chưa nghiêm, còn tình trạng nể
nang, né tránh. Do vậy, không tạo được sự nghiêm minh, kỷ cương trong công tác
đầu tư xây dựng.
Bảy là: Thủ trưởng của một số đơn vị dự toán còn chưa quan tâm đúng mức
tới việc điều hành dự toán chi ngân sách nên việc xây dựng dự toán đôi lúc còn
thiếu nhiệm vụ hoạt động trong năm hoặc chưa cân đối phù hợp các nhiệm vụ chi cả
năm dẫn đến thiếu kinh phí hoạt động vào những tháng cuối năm. Cá biệt có những
đơn vị đề nghị bổ sung dự toán ngay sau khi được UBND quận quyết định giao dự
toán đầu năm, điều chỉnh, bổ sung dự toán trong năm.
Tám là: Trong năm, phát sinh một số nhiệm vụ chi đột xuất theo chỉ đạo của
cấp trên nhưng chưa được giao trong dự toán đầu năm dẫn đến phải bổ sung, điều
chỉnh dự toán chi ngân sách
Từ đó luận văn đưa ra các nhóm giải pháp cơ bản sau:
Cần tiến tới đổi mới cách thức thực hiện quy trình Ngân sách, cụ thể là phải
thay đổi một cách cơ bản cách thức lập dự toán, chấp hành và quyết toán Ngân
sách. Xu hướng cơ bản trong đổi mới quản lý quy trình Ngân sách hiện nay tại
nhiều nước là đổi mới quy trình lập và phân bổ Ngân sách theo khuôn khổ chi tiêu
vii
trung hạn, lấy kết quả đầu ra làm căn cứ chủ yếu để lập dự toán, thiết lập quy trình
kiểm tra và đánh giá kết quả thực hiện dự toán. Theo hướng này, hàng năm kế
hoạch Ngân sách được xác lập cho năm hiện hành và dự báo cho 2 năm liền kề sau
đó. Kèm theo dự toán của năm thứ nhất, trong kế hoạch này cũng xem xét, dự báo
và tính toán cho hai năm tiếp theo. Như vậy, kế hoạch ngân sách và kế hoạch chi
tiêu chỉ được lập cho một năm như trước đây mà luôn được đặt trong bối cảnh và
dự toán trung hạn để cung cấp tầm nhìn trung hạn cho các bên quản lý và bên sử
dụng ngân sách. Việc lập dự toán ngân sách không dựa vào tổng nguồn lực hiện có
mà ngay từ đầu người ta phải xác định được kết quả đầu ra và mục tiêu dự kiến sẽ
đạt được, trên cơ sở đó để xây dựng dự toán và thực hiện phân bổ ngân sách.
Cần nâng cao chất lượng lập dự toán chi ngân sách của chính quyền các cấp,
quy trình ngân sách hiện hành phải trải qua nhiều đầu mối, tầng nấc với nhiều thủ
tục phức tạp, là cho dự toán mang tính hình thức mà chưa chú trọng đến chất lượng.
Để đảm bảo chất lượng dự toán cần quy định lại thời gian chuẩn bị dự toán ngân
sách của các cấp chính quyền địa phương. Tăng cường thời gian cho việc lập, xét
duyệt và quyết định dự toán. Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng dự
báo nguồn thu ở mỗi cấp chính quyền, nhằm nâng cao chất lượng lập, chấp hành dự
toán ngân sách ở mỗi cấp chính quyền. Bộ Tài chính cần nghiên cứu, xem xét, sửa
đổi, bổ sung các chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu hiện hành làm căn cứ cho
việc lập dự toán chi ngân sách một cách khoa học, phù hợp với thực tế. Chính
quyền cấp quận phải chủ động tạo ra sự gắn kết giữa các mục tiêu kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội với kế hoạch ngân sách ngay từ khâu chuẩn bị lập kế hoạch để
tránh tình trạng kế hoạch phải chạy theo mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội thường
đặt ra quá cao và khá cứng nhắc so với khả năng đáp ứng của ngân sách và tình
hình thực tế. Cần hạn chế sự can thiệp của cấp trên vào việc lập, duyệt, tổng hợp dự
toán và phân bổ ngân sách cấp dưới, tăng cường vai trò thực quyền của HĐND,
khắc phục tính hình thức trong lập dự toán ở các cấp.
Lập dự toán chi ngân sách, từng bước xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn
cho các đơn vị trực thuộc theo hướng quản lý đầu ra và kết quả hoạt động nhằm giải
viii
quyết những yếu kém của công tác lập dự toán chi ngân sách theo kiểu tăng dần,
giảm dần tùy tiện các khoản chi, thiếu minh bạch trong phân bổ ngân sách.
Ngoài các nhóm giải pháp trên, luận văn còn đưa ra những giải pháp khác,
đồng thời kiến nghị với Chính phủ, Thành phố
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, khảo sát thực tế,
thu thập dữ liệu thứ cấp, phương pháp so sánh, phân tích , luận văn đã hoàn thành
những nhiệm vụ sau:
Hệ thống hóa những cơ sở khoa học về quản lý chi ngân sách nhà nước cấp
quận.
Phân tích thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận tại quận Ba
Đình.
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước cấp
quận tại quận Ba Đình.
ix
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tài chính gắn liền với hoạt động của nhà nước. Nó vừa là nguồn
lực để nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, vừa là công cụ để thực hiện
các dịch vụ công, chi phối, điều chỉnh các mặt hoạt động kinh tế-xã hội của đất
nước. Trong tiến trình đổi mới, thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước,
Đảng và Nhà nước ta coi cải cách tài chính công là một trong những nội dung
quan trọng hàng đầu.
Để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân
sách nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách
và tài sản của nhà nước, tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong kỳ
họp thứ hai khoá XI diễn ra từ ngày 12 tháng 11 đến ngày 16 tháng 12 năm 2002
Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Ngân
Sách Nhà Nước sửa đổi. Luật này quy định rõ ràng, đầy đủ hơn về trách nhiệm,
quyền hạn của các cơ quan quản lý chi ngân sách nhà nước, đặc biệt là trong việc
lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước.
Quận Ba Đình là một trong 29 quận của Thành phố Hà Nội, là trung tâm
chính trị- hành chính của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung, nơi đặt trụ sở
của nhiều cơ quan TW Đảng và nhà nước, Ba Đình có vị trí đặc biệt quan trọng
và là quận trung tâm chính trị, hành chính quốc gia. Quận Ba Đình nằm ở phía
Bắc thủ đô Hà Nội. Phía bắc giáp quận Tây Hồ, phía đông giáp quận Hoàn Kiếm,
phía Nam giáp quận Đống Đa, phía tây giáp quận Cầu Giấy. Quận Ba Đình trải
rộng trên diện tích 9,3km2 được chia thành 14 phường với dân số tính đến
31/12/2011 là 25 vạn dân.
Trong những năm qua, tình hình tăng trưởng kinh tế của quận đạt ở mức cao.
Giá trị sản xuất chung tăng bình quân hàng năm tăng là 15,33%, trong đó: Giá trị
1
sản xuất công nghiệp tăng bình quân là 12,43%/ năm, giá trị sản xuất ngành dịch vụ
tăng bình quân là 17,68%/năm, giá trị sản xuất ngành thương mại tăng bình quân là
15,62%/năm, giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng bình quân 9,9%/năm.
Công tác quản lý, điều hành chi ngân sách nhà nước của Quận tương đối ổn
định, hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm của năm ngân sách. Tổng chi ngân
sách cho các ngành, lĩnh vực được đáp ứng kịp thời đảm bảo nguồn lực tài chính
phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng trên địa bàn
quận. Chi cho đầu tư phát triển chiếm 24%, chi thường xuyên chiếm 76% trong
tổng chi ngân sách. Các nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng, chi thường xuyên đều được
tuân thủ theo Luật Ngân sách, thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ tài chính
và quyết định của UBND Thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên thực trạng quản lý chi ngân sách quận Ba Đình còn nhiều hạn chế:
Chi cho đầu tư xây dựng đạt tỷ lệ thấp, vốn chi cho lĩnh vực này còn dàn trải, tiến
độ giải ngân chậm, đầu tư cho một số công trình còn bất hợp lý Một số khoản chi
thường xuyên ngân sách chưa tương xứng với nhiệm vụ chi và phân cấp theo Luật
như chi cho sự nghiệp môi trường, chi mua sắm sửa chữa Việc xây dựng dự toán
chi ngân sách còn chưa dự báo hết và xác định được đầy đủ các nhiệm vụ chi dẫn
đến khó khăn trong quá trình điều hành và quyết toán ngân sách.
" Hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận tại Quận Ba
Đình" là một đề tài mang tính thực tiễn cao góp phần làm rõ hơn thực trạng quản lý
chi ngân sách nhà nước của Quận sau 10 năm thực hiện Luật Ngân sách và làm cơ
sở để có các giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách phù hợp với yêu cầu nhiệm
vụ đổi mới trong công tác quản lý chi ngân sách nhà nước hiện nay, một nhiệm vụ
luôn được quan tâm hàng đầu trong quản lý nhà nước về tài chính, góp phần thực
hiện quản lý tốt và toàn diện các hoạt động kinh tế- xã hội, an ninh- quốc phòng
trên địa bàn Quận.
2. Tình hình nghiên cứu các đề tài có liên quan
Việc nghiên cứu quản lý chi ngân sách nhà nước ở nước ta trong những năm
qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các cơ quan trung
ương và địa phương như;
2
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân sách của các cấp
chính quyền địa phương” của tác giả Phạm Đức Hồng, trường Đại học Tài chính Kế
toán Hà Nội, năm 2002. Luận án tập trung vào làm rõ cở sở lý luận và thực tiễn của
cơ chế phân cấp thu- chi ngân sách, đánh giá thực trạng cơ chế phân cấp ngân sách
cho các cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp thực hiện
cơ chế đó.
- Luận án tiến sĩ kinh tế “Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý ngân sách Nhà
nước” của tác giả Nguyễn Việt Cường, trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội,
năm 2001. Luận án đi sâu vào những đổi mới cơ chế phân cấp quản lý NSNN giữa
Trung ương và địa phương.
- Luận án thạc sĩ “Các biện pháp tăng cường quản lý thu, chi ngân sách các
tỉnh duyên hải miền Trung” của tác giả Phan Văn Dũng, năm 2001.
- Quản lý và sử dụng NSNN trong tiến trình cải cách tài chính công. Tác giả
Nguyễn Sinh Hùng. Tạp chí Cộng Sản 22/1/2007.
- Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện quản lý thu, chi ngân sách nhà nước của
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”
- Luận văn thạc sỹ “Quản lý ngân sách nhà nước tại tỉnh Vĩnh Phúc’ tác giả
Lê thị Xuân, năm 2011.
Riêng đối với quản lý chi ngân sách nhà nước tại quận Ba Đình đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề này.
Điều đó cho thấy việc nghiên cứu đề tài này vừa là vấn đề có tính quan trọng
và phổ biến, vừa là vấn đề mới và đặc thù đang đặt ra cho quận Ba Đình để quản lý
chi ngân sách cấp quận có hiệu lực và hiệu quả hơn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài cần đạt được các mục tiêu nghiên cứu sau:
3.1. Hệ thống hoá cở sở lý luận quản lý chi NSNN cấp quận
3.2. Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cấp
quận tại quận Ba Đình, giai đoạn 2008-2011.
3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà
nước cấp quận tại quận Ba Đình.
3
4. Câu hỏi nghiên cứu
Quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận gồm những nội dung gì? Quản lý
chi ngân sách nhà nước cấp quận tại quận Ba Đình đang được thực hiện như thế
nào? Đâu là điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của những điểm yếu trong quản
lý chi ngân sách cấp quận tại quận Ba Đình. Cần thực hiện những giải pháp nào để
hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận tại quận Ba Đình?
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận tại quận Ba
Đình- Thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Quá trình quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận
- Về không gian: Quản lý của chính quyền quận Ba Đình
- Về thời gian: Số liệu giai đoạn 2008-2011, đề xuất đến năm 2015
6. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp, hệ thống hóa lý thuyết để xây dựng khung lý thuyết cho
nghiên cứu.
Khảo sát thực tế, thu thập dữ liệu thứ cấp
Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp…
5.1. Khung lý thuyết
4
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương pháp tổng hợp, thống kê,
phương pháp phân tích, so sánh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về khoa học: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý chi ngân sách nhà nước
5
Nội dung quản lý chi
NS cấp quận:
- Lập dự toán chi ngân
sách cấp quận
- Tổ chức thực hiện dự
toán, chấp hành chi
ngân sách cấp quận
- Kiểm soát chi ngân
sách cấp quận
Chi ngân sách nhà
nước:
- Chi thường xuyên
- Chi đầu tư xây
dựng cơ bản
Kết quả chi NS
nhà nước:
- Hiệu lực
- Hiệu quả
- Phù hợp
- Bền vững
Mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội
quận Ba Đình đến
năm 2015
Các yếu tố ảnh hưởng:
- Yếu tố chủ quan:
+ Chất lượng, trình độ bộ
máy cán bộ quản lý
+ Trình độ xây dựng dự toán
+ Ý thức chấp hành dự toán
- Yếu tố khách quan:
+ Tổ chức bộ máy quản lý
+ Quy trình nghiệp vụ quản
lý
+ Cơ chế chính sách
+ Hệ thống chế độ, định mức
tiêu chuẩn
cấp quận.
- Về thực tiễn: Làm rõ thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận
tại quận Ba Đình, đánh giá các tiêu chí, chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu và
nguyên nhân, từ đó đề ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện quản lý chi
ngân sách nhà nước tại quận Ba Đình.
Đề tài sẽ là nguồn tư liệu đối với các cơ quan quản lý ngân sách và cơ quan
đơn vị sử dụng ngân sách góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện, quản lý ngân
sách của quận và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa hoc về quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận.
Chương 2: Phân tích thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cấp quận tại
quận Ba Đình.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước cấp
quận tại quận Ba Đình.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CẤP QUẬN
1.1. Ngân sách cấp quận trong hệ thống ngân sách nhà nước và chi ngân sách
cấp quận
1.1.1. Ngân sách cấp quận trong hệ thống ngân sách nhà nước
NSNN có thể hiểu là một kế hoạch tài chính quốc gia bao gồm chủ yếu các
khoản thu và chi của Nhà nước được mô tả dưới hình thức cân đối bằng giá trị tiền
tệ. Phần thu thể hiện các nguồn tài chính được huy động vào NSNN; phần chi thể
hiện chính sách phân phối các nguồn tài chính đã huy động được để thực hiện mục
tiêu KT-XH. NSNN được lập và thực hiện cho một thời gian nhất định, thường là
một năm và được Quốc hội phê chuẩn thông qua.
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau
trong quá trình tổ chức huy động, quản lý các nguồn thu và thực hiện nhiệm vụ chi
của mỗi cấp ngân sách.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hệ thống NSNN được tổ chức phù hợp
với hệ thống bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Ở nước ta bộ máy quản lý hành
chính Nhà nước được tổ chức 4 cấp: Trung ương; Tỉnh/ Thành phố trực thuộc TW;
Quận/ Huyện/ Thị xã/ Thành phố thuộc tỉnh; và Xã/ Phường/ Thị trấn. Mỗi cấp
chính quyền đều phải có ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ được giao theo quy
định của pháp luật và phù hợp với khả năng quản lý của cấp chính quyền đó (thể
hiện ở sơ đồ: 1.1).
7
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hệ thống ngân sách nhà nước
Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo những nguyên tắc
cơ bản sau:
- NSTW và ngân sách mỗi cấp chính quyền được phân cấp nguồn thu và
nhiệm vụ chi cụ thể, được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
công khai minh bạch.
- Ngân sách TW đóng vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ
chiến lược, quan trọng của quốc gia và hỗ trợ các địa phương chưa cân đối được
ngân sách.
- Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu để chủ động thực hiện
những nhiệm vụ được giao.
- Nhiệm vụ chi thuộc cấp ngân sách nào do cấp ngân sách đó cân đối.
8
Ngân sách Trung ương (NSTW)
Bộ Tài chính
Ngân sách Tỉnh, Thành phố
trực thuộc TW
Sở Tài chính
Ngân sách Xã, Phường, Thị trấn
Bộ phận Kế toán
Ngân sách Quận, Huyện, Thành
phố trực thuộc Tỉnh
Phòng Tài chính - Kế hoạch
Trường hợp cơ quan QLNN cấp trên ủy quyền cho cơ quan QLNN cấp dưới thực
hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.
- Thực hiện phân chia theo tỷ lệ % đối với các khoản thu phân chia giữa
ngân sách các cấp và bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm
bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Tỷ lệ % phân chia
các khoản thu và số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được ổn
định từ 3-5 năm. Số bổ sung từ ngân sách cấp trên được coi là khoản thu của ngân
sách cấp dưới.
- Ngoài cơ chế bổ sung nguồn thu và cơ chế ủy quyền không được dùng
ngân sách của cấp này để chi cho nhiệm vụ của cấp khác.
*/ NSNN cấp quận là mắt xích trong hệ thống NSNN, gồm 2 nội dung chủ yếu về
thu và chi ngân sách quận như sau:
a. Về thu ngân sách cấp quận
- Các khoản thu ngân sách quận hưởng 100%
- Các khoản thu của ngân sách quận hưởng theo tỷ lệ phần trăm (%)
Các khoản thu này theo quy định của pháp luật.
b. Nhiệm vụ chi của ngân sách cấp quận, gồm chi 2 lĩnh vực chính sau:
- Chi đầu tư phát triển
- Chi thường xuyên
1.1.2. Chi ngân sách nhà nước cấp quận
1.1.2.1. Đặc điểm chi ngân sách nhà nước cấp quận
Thực chất chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tài
chính cho các nhiệm vụ của ngân sách nhà nước. Song việc cung cấp này có những
đặc thù riêng:
- Thứ nhất: Chi ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh
tế, chính trị, xã hội mà chính phủ phải đảm nhận trước mỗi quốc gia. Mức độ, phạm
vi chi tiêu ngân sách nhà nước phụ thuộc vào tính chất nhiệm vụ của Chính phủ
trong mỗi thời kỳ.
9
- Thứ hai: Tính hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước được thể
hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả
về mặt xã hội và chính trị, ngoại giao. Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính
một yêu cầu đặt ra là: khi xem xét, đánh giá về các khoản chi ngân sách nhà nước
cần sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời
phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác dụng, ảnh hưởng của các khoản chi ở
tầm vĩ mô.
- Thứ ba: Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước
đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì
vậy các nhà quản lý tài chính cần phải có sự phân tích, tính toán cẩn thận trên nhiều
khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí
không cần thiết và nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách nhà nước.
1.1.2.2. Nội dung chi ngân sách nhà nước cấp quận
Theo luật NSNN hiện hành, các nội dung chi được phân loại cụ thể như sau:
a. Chi đầu tư phát triển
Chi đầu tư phát triển của NSNN là quá trình sử dụng một phần vốn tiền tệ đã
tập trung vào NSNN để xây dựng cơ sở hạ tầng KT-XH, phát triển sản xuất và thực
hiện dự trữ vật tư hàng hóa nhằm thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng của nền
kinh tế.
Chi đầu tư phát triển có các đặc điểm sau:
- Chi đầu tư phát triển của ngân sách là khoản chi tích lũy.
- Quy mô và cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN không cố định và phụ
thuộc vào chiến lược phát triển KT-XH của Nhà nước trong từng thời kỳ và mức độ
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
- Chi đầu tư phát triển phải gắn chặt với chi thường xuyên nhằm nâng cao
hiệu quả vốn đầu tư
Theo phân cấp, chi đầu tư phát triển của quận gồm:
* Đầu tư các đường ngõ phố, ngõ xóm và đường nội bộ khu dân cư.
* Đầu tư hè đường phố trên địa bàn (trừ các tuyến quan trọng do Thành phố
10
đầu tư cả hè và đường).
* Đầu tư hệ thống chiếu sáng công cộng tại vườn hoa, công viên do quận
quản lý và đầu tư chiếu sáng công cộng các ngõ, ngách trong khu dân cư trên địa
bàn quận.
* Đầu tư công trình thoát nước ngõ, ngách và trong khu vực dân cư không
tiếp giáp đường Thành phố quản lý.
* Đầu tư lĩnh vực Văn hóa - Thể thao:
Đầu tư các nhà văn hóa, các trung tâm văn hóa thể thao, nhà thi đấu thể thao,
nhà văn hóa thanh - thiếu nhi cấp quận; nhà văn hóa phường; nhà văn hóa cụm, khu
dân cư, khu vui chơi cộng đồng.
Đầu tư bảo tồn, tôn tạo các di tích trên địa bàn (ngoài 12 di tích Thành phố
quản lý).
* Đầu tư lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo và Y tế
Đầu tư xây dựng các trường mầm non (trừ trường thuộc Thành phố quản lý);
nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập.
Đầu tư các trường tiểu học, trung học cơ sở (trừ các trường Thành phố quản
lý);
Đầu tư xây dựng trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện, thị xã; trung
tâm dạy nghề trên địa bàn; trung tâm Tin học, trung tâm Ngoại ngữ, trung tâm giáo
dục cộng đồng và Trung tâm giáo dục thường xuyên do cấp quận quản lý.
Đầu tư các trung tâm Y tế quận, huyện, thị xã (bao gồm cả phòng khám đa
khoa khu vực, trạm y tế phường, xã, thị trấn); Trung tâm dân số kế hoạch hóa gia
đình cấp quận, huyện, thị xã.
* Đầu tư lĩnh vực Quản lý nhà nước:
Cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc các cơ quan hành chính, đảng, đoàn thể
quận, huyện, thị xã.
Đầu tư xây dựng mới, cải tạo hạ tầng kỹ thuật và trụ sở làm việc các cơ quan
hành chính, đảng, đoàn thể cấp xã; trụ sở hoặc nơi làm việc của công an và quân sự xã.
Đầu tư công trình phục vụ tang lễ: Các nghĩa trang nhân dân, nghĩa trang liệt
11
sỹ, đài tưởng niệm, đài liệt sỹ cấp huyện và xã.
* Đầu tư lĩnh vực Môi trường; Các công trình, dự án khắc phục ô nhiễm môi
trường ảnh hưởng trong phạm vi 1 xã, phường, thị trấn.
* Đầu tư lĩnh vực Thông tin và truyền thông: Các công trình, dự án phục vụ
hoạt động phát thanh, truyền thanh cấp quận, huyện, xã.
* Đầu tư công trình ứng dụng Khoa học công nghệ và công nghệ thông tin:
Các công trình công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu và xây dựng cổng thông tin cấp
quận, huyện, xã.
* Đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu đất đấu giá quyền sử dụng đất đối với đất nhỏ
lẻ, xen kẹt có diện tích dưới 5000m
2
không tiếp giáp với đường phố; hạ tầng kỹ
thuật khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng các dự án cấp quận, huyện.
* Các khoản chi đầu tư phát triển khác thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách cấp
quận, huyện, cấp xã theo quy định của pháp luật
b. Chi thường xuyên
Chi thường xuyên là một bộ phận của chi NSNN, nó phản ảnh quá trình
phân phối và sử dụng quỹ NSNN để thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên về quản
lý KT-XH của Nhà nước. Chi thường xuyên của NSNN bao gồm các khoản chi cho
các lĩnh vực: SNKT; SNGD, Y tế, Văn hóa- xã hội; chi bộ máy QLNN; chi ANQP,
chi chuyển giao…Cùng với quá trình phát triển KT-XH các nhiệm vụ thường xuyên
của nhà nước ngày càng tăng lên làm phong phú thêm nội dung chi thường xuyên
của ngân sách. Chi thường xuyên có các đặc điểm cơ bản đó là: đây là những khoản
chi có tính chất liên tục; là những khoản chi mang tính chất tiêu dùng; phạm vi,
mức độ chi thường xuyên phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và
quy mô cung ứng các hàng hóa công của Nhà nước. Nếu bộ máy Nhà nước quản lý
gọn, nhẹ hoạt động có hiệu quả thì chi thường xuyên được giảm nhẹ và ngược lại.
Ngoài ra, còn có các nội dung chi khác như chi trả nợ gốc và lãi các khoản
tiền vay, chi việc trợ, chi cho vay theo quy định của pháp luật, chi bổ sung quỹ dự
trữ tài chính, chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới…
Theo phân cấp, chi thường xuyên ngân sách quận gồm:
* Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề; y tế; đảm bảo xã hội;
12
văn hóa thông tin, thể dục thể thao; ứng dụng khoa học, công nghệ do quận, huyện
quản lý:
- Giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở công lập và sự nghiệp giáo
dục khác;
- Dạy nghề, đào tạo nghề; bồi dưỡng kiến thức chính trị do Trung tâm bồi
dưỡng chính trị quận, huyện mở và các hình thức bồi dưỡng, đào tạo khác;
- Các hoạt động về công tác y tế (vệ sinh phòng bệnh dịch, vệ sinh an toàn
thực phẩm); kế hoạch hóa gia đình và trẻ em theo phân cấp;
- Các trại xã hội do quận, huyện quản lý; cứu tế xã hội; phòng chống các tệ
nạn xã hội và các hoạt động xã hội khác theo phân cấp;
- Nhà văn hóa, các cơ sở văn hóa và các hoạt động văn hóa khác do cấp
quận, huyện quản lý theo phân cấp;
- Quản lý, bảo vệ các di tích lịch sử - văn hóa theo phân cấp của Thành phố;
- Đài phát thanh và các hoạt động thông tin, tuyên truyền khác của quận,
huyện;
- Bồi dưỡng, huấn luyện vận động viên các đội tuyển cấp quận, huyện, trong
thời gian tập trung thi đấu, hoạt động của các trung tâm thể dục, thể thao do quận,
huyện quản lý;
- Chi ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ;
- Các sự nghiệp văn hóa, xã hội khác.
* Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do quận, huyện quản lý
- Sự nghiệp giao thông: Quản lý, duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa, nâng cấp
đường giao thông và các công trình giao thông do quận, huyện quản lý theo phân cấp;
- Sự nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và thủy lợi do quận, huyện
quản lý; chuyển đổi cơ cấu kinh tế phục vụ phát triển mô hình nông thôn mới; chi
bảo vệ, phòng chống cháy rừng; phòng chống lụt bão và các nhiệm vụ khác về nông
- lâm - ngư nghiệp theo phân cấp của Thành phố;
+ Quản lý đầu tư, nâng cấp, sửa chữa hệ thống chiếu sáng công cộng, thoát
nước ngõ, ngách phố;
- Công tác quy hoạch; đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính theo
13