1. Giới thiệu đối tượng nghiên cứu
1.1 Địa điểm
Đình Bảng nằm trên vùng châu thổ sông Hồng. Trải dọc theo trục đường
quốc lộ 1 A, cách Thủ đô Hà Nội 16 km về phía Bắc. Làng Đình Bảng là một xã, có
mười lăm xóm họp lại thành một làng, cả làng thành một xã.
Theo chiều dài lịch sử, Đình Bảng là một làng trù phú, kinh tế văn hoá phát
triển, thuận lợi giao thông thủy và bộ. Nằm ở vị trí tiếp giáp, nối liền miền đồi núi
Đông Bắc với đồng bằng phía Nam cho nên Đình Bảng là nơi hội tụ và đón nhận,
ảnh hưởng cả phương Bắc, phương Nam, phía Đông và phía Tây. Đúng như nhận
định của giáo sư Trần Quốc Vượng: "Đình Bảng không bao giờ là một trung tâm
hành chính chính trị đế chịu sự đánh phá chà xát và xáo động, cùng di động dân như
Cổ Loa cũng như nhận sự áp chế trực tiếp và đồng hoá nặng nề như vùng Luy Lâu.
Nhưng Đình Bảng lại gần Cổ Loa cũng như gần Luy Lâu (hay phủ Từ Sơn ngay sau
đó) để không bao giờ là một vùng quê hẻo lánh, xa xôi - Đình Bảng không bao giờ
có thành nhưng bao giờ cũng có thị. Đó là một làng chợ, hương thị, xã thị (chứ
không là thị xã). Đình Bảng và vùng chung quanh bao giờ cũng là vùng đất hướng
ngoại, vùng mở, vùng giao lưu kinh tế văn hoá sống động và nãng động ,một vùng
tiến bộ văn hoá -xã hội, vùng đan xen kinh tế điển hình" (Hội nghị chuyên đề về
Vương Triều Lý 1-7- 1985).
Đình Đình Bảng (xưa kia còn có tên nôm là đình Báng, do có cây Báng mọc
thành rừng) nằm giữa một thiên nhiên đẹp, xung quanh có nhiều hồ ao là dấu tích
của sông Tiêu Tương. Hiện nay đình thuộc làng Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh
Bắc Ninh. quyết định số 313/QĐ ngày 28/04/1962. Vùng địa linh này là quê hương
Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng
Long (năm 1010).
Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng
xã không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ, công sức, sự
thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã, nơi chứng kiến và diễn ra các
hoạt động lớn nhỏ của cả làng... là nơi các chàng trai, cô gái gửi gắm, bầy tỏ tâm
tình.
1.2. Niên đại, lịch sử hình thành và phát triển
Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh
Bắc, được xây dựng năm 1700 và đến năm 1736 mới được hoàn thành, do công đầu
của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang Nguyễn Thị
Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dâng làng xây dựng, ngôi đình có thế
trường tồn .Nay ngôi nhà cổ của ông Nguyễn Thạc Lượng cho dựng thử trước khi
cho dựng Đình Bảng vẫn còn và được gìn giữ bảo tồn.
Đình Đình Bảng gắn bó với nhiều sự kiện lịch sử qua hai cuộc chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đình cũng đã nhiều lần vinh dự được đón Bác Hồ về
thăm. Đình Đình Bảng được Nhà nước công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật
theo quyết định số 313/QĐ ngày 28/04/1962.
1.3 Mục đích xây dựng, chức năng sử dụng
Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng xã
không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ, công sức, sự
thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã, nơi chứng kiến và diễn ra các
hoạt động lớn nhỏ của cả làng... là nơi các chàng trai, cô gái gửi gắm, bầy tỏ tâm
tình.
"Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu"
Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý, tạo
thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia, đủ cả: Đình,
Đền, Chùa, Lăng, Tẩm .... đặc trưng của văn hóa làng Việt Nam. Đây là nơi hội tụ
văn hoá tín ngưỡng, nguyên trước Đình thờ 3 vị nhiên thần: Cao Sơn đại vương
(Thần Đất), Thuỷ Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần Trồng
Trọt), là các vị thần được cư dân nông nghiệp tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà
cho mùa màng tươi tốt. Hàng năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu
khẩn cho một năm mùa màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân dân còn thờ Lục Tổ
(6 vị có công lập lại làng vào thế kỷ XV). Sau này khi đền Lý Bát Đế bị thực dân
Pháp phá năm 1948, nhân dân đã tiếp nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về thờ tại
Đình Bảng.
1.2 Đặc điểm kiến trúc
Sơ đồ kiến trúc Đình Bảng. Sơ đồ chi tiết bộ vỉ và hệ mái của đình
Bảng.
Kiến trúc của đình bao gồm Đại đình - ống muống - hậu cung được liên kết
với nhau theo kiểu liên kết mái. Trong đó Đại đình có những nét đáng chú ý về nghệ
thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí.
Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ XVII đầu XVIII,
đình Đình Bảng có lối kiến trúc bề thế, mái dài và cao, các đầu đao được uốn cong
vút. Toà Đại đình mái lớn và rộng, chiếm hơn 2/3 chiều cao toàn thể ngôi đình.
Diện tích mái rộng, lợp ngói mũi hài dầy bản, rộng khổ,
tạo một không gian rộng trong lòng đình. Đình có các tàu
mái uốn cong nhẹ nhàng, đoạn cuối uốn cong vút tạo
thành bốn góc đao đồ sộ. Toà Đại đình được xây trên nền
cao hai bậc cấp đá xanh bó xung quanh rất bề thế và vững
chãi. Bốn mặt đều được bưng kín bằng ván đố lụa, tháo
mở dễ dàng. Do đó không gian sử dụng của đình làng
không chỉ hạn hẹp trong lòng kiến trúc mà rộng thoáng
khắp bốn xung quanh, hài hoà với không gian tự nhiên.Các gian bên của Đại đình
đều có sàn ván gỗ. Phần lớn các đình làng Việt Nam nay đã bị mất hết ván sàn, dấu
vết của ván sàn nay chỉ còn là các mộng ở phần chân cột. Đình Đình Bảng là một
trong số ít đình vẫn còn giữ lại được hệ thống sàn gỗ. Hệ thống sàn đình chủ yếu
phục vụ cho việc ngồi họp của dân làng nên mang nặng tính chất sạp. Sau này khi
đình làng bị chính quyền quân chủ chi phối mạnh mẽ thì sàn đình trở nên hợp với
việc phân định “chiếu trên - chiếu dưới”- những thứ bậc muôn thuở của làng xã Việt
Nam. Đại đình gồm có 6 bộ vì được liên kết với nhau qua hệ thống xà dọc bởi vậy
đình bao gồm 5 gian chính, ngoài ra để mở rộng thêm lòng công trình người ta đã
đặt thêm 2 bộ vì lửng ở hai bên tạo nên 2 gian hồi và 2 chái lớn. Trên xà đùi nối
giữa cột cái và cột quân ở 2 gian hồi người ta đặt cột trốn để đỡ vì. Vì này được làm
theo kiểu chồng rường và được chạm khắc hình rồng, hình mây. Đại đình gồm 6
hàng chân cột, có 60 chiếc cột, các cột đều được dựng trên những chân tảng đá xanh
vuông vức, nhẵn bóng. Tất cả sức nặng của công trình đều được phân tán qua cột
xuống các chân tảng lớn bằng đá đặt trên nền đình. Tất cả các cột đều được làm
bằng gỗ lim chắc chắn.
Hệ thống cột và sàn gỗ trong đình
Trong kiến trúc gỗ cổ truyền Việt, sự vững trãi của công trình là nhờ vào
khung kết cấu với những mối liên kết, các mộng, chịu sức nặng của toàn bộ mái đè
xuống. Hệ khung liên kết bằng gỗ trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định sự
tồn tại của công trình kiến trúc. Trong đó bộ vì là yếu tố cơ bản của kết cấu khung
gỗ, nó liên kết tất cả các cấu kiện, vừa là kết cấu chịu lực, nâng đỡ mái, vừa là đơn
vị cấu thành tổ chức không gian của đình. Các vì kèo được cấu trúc theo lối chồng
rường “thượng tam hạ tứ”. Bộ vì nóc được làm theo kiểu chồng rường. Trên đầu hai
cột cái là một câu đầu to khoẻ được đỡ bởi hai đầu dư. Trên câu đầu và hai trụ trốn
đỡ hai con rường chồng lên nhau qua hai đấu vuông thót đáy, trên cùng là một đấu
đỡ thượng lương. Chạy xung quanh lòng toà Đại đình là ba hàng xà kép: xà hạ, xà
trung, xà thượng. Từ Đại đình có cửa nách qua ống muống và hậu cung. Hậu cung
có ba gian, hệ khung kết cấu đơn giản với bộ vì nóc được làm theo kiểu cốn chồng
rường, vì nách được chạm chổ đơn giản. Hai đầu hồi hậu cung được xây tường cao
bít đốc.
1.4.1 Cách thức tổ chức mặt bằng
mặt bằng Đình Bảng
Đình được xây dựng trên một bãi cao, mặt hướng nam trông thẳng ra một chiếc ao
rộng.
1.4.2 Cách thức tổ chức mặt đứng
mặt đứng, mặt bên, mặt bằng Đình Bảng
1.4.3 Hệ kết cấu
Đình Đình Bảng là hình ảnh độc
đáo của kiến trúc dân tộc, giữ
được hình ảnh toàn vẹn kiểu thức
nhà sàn dân tộc được áp dụng cho
kiến trúc đình làng. Nhìn lại lịch
sử từ buổi đầu dựng nước, hình
ảnh ngôi nhà sàn còn in giữ trên
các trống đồng Đông Sơn - Một
sáng tạo của cha ông ta trong lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ
sộ sau mấy mươi thế kỷ đem so sánh với
những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn
nhưng phải nhận thấy cả hai mẫu hình này
có phong thái thống nhất, cóBộ khung Đình
Bảng sự kế thừa và phát triển truyền thống
kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng
nướcĐình Bảng là một công trình kiến trúc
quy mô, nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao,
hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả
vu và hữu vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan trọng nhất của Đình
Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà Bái Đường (Đại Đình).
Bái Đường của đình có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy gian,
hai chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ sộ của đình thể hiện qua
phần mái toả rộng chiếm 2/3 chiều cao tổng thể và 6 hàng, khoảng 60 cột lim lớn
nhỏ có đường kính từ 0,55- 0,65 mét được đặt trên các tảng đá xanh vuông vức.
Vẻ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở sự tỏa rộng trong không gian của mái
đình, sự đồ sộ của những đầu đao, khả năng thích nghi với khí hậu, và sự sung mãn
về trang trí, điêu khắc.
Đình Bảng có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ).
Đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm
hai phần ba chiều cao của đình) cho cảm giác bề thế. Đình lợp ngói mũi hài và có
các đầu đao vươn xa nhất trong các các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt
Nam. Đình có cửa bức bàn bao quanh.
1.4.4 Cách thức sử dụng vật liệu
Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Như là một ngôi nhà công
cộng của làng quê thời xưa,Đình được dùng làm nơi thờ Thành Hoàng làng (vị thần
bảo trợ của làng) và họp việc làng Đó là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng
những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang ,
xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình
lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu đao cong. Vào mỗi dịp lễ, Tết, đình trở thành
trung tâm văn hóa của làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hóa tích lũy từ đời này qua
đời khác được thể hiện đầy đủ nhất.
1.4.5 Trang trí (phù điêu, tượng…), màu sắc
So với nghệ thuật kiến trúc thì nghệ thuật trang trí ở đình Đình Bảng cũng
không kém phần đặc sắc. Các thành phần kiến trúc của đình Đình Bảng hầu hết
được trang trí chạm khắc công phu thể hiện một nghệ thuật hội họa, điêu khắc gỗ
tinh vi, điêu luyện. Đồng thời có thể nói chạm khắc ở đình Đình Bảng là mở đầu
cho một phong cách chạm khắc gỗ của thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, với hai xu
hướng: nghệ thuật dân gian và nghệ thuật cung đình, trong đó nghệ thuật dân gian
đang bị lấn át dần. Xu hướng nghệ thuật cung đình thể hiện qua các đề tài trang trí
của nghệ thuật chính thống là tứ linh, tứ quý, đề tài triết lý tôn giáo . . . với bố cục
dày đặc, đường nét cầu kỳ, nặng về mặt hình thức công phu, hoa mỹ. Trên 28 chiếc
kẻ hiên là 28 con rồng mỗi con một vẻ rất sinh động. Những con rồng với thân hình
nhỏ nhắn,hai chân nắm hai sợi râu mép, dáng hình ngộ nghĩnh, nét mặt như cười.
Trên khung cửa được phủ hai dải hoa văn cân đối, dưới có hai khối tượng tròn là hai
cối gỗ tra cánh cửa được nghệ nhân sáng tạo thành hai con nghê nằm trong tư thế
phục chầu nhau với thân hình tròn lẳn căng đầy sức sống và vẻ mặt rất sinh động.
Chúng ta còn bắt gặp hình tượng nghê nếu quan sát
Điêu khắc rồng trên kẻ hiên Hình Hình tượng nghê trên cối gỗ tra cánh cửa
tiếp ở các tác phẩm tượng tròn được tạc ở cột cái trước và sau gian bên thứ hai phía
tây nam và phía đông bắc Đại đình. Nghê có tư thế ngồi xổm, hai chân trước chống
thẳng, mình có vẩy và mây cuộn. Dưới bàn tay tài hoa của người thợ xưa, hình
tượng nghê hiện ra rất sống động, tư thế trang nghiêm nhưng lại không hề cứng
nhắc.
Các bức chạm đều mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII Đặc biệt ở gian
giữa Đại đình có bức cửa võng và bức trần gỗ. Bức cửa võng rất lớn, chia thành bẩy
lớp, chín ô theo kiểu lồng hộp, trang trí dầy đặc, chạm trổ tinh vi với các chữ triện,
chữ công, các con vật như rồng, phượng, ngựa, sư tử, mây, hoa lá, các cây trong bộ
tứ quý mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Bức trần gỗ được trang trí một