Website: Email :
Tel : 0918.775.368
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa
---------------
c
v
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội thả diều truyền thống làng Bá Giang, xã Hồng Hà là một lễ
hội đặc sắc và độc đáo trong hệ thống lễ hội cổ truyền của Hà Tây, và của
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Cho tới nay, việc sưu tầm và nghiên cứu về lễ
hội thả diều làng Bá Giang, xã Hồng Hà một cách thấu đáo, có hệ thống
và khoa học vẫn chưa được đề cập tới trong một cơng trình nào. Chính vì
thế chúng tôi đã chọn lễ hội thả diều làng Bá Giang làm đối tượng nghiên
cứu nhảm làm sáng tỏ những giá trị văn hóa, tính độc đáo của nó trong
kho tàng lễ hội cổ truyền dân tộc là rất cần thiết.
Nghiên cứu các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng về lễ hội dân gian ở
một địa bàn cụ thể như làng Bá Giang sẽ góp phần vào việc xây dựng bức
tranh tồn cảnh về văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân gian Việt Nam, để
giúp chúng ta hiểu rõ hơn tâm thức của người xưa.
Mặt khác, trong xu thế phát triển văn hóa du lịch, “làng diều”
truyền thống Bá Giang có điều kiện trở thành một địa chỉ du lịch văn hóa
hấp dẫn khách quan trong tua du lịch làng nghề của Hà Tây và phía Bắc
của thủ đơ Hà Nội.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Gìn giữ nét đẹp lễ hội truyền
thống thả diều làng Bá Giang” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và làm rõ những giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội
thả diều làng Bá Dương trong cuộc sống đương đại để từ đó đề xuất các
biện pháp tăng cường quản lý lễ hội phát huy giá trị văn hóa phi vật thể
của lễ hội thả diều truyền thống làng Bá Giang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khái lược lễ hội thả diều truyền thống làng Bá Giang.
- Lễ hội thả diều truyền thống làng Bá Giang.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Không gian: Làng Bá Giang xã Hồng Hà - tỉnh Hà Tây
- Thời gian: Diễn trình lễ hội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một só vấn đề cơ sở lý luận gắn liền với đề tài.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng của lễ hội và vấn đề quản lý lễ hội.
- Đề xuất biện pháp tăng cường quản lý lễ hội thả diều.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên lập trường quan điểm triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích tổng hợp tài liệu, tra cứu hồ sơ, văn bản của Nhà nước,
của thành phố Hà Nội, của ngành Văn hóa nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận
của đề tài.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Các phương pháp nghiên cứu khoa học văn hóa, văn hóa dân gian,
phương pháp diễn tả, phương pháp nghiên cứu lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu dân tộc học, xã hội học, điều tra phỏng
vấn.
- Phương pháp điền dã nghiên cứu thực tiễn tại chỗ.
6. Đóng góp của đề tài
- Tổng quát về lễ hội thả diều.
- Khẳng định giá trị lễ hội thả diều.
- Hệ thống hóa các tài liệu về lễ hội.
- Vai trò của lễ hội đối với tinh thần của nhân dân trong đời sống
văn hóa đương đại.
- Khẳng định vai trò của người cán bộ văn hóa trong cơng tác quản
lý di tích đối với cơng cuộc phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
- Làm tư liệu tham khảo cho công tác quản lý lễ hội ở địa phương.
7. Bố cục luận văn
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và các tài liệu tham
khảo, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng lễ hội tdi làng Bá Giang.
Chương 3: Một số biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội thả
diều truyền thống làng Bá Giang trong thời đại mới.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm văn hóa và quản lý văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một lĩnh vực rất rộng lớn, vơ cùng phong phú và đa dạng
có mặt và thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống con người
vì thế có rất nhiều định nghĩa, cach hiểu khác nhau về văn hóa.
Theo Khổng Tử: Văn là những gì tốt đẹp của con người và cộng
đồng. Hóa là biến những gì bình thường của con người và cộng đồng trở
nên tốt đẹp. Heriot nói: “Văn hóa là cái còn lại, khi người ta đã quyên đi
tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tốt cả”.
Pufendorf - Nhà dân tộc học Đức, là người đầu tiên sử dụng từ văn
hóa đã cho rằng “Văn hóa là tồn bộ những gì được tạo ra do hoạt động
xã hội, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên”.
Năm 1871, E.B. Tylor - Người góp phần khẳng định ngành văn hóa
học như một khoa học, đã đưa ra định nghĩa,“Văn hóa là phức thể bao
gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, và
mọi khả năng, thói quen mà con người với tư cách là thành viên xã hội đạt
được”.
Sau nhiều năm tìm tịi theo các hướng, cách tiếp cận khác nhau, đến
những năm 70 của thế kỷ XX, cách hiểu phổ biến và gặp nhau nhiều nhất
là ở quan niệm coi văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này
hay dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Năm 1982, tại Mêhicô,
Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa vì sự phát triển đã thông qua
tuyên bố Mihicô ngày 6-8 cho rằng. “Theo nghĩa rộng ngày nay văn hóa
có thể được coi là tồn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí
tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không
chỉ bao gồm nghệ thuật văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
nhân loại, các hệ thống giá trị, truyền thống tín ngưỡng” (xem “Xây dựng
và phát triển nền Văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”).
(NXB Chính trị Quốc gia, từ trang 14-16).
Như vậy theo nghĩa rộng lớn, vừa bản chất của no, văn hóa là tồn
bộ hoạt động tinh thần - sáng tạo và các giá trị vật chất và tinh thần ngày
càng cao hơn để vươn tới tự hoàn thiện theo khát vọng chân, thiện, mỹ và
góp phần thúc đẩy sự tiến bộ, phát triển không ngừng của đời sống xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc
sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. (Hồ Chí Minh tồn tập,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, trang 431).
Theo Viện sĩ Trần Ngọc Thêm thì “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội”.
Tuy nhiên có nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, nhưng nhìn
chung các định nghĩa đều đề cập đến những đặc trưng.
Văn hóa là hoạt động của con người, văn hóa là biểu hiện trình độ
nhận thức của con người (đây là yếu tố phân biệt giữa người và động vật).
Văn hóa là thể hiện khát vọng vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ,
đó là sự vươn tới cái đẹp, cái hoàn thiện. (Đây là cơ sở để phân biệt văn
hóa và phản văn hóa).
Văn hóa là tổng hợp các giá trị được cộng đồng thừa nhận, tuân thủ
trong một môi trường, một không gian cụ thể (đây là tiêu chí để xây dựng
những giá trị văn hóa mới, khơng thể áp đặt tùy tiện).
1.1.2. Khái niệm quản lý văn hóa
Sự cộng sinh có tính liên ngành của khoa học quản lý và khoa học
văn hóa, được thể hiện trong khái niệm quản lý văn hóa. Quản lý văn hóa
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
vừa biểu thị sự lãnh đạo và điều hành những cơ sở đã được xã hội phân
công trong hệ thống nhà nước hoặc trong doanh nghiệp hoạt động văn
hóa, vừa biểu đạt một ngành đại học đã được khẳng định về lý luận và
nghiên cứu được định hướng về mặt thực tiễn.
Theo PGS Nguyễn Tri Ngun - Ơng cho rằng: “Quản lý văn hóa là
lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo hoặc kiểm tra các thiết chế văn hóa của
các phạm vi lợi nhuận cũng như phạm vi không lợi nhuận và cùng với
điều đó liên kết các nhiệm vụ chiến lược và chiến dịch như marketing,
giao thông liên lạc”.
Trong thời đại ngày nay, với sự hiện diện của cơ chế thị trườngthì
cơng tác quản lý văn hóa là những vấn đề mới mẻ cần được nghiên cứu
chu đáo và dưa ra một số phương thức như:
- Quản lý văn hóa bằng pháp luật.
- Xây dựng các chương trình, kế hoạch quốc gia về phát triển văn
hóa.
- Đầu tư tài chính cho văn hóa.
- Củng cố tổ chức, tăng cường đào tạo cán bộ, đổi mới hoạt động
của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm sốt của nhà nước trong lĩnh vực văn
hóa.
Như vậy, cũng theo PGS Nguyễn Tri Nguyên thì: “Quản lý văn hóa
với tư cách là quản lý về nghệ thuật và văn hóa xác định tính cách được
định hướng về tính kinh tế, về tính kế hoạch, về tính cơng khai mà hoạt
động này liên quan tới nội dung nghệ thuật và mục tiêu văn hóa được tập
trung lại nhằm kiến tạo hiện tại và tương lai”.
1.1.3. Khái niệm về lễ hội
Lễ hội là thuật ngữ dân gian được dùng rộng rãi trong xã hội. Khi
giải thích thuật ngữ di sản văn hóa phi vật thể, Luật di sản văn hóa đã xác
định lễ hội là di sản văn hóa phi vật thể.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
Lễ hội “ là bảo tàng sống về các mặt sinh hoạt văn hóa tinh thần của
người dân Việt”, đồng thời “ hội và lễ hội là một sinh hoạt văn hóa lâu
đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Hội và lễ hội có sức hấp dẫn, lơi cuốn
các tầng lớp trong xã hội để trở thành một nhu cầu, một khát vọng của
nhân dân trong nhiều thập kỷ”.
Lễ hội thường được tổ chức gắn với tục lệ thờ cúng thần, thánh ở
miếu, ở đình, ở chùa hoặc các nơi cơng cộng khác; công việc tổ chức cũng
như nội dung cầu khấn của lễ hội cộng đồng lúc nào cũng vì sự ổn định
làm ăn và làm ăn phát đạt của cả cộng đồng.
Lễ hội gồm hai phần: Phần lễ và phần hội. Phần lễ là những nghi
thức, thủ tục mang tính chất trang nghiêm, trang trọng. Phần hội trong lễ
hội lúc nào cũng tưng bừng, khơng khí hội lộ rõ, tâm trạng của người dự
thoải mái, thăng hoa.
1.1.4. Khái niệm quản lý lễ hội
Cây có cội, sơng có nguồn, lễ hội dân gian có cội nguồn từ văn hóa
cộng đồng. Lễ hội dân gian phản ánh nhiều giá trị văn hóa cần được quản
lý nhằm bảo tồn và phát huy trong cuộc sống hiện tại. Song nội dung, khái
niệm quản lý lễ hội đang còn nhiều cách hiểu khác nhau. Xuất phát từ
quan điểm của Đảng và Nhà nước có thể hiểu quản lý lễ hội là tạo điều
kiện cho lễ hội phát triển theo định hướng phát triển của đất nước và phù
hợp với quy luật của thời đại, đồng thời ngăn cản những hành vi lợi dụng
lễ hội để hoạt động tệ nạn xã hội.
“Quản lý lễ hội là nhu cầu khách quan để lễ hội phát triển nhưng
quản lý địi hỏi cái nhìn tổng thể để đưa các phương thức và cơ chế quản
lý thích hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc vừa phù hợp với định
hướng phát triển của địa phương nói riêng và yêu cầu phát triển của cả
nước nói chung”.
1.2. Các văn bản pháp quy về lễ hội và quản lý lễ hội
Nói đến quản lý, chúng ta phải căn cứ vào hiến pháp, pháp luật, các
văn bản dưới luật để thực hiện quyền quản lý ở cơ sở.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
Liên quan đến lễ hội truyền thống cần khẳng định chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta là “Tự do tín ngưỡng và bài trừ mê tín dị đoan”. Vì
vậy, để quản lý tốt lễ hội, trước tiên phải thực hiện tốt Nghị quyết số 24
của Ban Bí thư TW Đảng về tín ngưỡng, tơn giáo.
Tiếp theo đó là nghị định 69 - HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng
bộ Trưởng qui định về các hoạt động tôn giáo “ Nhà nước bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng và quyền tự do khơng tín ngưỡng của cơng dân; Nghiêm
cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tơn giáo hoặc tín ngưỡng”.
Ngày 23/7/1993, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị 379/TTG về các
hoạt động tơn giáo, nhằm giúp các cấp chính quyền và Ban Tơn giáo các
cấp xử lý đúng đắn các vấn đề tín ngưỡng tôn giáo trong đời sống xã
hội….
Quyết định số 39/2001/QĐ-BVHTT ngày 23/9/2001 của Bộ Văn hóa
Thơng tin về việc ban hành quy chế tổ chức lễ hội (thay thế cho quy chế
ban hành tháng 5/1994).
Nghị định 112/2005/NĐ-CP ngày 18/1/2006 của Chính phủ về ban
hành quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa cơng
cộng.
Nghị định 56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 của Chính phủ về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực văn hóa thơng tin.
1.3. Vai trị của cán bộ văn hóa đối với cơng tác quản lý lễ hội
Người cán bộ quản lý văn hóa trên địa bàn đối với công tác quản lý
lễ hội phải hiểu và nắm vững các công tác sau:
Chú trọng công tác tuyên truyền các giá trị lịch sử văn hóa của di
tích cũng như qui định của pháp luật có liên quan, để các thành viên tham
dự lễ hội có trách nhiệm cùng chính quyền, ban tổ chức thực hiện nghiêm
các quy định của lễ hội: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa văn hóa và kinh
tế trong việc tổ chức lễ hội, quy hoạch, sắp xếp các hàng quán dịch vụ và
các hoạt động vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để nhân dân địa
phương có thêm thu nhập, nhưng vẫn đảm bảo tính văn hóa trong hoạt
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
động dịch vụ, thực hiện việc xã hội hóa tổ chức lễ hội, khai thác nguồn
lực từ các tổ chức cá nhân, đóng góp cho việc gìn giữ di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể liên quan đến lễ hội.
Nắm vững các văn bản pháp quy về công tác quản lý lễ hội để tham
mưu cho cấp chính quyền và địa phương tổ chức tốt các đợt tuyên truyền
giáo dục quần chúng tham gia bảo vệ và gìn giữ lễ hội.
Phối hợp với cán bộ quản lý di tích cấp trên biên tập thành tài liệu
tuyên truyền lễ hội, chống các hoạt động mê tín dị đoan.
Phát hiện và tham mưu cho UBND các cấp chỉ đạo các cơ quan tư
pháp, hành pháp xử lý các vụ việc xâm phạm di tích lễ hội theo đúng quy
định hiện hành của pháp luật.
Tham mưu cho chính quyền địa phương thành lập ban quản lý lễ hội
trên cơ sở quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của từng người trong lễ hội và cơ
quan quản lý di tích. Vận động xã hội hóa bảo vệ, và phát huy lễ hội theo
kế hoạch dự án đã được cấp rên phê duyệt.
Phối hợp với các đơn vị chức năng, ban tuyên huấn tổ chức thường
xuyên các đợt tuyên truyền về truyền thống tốt đẹp của địa phương nơi có
lễ hội.
Rà sốt phân loại lễ hội, tăng cường công tác quản lý, nghiên cứu để
việc tổ chức lễ hội ngày càng khoa học, thể hiện đúng ý nghĩa bản sắc của
lễ hội. Xây dựng nếp sống văn hóa, thực hiện, thơng qua việc lồng ghép
và nội dung cụ thể của phong trào, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”.
Lễ hội là di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc cần được bảo tồn, phát
huy và phát triển theo qui chế để các giá trị văn hóa của lễ hội trở thành
nguồn lực to lớn tác động mạnh mẽ đời sống tinh thần của nhân dân.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG LỄ HỘI THẢ DIỀU LÀNG BÁ GIANG
2.1. Tổng quan về làng Bá Giang xã Hồng Hà - huyện Đan
Phượng - tỉnh Hà Tây
2.1.1. Vị trí địa lý
Làng Bá Giang nằm ven sông Hồng quanh năm nước chảy, phù sa
bồi đắp thường xuyên, làm cho đất đai ở nơi đây luôn mầu mỡ, cây cối
xanh tươi. Từ xưa nhân dân chủ yếu làm ruộng, hàng năm thường trồng
những cây lương thực như: Lúa, ngô, khoai, lạc, đậu, và các loại cây công
nghiệp có các nghề như thợ mộc, thợ rèn, thêu, ren, đan lát, dệt vai lụa và
thao. Nhân dân buôn bán chính là hàng xáo (xay, giã gạo) hoa quả và một
số ít người bn chuyến ở các nẻo sơng. Một số người đi làm thuê, kiếm
ăn ở các tỉnh xa. Làng có chợ Bá xưa tháng họp 6 phiên, hàng hóa phong
phú nên có câu.
“Bá Nội là đất thanh nhàn
Thuyền em về Bá, lập đàng bán buôn”.
Bá Giang rất thuận tiện về giao thông thủy và bộ. Từ Hà Nội đến
làng Bá Giang có nhiều đường. Ta có thể đi theo đê sông Hồng (nay đã
được dải nhựa), qua gầm cầu Thăng Long, qua Thượng Cát (Từ Liêm - Hà
Nội), qua xã Liêm Trung, Liên Hà, Liên Hồng, đến làng Bá Giang. Đây là
tuyến đê bảo vệ kinh thành Thăng Long xưa, Thủ đô Hà Nội ngày nay,
nên từ xưa được coi là rất quan trọng. Đê đắp khá lớn, chạy vịng ơm ấp
lấy làng Bá Giang. Đường thủy từ đây đi Hà Nội và ngược lên Việt Trì và
các tỉnh phía Bắc. Con đê sơng Hồng cịn kéo dài lên tới thị xã Sơn Tây.
Đến trạm Tiên Tân rẽ trái vào đê sông Đáy và đến huyện Đan Phượng
(qua các xã Hạ Mỗ, Thượng Mỗ, Đan Phượng).
Đầu làng Bá Giang (phía Bắc) có hệ thống điều tiết nước sơng Hồng
tự chảy, xuyên qua đê sông Hồng, dẫn phù xa vào tưới cho đồng ruồng
của làng xã. Thời Pháp thuộc đã có cống trịn tự chảy xong lưu lượng nhỏ.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
Ngày nay một hệ thống dẫn thủy hiện tại đã hoàn thành cung cấp nước
tưới cho cả hai huyện Đan Phượng và Hoài Đức. Khi mùa nước cạn của
sông Hồng vẫn đảm bảo đủ nước tưới cho cây trồng, cả bốn mùa. Với hệ
thống giao thơng thủy, bộ như vậy, làng Bá Giang có một ưu thế thuận lợi
và vị trí quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Với vị thế “nhất cận thị, nhị cận giang”, do thiên nhiên ban tặng,
môi trường sinh thái đặc thù ấy sẽ có ảnh hưởng lớn tới đời sống văn hóa
- xã hội của làng Bá Giang. Sự lựa chọn thần linh và đời sống tín ngưỡng,
cả sự phát đạt về học hành, sự phong phú của đời sống tín ngưỡng, sự
phát đạt về học hành sự phong phú của sử dụng tinh thần ở đây, cũng từ
vị thế ấy.
2.1.2. Lịch sử hình thành
Ngược dịng sơng Hồng, từ Thủ đơ Hà Nội đi về phía Tây Bắc
khoảng 15km, có một khu dân cư sầm uất, chợ họp đông vui, thuận đường
thủy- bộ; Đó là làng Bá Giang xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng - tỉnh Hà
Tây.
Làng Bá Giang cịn có tên là Bá Dương Nội, xưa có tên nơm là Kẻ
Bá. Đầu thế kỷ thứ XIX làng Bá Giang thuộc tổng Thượng Trì, huyện Từ
Liêm, thị trấn Sơn Tây. Sau cách mạng tháng Tám (1945) đã nhiều lần
thay đổi. Từ 1979 đến 1991 thuộc ngoại thành Hà Nội, từ năm 1992 đến
nay thuộc địa bàn Hà Tây.
Bá Giang là một trong 4 làng của xã Hồng Hà: Bá Thị, Tiên Tân và
Bồng Lai. Bá Giang ở trung tâm của xã, phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc,
Đông Nam giáp xã Liên Hồng, Nam giáp xã Tân Hội, Tây Nam giáp Hạ
Mỗ. Bá Giang nằm cạnh sơng Hồng có con đê bao bọc. Ngồi đê là Ghềnh
Nguyệt Lão, xưa có câu cá “Miếu Đinh Nguyên, ông Diên Thành, Ghềnh
Nguyên Lão”, là những địa danh quan trọng trong vùng.
Bá Giang ngày nay thuộc vùng đất cổ xưa xứ Đoài. Những năm
1975 - 1976 trong khi đào giếng nước ở Bá Giang đã đào được một số
hiện vật bằng đá và đồng của người xưa, giới nghiên cứu lịch sử Hà Nội
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
ghi nhận là một di chỉ khảo cổ học rất cần được nghiên cứu. Chắc hẳn
dưới lòng đất nơi đây còn chứa đựng nhiều hiện vật báu có thể giúp chúng
ta xác minh thêm sự phong phú của nền văn minh sông Hồng - Con sông
mà xã Hồng Hà lấy làm tên gọi.
Về mặt văn vật ngàn năm mà nói, nơi đây cịn nhiều truyền thuyết
và di tích để chứng minh nơi đây là vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa.
Thời Hùng Định Vương, con gái thứ chín vua Hùng lấy con trai Lạc
tướng họ Hồng ở Châu Ơ (phải chăng là Ô Diên?), sinh ra được người
con trai là Hoàng Trụ, năm 12 tuổi, Trụ học ông Lỗ ở Kinh Đô (Bạch Hạc
- Việt Trì), vì ơng thơng minh học một biết mười nên ai cũng mến phục.
Năm 17 tuổi, cha mẹ mất cả. Trụ đến học thêm rồi dạy học ở bãi Tăng
Tang (bãi dâu), biết thêm cả nghề thuốc, sẵn sàng trừ bệnh dịch cho dân
cứu sống được nhiều người. Ba năm sau nhà vua cầm quân mời ông ra
đánh giặc. Ông đánh thắng, chém đầu tướng giặc. Ông đánh thắng, chém
đầu tướng giặc là Thiết Sả từ Trung Quốc tràn sang. Khi ông mất, nhân
dân Bồng Lai (cùng xã) dựng ngôi đền thờ ngay trên nền trường học cũ ở
bái Tang Tang, ngàn năm hương khói thờ phụng ông.
Người đời sau đã có thơ ca ngợi rằng:
“Danh thơm ngàn thủa non sông tỏ
Đền miếu nguy nga mãi vẻ vang”
Xã Hồng Hà, làng Bá Giang còn rạng rỡ trong trang sử anh dũng
chống thực dân Pháp xâm lược và chống Mỹ cứu nước, góp phần giành
độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong cuốn “Truyền thống cách mạng xã Hồng
Hà”, ấn hành năm 1985 có đoạn ghi: “Thơn Bá Giang dưới sự chỉ huy của
cụ Phạm Văn Thiều, Phạm Văn Tỉnh , Phạm Văn Thêm (thường gọi là
quận Thêm), đã cùng dân làng cương quyết đánh giặc bằng nhiều hình
thức: Đánh lẻ, diệt gọn, nếu cứ năm bẩy thằng giặc qua đường làng là các
cụ tiêu diệt gọn. Xác chúng được chôn ngay ở đầu làng, ý muốn giáo dục
cho con cháu đời sau là: “Giặc đến đây là khơng có đường về. Với kiểu
đánh này lực lượng địch bị hao hụt dần, địch khó đối phó, khó tìm ra tung
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
tích của ta. Cuộc chiến đấu này kéo dài hơn 3 tháng gây cho giặc nhiều
thiệt hại”. Hưởng ứng phong trào toàn dân chống Pháp của Hoàng Hoa
Thám, cụ Lang Sáng - gây dựng cơ sở ở Bồng Lai, Bá Giang. Cụ được
giao trách nhiệm cắm cờ lên cột cờ thành Hà Nội. Chủ trương bị bại lộ, cụ
bị bắt ngay trong thành. Địch tra tấn hết sức dã man nhưng cụ vẫn biểu thị
tinh thần bất khuất, dẫu chết cũng không hề cung khai. Nhờ vậy mà cơ sở
không bị bại lộ, dân làng không bị triệt phá.
Trong kháng chiến chống Pháp rồi kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thanh niên làng Bá Giang xã Hồng Hà hăng hái lên đường nhập ngũ bảo
vệ Tổ quốc. Nhiều người đã hi sinh anh dũng góp phần tô thắm trang sử
truyền thống của quê hương, giành lại độc lập tự do cho đất nước.
Với truyền thống lịch sử lâu đời của quê hương là nền tảng vững
chắc, hun đúc lên tính cách anh dũng của người dân Kẻ Bá. Những địa
danh, nhân vật và cơng tích của cổ nhân là cơ sở cội nguồn các sinh hoạt
văn hóa truyền thống đặc sắc của vùng quê dân dã nơi đây.
2.1.3. Đặc điểm đời sống văn hóa - kinh tế - chính trị - xã hội
Đặc điểm đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội
Đất đai của làng Bá Giang ở ven sơng Hồng hình thành hai khu
đồng và khu bãi. Ngồi bãi sơng phù sa màu mỡ rất thuận tiện cho việc
trồng màu, ngô, khoai, đâu. Nhưng khơng chắc ăn vì hàng năm lũ sơng
Hồng lên to, có năm thất bát cả. Ngược lại, có năm mưa thuận gió hịa thì
mùa màng tốt tươi, được mùa to. Khu vực trong đồng, diện tích cấy lúa
khơng nhiều, song ổn định. Giữa làng là chợ Bá, xưa một tháng họp sáu
phiên. Một số gia đình bn bán nhỏ, làm nghề thủ công như nấu rượu,
một thời rượu bá nổi tiếng khắp vùng. Ngày nay, ngày nào chợ Bá cũng
đông người mua và bán. Các sản vật mua và bán nơi đây rất phong phú
phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Dưới thời phong kiến đế quốc, cuộc sống của người dân nơi đây khổ
cực, nghèo nàn, lạc hậu. Vì ven sơng Hồng, nên hàng năm luôn bị lũ lụt
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
đe dọa, có năm lũ cướp đi cả ruộng vườn, nhà cửa và cây trồng. Ca dao cũ
ở làng có câu:
“Vùng bãi ăn những dải khoai
Mong cho đến vụ được vài bữa cơm
Chưa và thì đã vội đơm…”
Xưa kia ở vùng này đói kém, người dân chỉ chưng cơm bằng cái
niêu bé con, cơm dành cho người già, người ốm và trẻ con, còn người lớn
thì ăn khoai, ngơ làm bữa hàng ngày.
Tình trạng đói khổ ấy đã chấm dứt sau những năm 1954, hịa bình
lập lại. Vốn bản tính cần cù lao động, chịu khó làm ăn trồng trọt, chăn
ni, phát triển nghề phụ: Nấu rượu, làm đậu phụ, bánh gio, bánh tẻ… và
các dịch vụ khác. Đời sống kinh tế ở làng Bá Giang thay đổi dần và trở
nên khá giả. Nhiều nhà ngói, nhà tầng mọc lên san sát, cảnh vật làng quê
đẹp tươi, sầm uất hai bên bờ đê sông Hồng. Nhất là những năm đổi mới
gần đây, đời sống kinh tế của làng Bá Giang cũng như xã hồng Hà vượt
lên nhanh chóng, nhân dân tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào
sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi với quy mô lớn. Dịch vụ buôn bán phát
triển, ngành nghề lâm sản, thủ công phong phú.
Những năm gần đây, đời sống nhân dân ổn định và phát triển. hệ
thống thủy nơng Đan hồi bắt nguồn nước từ sông Hồng, mang phù sa
màu mỡ tưới mát cho cánh đồng, một năm hai vụ lúa, một vụ màu năng
suất bội thu. Đường giao thông xuôi ngược. Người dân mang sản phẩm ra
Hà Nội bán, mua về những hàng tiêu dùng, tiện nghi cần thiết… Bộ mặt
kinh tế - xã hội làng Bá Giang xã Hồng Hà hoàn toàn đổi khác.
Trên mảnh đất đầu làng Bá Giang đã có một ngôi trường phổ thông
trung học khang trang mang tên Hồng Thái (là một trong 3 trường PTTH
của huyện), đón nhận học sinh quanh vùng đến học.
Ở đâu cũng vậy, khi đời sống kinh tế được phát triển và nâng cao
thì các sinh hoạt văn hóa xã hội của nhân dân cũng phát triển theo tỷ lệ
thuận. Các di tích lịch sử văn hóa được tu bổ, cơng trình phúc lợi mở
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
mang, hoạt động văn hóa tinh thần càng phong phú. Nhân dân phấn khởi
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Nhìn lại từ xa xưa, ta
thấy: Cư dân làng Bá Giang làm nơng nghiệp là chính, nên địi hỏi hai yếu
tố đất và nước thuận hịa. Qua đó tạo tâm lý ứng xử có văn hóa với mơi
trường tự nhiên của con người thể hiện trong các sinh hoạt cộng đồng
mang đặc trưng của một nền văn minh nông nghiệp. Hơn thế, làng Bá
Giang lại ở vị trí “Nhất cận thị, nhị cận giang”, nhờ con sông - huyết
mạch của giao thơng đường thủy, xi xuống kinh đơ. Có chợ Bá là nơi
giao lưu trao đổi hàng hóa. Đó là những thế mạnh để khai thác toàn diện
về kinh tế nơng nghiệp, thủ cơng nghiệp và thương nghiệp. Vì vậy đã chi
phối đến đời sống vật chất và có vai trò trọng yếu trong đời sống tinh thần
của cư dân làng Bá Giang.
Với tinh thần cộng cảm, giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt, các tổ chức
xã hội trong làng tạo nên sức ạnh gắn kết chặt chẽ, tuân thủ chính sách
pháp luật của nhà nước, thực hiện đúng với quy ước xây dựng làng văn
hóa. Đó cũng là những đơn vị chính và lực lượng tham gia lễ hội truyền
thống của làng.
2.2. Diễn trình phát triển xây dựng và quá trình tồn tại miếu
Châu Trần, Đình Bá Giang - Thành Hoàng Làng - xã Hồng Hà
2.2.1. Lịch sử xây dựng miếu Châu Trần và q trình tồn tại
Để có được một lễ hội truyền thống tồn tại đến ngày nay, nhát thiết
đã có một khơng gian văn hóa diễn ra lễ hội ấy. Không gian lễ hội bao
gồm cả hai khơng gian thực và khơng gian huyền thoại. Nói như thuật ngữ
di sản văn hóa hiện nay là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Khơng gian chính của lễ hội thả diều làng Bá Giang là Đình Bá
Giang và miếu Châu Trần. Đình là nơi lễ trình thành Hồng Làng, Miếu là
nơi trình diều, diều thì không gian mở rộng ra cả hai khu vực xung quanh:
Đồng lúa, bãi đê, đường làng từ đình đến chùa và các đường xóm, bến
sơng.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
Miếu Châu Trần thờ bản thổ có một vị trí rất quan trọng nằm ở giữa
làng cách Đình Bá Giang khoảng 300m thuộc xóm đất Cầu Gạch. Ngày
xưa, miếu ở ngoài đê gần với chùa Già Lê cịn có tên là Miếu Ngoại, xung
quanh cây cỏ mọc xanh rờn. Do bị ngập lụt, nhân dân di chuyển miếu vào
dựng ở đây. Về tín ngưỡng, miếu thờ vị thổ cơng của xóm, phụ cận với
đình, vị thần linh được nhân dân tơn kính. Đối với hội diều, sân miếu là
nơi tập kết diều, trình diều, chấm diều và trao giải thưởng của hội diều
hàng năm, là nơi lưu giữ những cánh diều đạt giải cao.
Miếu Châu Trần kiến trúc chữ đinh (T), phía ngồi là ngơi nhà 5
gian dài 9m, tường hồi bít đốc, mặt trước hướng phía Tây (cùng hướng
với Đình), phía trong là nhà hậu cung. Hoành phi ghi 3 chữ: “Trung - Tú Khí” nghĩa là khí thiêng hun đúc. Phía trong có long ngai bài vị có 4 chữ:
“Thổ - Hữu- Tai - Kính” nghĩa là: Kính trọng thay vị thổ công nơi này
(Xem ảnh ở phần phụ lục).
Trong Miếu Châu Trần cịn có hương án thờ được làm vào thế kỷ
XIX, hai bộ bát tửu và binh khí như quả chùy, thanh kiếm… được nghệ
nhân chạm khắc tinh xảo.
Miếu Châu Trần thờ bản thổ tuy không lớn nhưng cúng hội đủ các
yếu tố của một di tích cổ. Có hậu cung thâm nghiêm với đủ đồ thờ tự.
Long ngai bài vị còn nguyên vẹn của nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ
XIX. Hồnh phi câu đối có nội dung sâu sắc ngợi ca cơng trạng của vị
thần được nhân hóa từ thần châu thổ. 5 gian nhà phía ngồi như một tòa
đại bái đường cao rão, sáng sủa rất thuận tiện cho việc hành lễ. Đồng thời
là nơi làm các thủ tục tâm linh của hội thi thả diều như trình diều, khám
diều, trao giải thưởng và lễ tạ của những người được giải thưởng và lễ tạ
của những người được giải thưởng hội diều.
Trước cửa Miếu là sân rộng rãi có tường bao xung quanh. Xa là
cánh đồng lúa với khơng gian, cây xanh, cảnh trí của thơn làng. Khi lễ hội
thả diều, khu vực miếu trở nên nhộn nhịp và vui thú. Có thể ghi nhận vị
trí cảnh quan của Miếu Châu Trần nằm trong tổng thể của khu vực thả
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
diều nhất thiết phải có khơng gian rộng thống, liên kết để diều lên xuống
dễ dàng, thuận tiện. Mặt khác, yếu tố tâm linh phù trợ của tướng quân
Nguyễn Cả và thần bản thổ cùng với khí thiêng của trời đất làm cho lịng
người thêm thành kính, ngưỡng mộ.
2.3. Những giá trị văn hóa nghệ thuật của di lích
2.3.1. Giá trị về kiến trúc
Đình Bá giang tọa lạc trên một khu đất đẹp ở rìa làng. Phía trước
mặt là ruộng lúa, bờ mương, thống đãng, một hồ nước rộng phía tay phải
cửa đình, phía trái cách một xóm là Miếu Châu Trần bản thỏ. Đường
chính của làng rộng rãi vịng qua cửa đình. Rất thuận tiện cho việc đi lại
sinh hoạt cộng đồng và mở hội truyền thống hàng năm. Xung quanh làng
lại có con đê sơng Hồng bao bọc phía Đơng và phía Bắc, là điều kiện để
hội thả diều dễ thực hiện.
Trước hết, đình làng Bá Giang là một cơng trình kiến trúc tơn giáo
tín ngưỡng của một làng q cổ. Nằm trên một vùng đất có bề dày lịch sử
hàng ngàn năm. Ngơi đình trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng, nơi cộng cảm của một cộng đồng cư dân từ bao đời nay. Ngơi
đình ngày nay là nơi duy nhất tưởng niệm, nơi tôn thờ một nhân vật lịch
sử - Một khai quốc công thần thời nhà Đinh, một vị tướng kiệt xuất có
nhiều cơng lao đóng góp giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân mở ra
một kỷ nguyên mới cho dân tộc - Kỷ ngun độc lập thống nhất. Nguyễn
Cả cịn là người có nhiều đóng góp, gắn bó với nhân dân địa phương. Ông
đã trở thành vị thần thành Hoàng của làng - Vị thần bảo hộ cho cuộc sống
thanh bình ấm no hạnh phúc của nhân dân địa phương.
Cũng vì những giá trị văn hóa truyền thống ấy, Đình Bá Giang là
khơng gian lý tưởng cho sự tồn tại và phát triển nét đẹp của lễ hội thả
diều gắn chặt với lao động của ngơi đình.
2.3.2. Giá trị về đời sống tín ngưỡng
Trong đời sống tín ngưỡng phong tục ở Bá Giang phải kể đến một
mảng quan trọng của dân làng đó là tục thờ cúng tổ tiên ở các gia đình,
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
rồi đến các dòng họ, rộng ra là thờ thần đất, thần sông. Đối với tổ tiên,
người dân ở đây nhà nào cũng dành vị trí quan trọng nhất ở gian giữa của
ngơi nhà ba gian hoặc vị trí đẹp của ngơi nhà nhỏ để lập bàn thờ tổ tiên.
trong làng cịn có một số ngơi nhà đại khoa có niên đại từ đầu thế kỷ
trước, (thế kỷ 20) khoảng trên dưới 100 năm như nhà ơng Phạm Văn Đạt,
Phạm Đức Chính, Phạm Văn Hiền… kiến trúc nhà được làm bằng gỗ q
có bức bàn. Bàn thờ tổ tiên có bài vị, hương án, hồnh phi câu đối. Những
gia đình bình thường thì lập bàn thờ phía trong, ngồi đặt tủ chè trang trí.
Bát hương chính thờ tổ tiên được đặt ở trong nhà hoặc có gia đình xây cây
hương riêng ở ngồi sân.
Tín ngưỡng phong tục và lễ hội dân gian truyền thống ở làng Bá
Giang thật đa dạng nó cũng mang đậm nét đặc trưng chung của tín
ngưỡng dân gian người Việt, đó là sự hịa đồng giữa tín ngưỡng bản địa
và tín ngưỡng tơn giáo xâm nhập từ bên ngồi, tạo nên một nét đẹp của
văn hóa tín ngưỡng ở đây. Dù là thờ tổ tiên, thờ người có cơng với làng,
thờ thành Hoàng làng hay thờ Phật… mọi người đều có một niềm tin
chung là có một mối liên hệ giữa con người và các nhân vật được thờ, với
các thần linh ln hiện diện ở đâu đó bên cạnh con người, số phận con
người tùy thuộc vào sự chi phối đó, bởi vậy họ thờ cũng và thực hiện các
nghi lễ một cách rất thành kính. Cùng với hệ tư tưởng của các dòng họ
Nho - Phật - Lão tạo nên một nét đẹp của văn hóa tín ngưỡng tôn giáo dân
gian ở đây. Hội làng rước lễ, rước mã lên chầu vừa lễ Phật vừa lễ thần
(Phối thờ). Người làng vừa đi lễ chùa, lễ phật vừa lễ thành Hồng làng.
Rồi lễ tổ tiên, tưởng nhớ người có cơng với làng, với nước. Họ có một
niềm tin tưởng, thành kính giữa mối quan hệ của con người hiện tại và các
thần linh được thờ. Từ tín ngưỡng tạo thành các phong tục tốt đẹp mà tiêu
biểu là sự đoàn kết cộng đồng, tục rước nước, rước bánh dày đều đặn
hàng năm đến đỉnh cao là Hội thả diều dân gian truyền thống, duy trì từ
nhiều đời nay - Một lễ hội đặc sắc của cư dân nông nghiệp của đồng bằng
Bắc bộ.
Website: Email :
Tel : 0918.775.368
2.4. Lễ hội thả diều truyền thống làng Bá Giang xã Hồng Hà
huyện Đan Phượng - tỉnh Hà Tây
2.4.1. Lịch sử và truyền thuyết của lễ hội thả diều làng Bá Giang
Để hiểu biết thấu đáo một lễ hội đặc sắc đã trở thành phong tục
truyền thống, hấp dẫn được nhiều thế hệ duy trì và phát triển như hội thả
diều làng Bá Giang, trước hết phải tìm hiểu kỹ về nguồn gốc tạo thành từ
xa xưa theo các truyền thuyết lưu truyền trong dân gian.
Truyền thuyết thứ nhất: Tưởng nhớ công trạng của vị Thành Hồng
làng được thờ ở Đình Bá Giang: Vị Thành Hoàng làng là đại tướng quân
Nguyễn Cả là người con sinh ra từ quê hương ấp Bá. Ông sinh ra từ một
cuộc giao hoan giữa bà mẹ và Hầu Cơng (con khỉ), ở một hịn đá xanh
trên gị đất đầu làng. Lớn lên ông chiêu mộ quân sĩ theo Đinh thiên Hoàng
thu phục 12 xứ quân, thu giang sơn về một mối. Rồi ông được trọng dụng
làm quan ở triều nhà Đinh. Triều nhà Đinh suy thoái, tiếp tục xây dựng ấp
Bá thịnh giầu. Khi rảnh rỗi, ông bày trò chơi thả diều cùng trẻ mục đồng
vui thú cảnh điền viên thôn dã. Rồi một ngày kia, bỗng nhiên trời đất nổi
phong ba bão táp, mưa gióa mịt mùng, ông đứng trên hòn đá phẳng như
sàn gỗ, hòn đá từ từ nâng ông lên không trung bay về trời. Dân làng Bá
kéo ra nhớ tiếc ơng ngóng lên trời cao, nhìn hịn đá nhỏ dần như một cánh
diều lơ lửng rồi biến mất giữa tầng không. Xung quanh tỏa ra muôn ánh
sao vàng rực rỡ.
Từ đây, nhân dân trong làng hình dung ra những cánh diều bay lơ
lửng giữa trời mây như hình ảnh thiêng liêng của vị phúc thần Nguyên Cả.
Bởi thế hàng năm cứ đến ngày hóa của ông (15 tháng 3 âm lịch), là làng
lại mở hội thả diều để tưởng nhớ đến ông. Sau phần lễ trang nghiêm, thả
diều hầu thánh đã trở thành tâm thức của mọi người.
Truyền thuyết thứ 2: Gắn với sự tích của ngơi Miếu Châu Trần, thờ
thần bản thổ theo nội dung bảng thần tích do Hàn Lâm Viện đại học sĩ
Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), còn lưu giữ trong