Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

GIẢ THUYẾT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN THỜI KỲ HÙNG VƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.21 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
GIẢ THUYẾT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
THỜI KỲ HÙNG VƯƠNG
LỜI MỞ ĐẦU
Văn học dân gian là tiếng nói của nhân dân, nó là một thứ văn
chương bình dị, dễ hiểu. Do người xưa chưa có chữ viết nên văn học dân
gian thường được truyền miệng từ đời này sang đời khác. Khi đã có chữ
viết nó được ghi chép lại nhưng việc truyền miệng văn học dân gian vẫn
rất phổ biến. Bằng chứng là ngày nay vẫn còn những truyền thuyết lưu lại
trong dân gian như truyền thuyêt về Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền
thuyết Thánh Gióng, Sọ Dừa, v.v… Điều đó cho thấy việc hình thành văn
học dân gian đã có từ rất sớm cũng như đời sống văn học dân gian rất
phong phú và đa dạng. Theo những tài liệu sử còn ghi chép lại, văn học
dân gian hình thành rất sớm ở thời kì Hùng Vương cách đây mấy nghìn
năm. Và trải qua hàng nghìn năm đô hộ, đồng hoá của phong kiến phương
Bắc những giá trị truyền thống của thời kỳ Hùng Vương vẫn còn được
giàn giữ cho đến ngày nay.
Về truyền thuyết, thời kỳ Hùng Vương được hình thành do câu
chuyện về Lạc Long Quân và Âu Cơ. Âu Cơ vốn là con gái Thần Nông
xinh đẹp tuyệt trần, còn Lạc Long Quân là con của Long Vương, khôi ngô
tuấn tú. Hai người gặp nhau và kết nghĩa vợ chồng. Ngày tháng qua đi,
Âu Cơ sinh được một bọc trứng nở ra trăm người con trai, con nào con
nấy hồng hào, đẹp đẽ. Sống mãi trên bờ, Lạc Long Quân không nguôi nhớ
quê hương dưới biển liền bàn với Âu Cơ chia các con ra sinh sống: 50
người con theo Âu Cơ lên núi, 50 người con theo Lạc Long Quân xuống
biển. Ở trên bờ, người con cả được suy tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng
Vương, lập ra nhà nước Văn Lang. Theo sử xưa còn ghi thì “Lĩnh Nam
Chích Quái”; Âu Cơ và 50 người con lên ở đất Phong Châu, suy phục lẫn
nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên
nước Văn Lang, đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hồ, nam tới nước Hồ Tôn (hay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ:
(…) chia các em ra cai trị…”.
Trong “Đại Việt sử lược” có viết: “Đến đời Trang Vương nhà Chu
(698 - 682 Trước Công Nguyên) ở Bộ Gia Ninh có người lạ thường, dùng
ảo thuật phục được các bộ lạc tự xưng là Hùng Vương, đóng ở Văn Lang,
hiệu nước là Văn Lang… Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”.
I. TỔNG QUAN VỀ THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG
Có thể nói, căn cứ vào tài liệu trên, thời kì Hùng Vương là thời kỳ
sớm nhất của văn học dân gian Việt Nam. Ở thời kì này, nhà nước Văn
Lang đã đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế, văn hoá-xã hội.
Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên của Việt Nam. Thực chất nhà
nước Văn Lang được hình thành từ các bộ lạc (hay còn gọi là tộc người).
Các bộ lạc này sống tương đối gần gũi nhau về mặt không gian. Do quan
hệ gần gũi, các tộc người đó có nhiều điểm chung về ngôn ngữ và văn
hoá. Sau khi đã thống nhất thành nước Văn Lang, các tộc người này có
không gian sống rất gần nhau. Trong đó tộc người do Hùng Vương cai trị
là tộc người đứng đầu. Theo sử sách các vùng đất thuộc phạm vi các tỉnh
Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, một phần Hà Nội, Hà Bắc (cũ) và Tuyên
Quang ngày nay chính là địa phận của nhà nước Văn Lang xưa. Các nhà
sử học, khảo cổ học bây giờ tìm được rất nhiều di chỉ về thời kỳ Hùng
Vương phản ánh cuộc sống nhân dân trong thời kỳ này.
Ngay từ thời Văn Lang, cư dân đã tập trung rất đông đúc ở các vùng
Đồng Bằng, ngày nay vùng đó thuộc Đồng Bằng Bắc Bộ. Tuy rằng không
có sử sách nào ghi chép về số dân này nhưng các nhà khảo cổ học đã tìm
thấy rất nhiều hiện vật ở di chỉ Đồng Đậu (gần thị xã Phúc Yên - Tỉnh
Vĩnh Phúc). Các bộ lạc dưới sự lãnh đạo của Hùng Vương cùng đoàn kết
chống ngoại xâm. Đồng thời, nhân dân cũng trao đổi kinh nghiệm, học hỏi
nhau để phát triển kinh tế.
Nền kinh tế của nhà nước Văn Lang thời ấy rất phát triển và đạt

được trình độ nhất định. Người dân Văn Lang đã biết dùng cày, biết luyện
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kim, biết làm đồ gốm và có quan hệ mậu dịch với nước ngoài. Trong hai
thời kì của kinh tế Văn Lang là văn hoá Phùng Nguyên và văn hoá Đông
Sơn thì ở thời văn hoá Đông Sơn kinh tế Văn Lang phát triển nhất. Có thể
coi thời kì văn hoá Đông Sơn là cực thịnh của thời đại Hùng Vương .
Vùng Bắc Bộ và Bắc Trung bộ có địa hình tương đối bằng phẳng lại
có nhiều sông ngòi: Sông Hồng, sông Mã. Dân cư tập trung đông đúc và
sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Do có nhiều sông ngòi nên lượng
phù sa bồi đắp hàng năm lớn. Đất đai phì nhiêu, màu mỡ rất thuận lợi cho
việc cấy lúa. Nghề trồng lúa nước trở lên phổ biến và cư dân Văn Lang đã
tìm thấy ở đây một nguồn lương thực dồi dào. Xen kẽ với các vụ lúa, cư
dân Văn Lang còn biết trồng khoai lấy củ, trồng đậu, dưa hấu, họ còn biết
trồng dâu nuôi tằm và trồng bông lấy sợi. Truyền thuyết xưa kể lại hoàng
tử Lang Liêu đã biết dùng hạt gạo để nấu thành bánh chưng, bánh giầy
tượng trưng cho trời và đất dâng vua. Mai An Tiêm đã phát hiện ra dưa
hấu và dùng dưa hấu để trao đổi hàng hoá. Không chỉ biết trồng trọt, cư
dân Văn Lang còn biết chăn nuôi. Trâu, bò, chó, gà, vịt đã được thuần
dưỡng và chăn nuôi theo hộ gia đình. Ngay từ thời văn hoá Phùng Nguyên
đã xuất hiện nghề đánh cá và đến thời kì văn hoá Đông Sơn cư dân Văn
Lang đã biết đóng thuyền lớn để phục vụ nghề đánh cá và giao thông.
Cũng trong thời kì này các công cụ lao động đã được chế tác công phu
hơn thời trước. Người ta tìm thấy rất nhiều công cụ lao động ở các di chỉ;
các công cụ chặt thô sơ như rìu tay, nạo ở núi Đọ (Thanh Hoá) và rất
nhiều rìu đồng, khuôn đúc dìu, mũi tên đồng ở giai đoạn Đồng Đậu. Các
lưới câu đồng, lưỡi liềm đồng ở giai đoạn Gò Mun. ở thời đại Hùng
Vương, cư dân còn chế tạo được công cụ bằng sắt: Lưỡi mai sắt, cuốc sắt.
Họ còn biết chế ra nhiều đồ dùng, đồ đun bằng gốm và bằng đồng. Điều
đó chứng tỏ ở thời kì Hùng Vương thương nghiệp đã phát triển. Họ tìm

thấy nhiều đồ vật ở thời kì này như: Vò, bình, thấy ở Thiệu Dương, Đông
Sơn; Bình, âu, lọ thấy ở Việt Khê, Đào Thịnh, Tháp đồng ở Đào Thịnh,
Đông Sơn, Việt Khê; Thố đồn thấy ở Việt Khê, Thiệu Dương.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Do xã hội Văn Lang thời ấy phát triển mạnh nghề trồng lúa nước,
điều đó gắn liền với công việc trị thuỷ. Vùng này có nhiều con sông lớn
như sông Hồng, sông Mã… nên muốn phát triển nông nghiệp ở đây phải
biết chế ngự các con sông. Truyền thuyết về “Sơn Tinh” đánh thắng
“Thuỷ Tinh” là một trong những truyền thuyết nói về công việc này. Hàng
năm nhân dân Văn Lang đã biết đắp đê phòng lụt và đào các mương máng
giúp việc tưới tiêu cho cây trồng.
Nông nghiệp phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển của thủ công
nghiệp. Trước hết là nghề luyện đồng và chế tạo đồ đồng. Theo “Dư Địa
Chí” của Nguyễn Trãi dẫn sách “Bản Quốc Sản Xứ Kí” cho biết nhiều
vùng miền Bắc có các mỏ khoáng sản: Vàng, chì, bạc, sắt, đồng…”, lại
chó nhiều mỏ lộ thiên dễ khai thác… Nhờ đó cư dân Văn Lang đã sáng
tạo ra một nền văn hoá đồ đồng rực rỡ. Cư dân Văn Lang dùng đồng để
sản xuất ra các công cụ sản xuất và các loại vũ khí,…
Ngày nay có thể tìm thấy nhiều các hiện vật đồng ở các di chỉ thuộc
các tỉnh từ Lạng Sơn đến Hà Tĩnh, Quảng Bình, … Hàng loạt các nông cụ
được tìm thấy (lưỡi cày, liềm, rìu), nhiều vũ khí lợi hại như: Dao găm,
vòng tay, nhẫn…) , nhiều dụng cụ âm nhạc bằng đồng (như chuông, kèn,
và đặc biệt là trống đồng được chế tạo rất công phu), các tác phẩm nghệ
thuật (tượng người, chim, thú…). Tất cả những dẫn chứng trên khẳng định
rằng ở thời Hùng Vương đồ đồng rất phát triển, với nhiều hình thức phong
phú và đa dạng.
Tiếp đó là nghề luyện sắt. Cư dân ở đây đã rèn được những lưỡi
giáo, kiếm sắt… Nghề rèn được phát triển mạnh mẽ.
Nghề gốm đặc biệt phát triển. Ngay từ thời văn hoá Phùng Nguyên,

nghề gốm đã được hình thành và phát triển. Nhiều đồ dùng và đồ đun nấu
ra đời, có những văn hoá khá đặc sắc. Đến thời văn hoá Đông Sơn, đồ
gốm cực phát triển. Họ biết dùng bàn xoay để nặn đồ gốm và dùng men
tráng, kèm theo đó là những hoa văn được các nghệ nhân thể hiện một
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cách tinh xảo. Các hình ảnh đó hầu hết là các hoa văn và các hình ảnh
sinh sống cũng như phong cảnh quê hương.
Nghề đồ đá cũng phát triển đến trình độ hoàn mỹ ngay từ thời văn
hoá Phùng Nguyên.
Ngoài ra, các nghề khác cũng phát triển. Đồ gỗ, nghề sơn có những
bước phát triển dài. Nghề xe sợi, dệt vải đã có từ thời Phùng Nguyên với
nhiều nguyên liệu phong phú có từ việc trồng bông, đay, gai. Trên vải dệt
có rất nhiều hoa văn phong phú. Nghề đan lát cũng phát triển với nhiều đồ
dùng hàng ngày.
Thương nghiệp đã phát triển từ trước thời đại Hùng Vương, trên
miền đất sau này là nhà nước Văn Lang, giữa các khu vực đã có sự trao
đổi kinh tế và giao lưu văn hoá. Ở các vùng miền gần nhau, cư dân có
thuận lợi về giao thông nên họ trao đổi với nhau những sản phẩm của
nông nghiệp, thủ công nghiệp. Ở nơi đây dân cư phát triển cả về kinh tế
và văn hoá.
Ở xã hội Văn Lang, Nhà nước Văn Lang là nhà nước có giai cấp
nhưng ở đây chưa có bóc lột. Cư dân sống hoà thuận, an vui. Các sử gia
trước đây cho rằng gia đình thời Hùng Vương là gia đình phụ hệ. Các bộ
sử đều ghi rằng: Đứng đầu nhà nước Văn Lang là vua Hùng, dưới Vua là
các Lạc hầu, Lạc tướng, “Con trai Vua gọi là Quan Lang, con gái Vua gọi
là Mệ nang (hay Mỵ Nương) cứ đời nọ đến đời kia cha truyền cho con gọi
phụ đạo” (Ngô Sĩ Liên - Đại Việt sử kí toàn thư).
Sự phát triển về kinh tế - xã hội của cư dân Văn Lang ảnh hưởng rất
sâu sắc tới văn hoá của họ. Văn hoá ở thời đại Hùng Vương phát triển rất

phong phú và đa dạng. Nhiều nét văn hoá mang đậm màu sắc của cư sân
sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Cho đến ngày nay, nhân dân
ta vẫn giữ được nhiều nét văn hoá có từ thời kì Hùng Vương như : Tục
thờ tổ tiên, cúng lễ,… Văn hoá ở thời kì Hùng Vương phát triển một cách
toàn diện: Cả văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và đặc biệt là văn hoá tinh
thần.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Từ trước khi có nhà nước Văn Lang, cư dân ở đây đã đến sinh sống
ở các đỉnh, gò, sườn đồi, chân núi và doi đất cạnh nơi canh tác, săn bắn và
cạnh nguồn nước: Sông ngòi, suối,… Để tránh thú dữ cư dân ở đây đã biết
dựng những ván gỗ vao bao bọc, những hàng rào tre. Khi phải đối mặt với
nhiều nguy hiểm, như vậy họ bắt đầu biết làm nhà sàn. Đây là một thành
tựu sáng tạo độc đáo của cư dân Văn Lang. Ngôi nhà được dựng trên
những cột chống đỡ, có cầu thang bước lên nhằm tránh thú dữ. Ở phía
dưới dùng để chăn nuôi lợn, gà, vịt. Xung quanh khu vực này có rào chắn
bảo vệ. Họ không ở rải rác mà quần tụ sát liền nhau thành các chòm xóm,
các khu dân cư. Sự gắn bó đó phản ánh sự liên kết chặt chẽ của dân cư,
phản ánh tính tập thể và phương thức sống định canh, định cư. Ở đây thấy
rõ tính đoàn kết trong cuộc sống, trong lao động của dân cư.
Ở thời kì Hùng Vương, cư dân Văn Lang có tư duy thẩm mỹ khá
cao về trang phục. Đầu tóc của cư dân Văn Lang chủ yếu là tóc ngắn hoặc
tóc búi, không tết buộc. Quần áo là một thứ trang phục đặc sắc: Phụ nữ ở
tầng lớp trên mới mặc đủ bộ xống áo có nhiều lớp bao gồm: Yếm, thắt
lưng, áo xẻ ngực và váy; Người nam chủ yếu là đóng khố. Ở thời kỳ này,
cư dân Văn Lang rất ưa sử dụng các đồ trang sức. Phụ nữ thường dùng
vòng tay, vành khăn, hạt chuỗi, khuyên tai…, nam giới thường dùng vòng
cổ, vòng chân,… Những đồ trang sức này chủ yếu được làm bằng đá,
đồng, nó làm bằng ngọc nhưng rất ít. Kỹ thuật làm đồ trang sức rất tinh
xảo với nhiều hình dáng, kiểu dáng phong phú thể hiện khiếu thẩm mĩ

tinh tế của người dân.
Ẩm thực ở thời kì Hùng Vương cũng có những phát triển. Cư dân
Hùng Vương dùng thực phẩm chủ yếu là thóc gạo. Và từ thóc gạo họ đã
biết chế biến thành các loại bánh: Bánh chưng, bánh giầy và một số món
ăn khác. Họ đã có được một số loại hoa quả: Chuối, dưa hấu,… Đời sống
ẩm thực phong phú và ngày càng có nhiều những món ăn cổ truyền.
Cùng với sự phát triển của các nghề thủ công, đồ dùng của cư dân
Văn Lang cũng rất phong phú: Nồi đất, giỏ tre, nứa, nồi đồng,…
6

×