Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO SCAMPER TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỆ ĐIỀU HÀNH WINDOWS CỦA MICROSOFT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 41 trang )

BÀI THU HOẠCH
Môn học:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC
Chủ đề:
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO
SCAMPER
TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
HỆ ĐIỀU HÀNH WINDOWS CỦA MICROSOFT
Giảng viên : GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm
Học viên : Trần Cảnh Khánh
Mã số HV : CH1301093
Tháng 04 năm 2014
BÀI THU HOẠCH
Môn học:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC
Chủ đề:
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO
SCAMPER
TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
HỆ ĐIỀU HÀNH WINDOWS CỦA MICROSOFT
Giảng viên : GS.TSKH. Hoàng Văn Kiếm
Học viên : Trần Cảnh Khánh
Mã số HV : CH1301093
Lớp : CH08
Tháng 04 năm 2014
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
LỜI NÓI ĐẦU
o0o
Ngày nay, hệ điều hành đã trở thành một thứ cần thiết cho người sử dụng máy tính.
Chúng ta có thể thấy các hệ điều hành được sử dụng ở khắp mọi nơi, trong các thiết bị máy
tính để bàn, laptop cho đến các hệ điều hành ở trên điện thoại, tablet.


Nhắc đến “hệ điều hành” là chúng ta liên tưởng ngay đến hệ điều hành Windows của
Microsoft - một hệ điều hành đơn giản, gần gũi với người sử dụng ở Việt Nam cũng như
trên thế giới. Windows đã trở thành một hệ điều hành được sử dụng rộng rãi trên thế giới
khi cứ 10 chiếc máy tính lại có 9 chiếc máy tính sử dụng Windows. Sự thành công của hệ
điều hành này không chỉ đưa tên tuổi của Microsoft lên vị trí hàng đầu thế giới mà còn giúp
nhà sáng lập Bill Gates trở thành một trong những người giàu nhất hành tinh
Là một nhà quản trị mạng, lần đầu tiên làm quen với phiên bản Window Server 2003
tôi đã bị cuốn hút thật sử bởi khả năng đơn giản, dễ sử dụng, dễ cấu hình so với các hệ điều
hành của các hãng khác. Với màn hình desktop đơn giản, kết hợp vào các lệnh, hỗ trợ nhiều
tính năng đa dạng, khả năng bảo mật cao, Windows giúp tôi xây dựng các hệ thống đảm
bảo khả năng dự phòng, tính cân bằng tải, khả năng đáp ứng SPLA ở mức thấp nhất. Trải
nghiệm qua nhiều phiên bản thực nghiệm, những tính năng mới được bổ sung, cảm xúc của
tôi đã dần thay đổi: từ tò mò, khám phá cho đến thích thú, đam mê, sáng tạo cùng với hệ
điều hành này. Trong suy nghĩ của tôi và nhiều người, Windows ra đời phiên bản cao hơn
để bổ sung những tính năng mới, bảo mật hơn, cập nhật các bản vá mà các phiên bản trước
chưa đáp ứng được nâng cấp các hiệu ứng một đẹp hơn để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của
mọi đối tượng
Thế nhưng, với môn học đầu tiên “Phương pháp nghiên cứu khoa học trong tin
học” của khóa học Thạc Sĩ CNTT – Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin, do Giáo sư
Tiến sĩ Khoa học HOÀNG VĂN KIẾM giảng dạy, tôi đã thấu hiểu và có một cái nhìn sâu
sắc hơn. Với những kiến thức, kinh nghiệm lĩnh hội từ Thầy, tôi nhận thức được mỗi thay
đổi, mỗi tính năng mới ra đời của Windows nói riêng và của một sản phẩm nói chung là
thành quả của cả một tập thể những nhà nghiên cứu, phát triển ứng dụng đầy tâm huyết,
giàu kinh nghiệm và ý tưởng sáng tạo. Với bài học “Phương pháp giải quyết vấn đề theo
khoa học về phát minh, sáng chế” của Thầy, tôi đã nhận ra việc ứng dụng 40 nguyên lý
sáng tạo cơ bản TRIZ, cũng như 7 phép sáng tạo SCAMPER trong việc xây dựng và phát
triển hệ điều hành Windows qua các phiên bản.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Trong bài thu hoạch này, tôi xin trình bày những hiểu biết của mình về việc ứng dụng

phương pháp sáng tạo SCAMPER trong việc xây dựng và phát triển hệ điều hành
Microsoft, minh họa cụ thể 7 phép sáng tạo được ứng dụng trong quá trình nâng cấp lên
phiên bản mới nhất Windows 8 cho người dùng cuối và Windows Server 2012 cho các máy
chủ.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy - Giáo sư Tiến sĩ Khoa học HOÀNG VĂN KIẾM.
Những tiết giảng quý báu của Thầy đã giúp tôi hiểu và trân trọng những đóng góp to lớn,
khả năng sáng tạo vĩ đại của một tập thể những nhà nghiên cứu, phát triển ứng dụng từ một
phần mềm vốn rất quen thuộc. Từ đó, tôi tự tin áp dụng các phương pháp sáng tạo trong
việc cũng như tạo ra các sản phẩm sáng tạo từ những nguyên tắc sáng tạo đã được học.
Học Viên Cao Học Khóa 8
TRẦN CẢNH KHÁNH
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
MỤC LỤC
o0o
Học viên: TRẦN THỊ HỒNG YẾN – CH1201150
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
CHƯƠNG 1 LỊCH SỬ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỆ ĐIỀU HÀNH
WINDOWS
1.1 Tác giả phần mềm
Hình 1.1 Bill Gates nhà sáng lập Microsoft
Bill Gates sinh ra ở Seattle, Washington, bố là William H. Gates, Sr. và mẹ Maxwell Gates, là
những người gốc Anh, Đức và Scotland-Ailen. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình khá giả; bố
ông là một luật sư có tiếng, mẹ ông thuộc ban giám đốc của công ty tài chính First Interstate
BancSystem và United Way of America, và ông ngoại ông, J. W. Maxwell là chủ tịch của một ngân
hàng liên bang. Gates có chị gái Kristi (Kristianne), và một em gái là Libby.
Năm 13 tuổi, ông vào học trường Lakeside, một trường dự bị cho các học sinh giỏi. Khi ông
học lớp 8, câu lạc bộ các bà mẹ ở trường này đã dùng một khoản tiền nhờ việc bán các đồ dùng đã
qua sử dụng để mua một máy đánh chữ cơ điện Model 33 ASR và một máy tính của hãng General
Electric (GE) cho các học sinh của trường. Bill Gates thấy thích thú khi lập trình trên máy tính của

GE bằng ngôn ngữ BASIC, và ông đã bỏ các lớp toán để theo đuổi sở thích của mình. Ông đã viết
chương trình đầu tiên trên máy tính này đó là các thao tác của trò chơi tic-tac-toe cho phép người
chơi thi đấu với máy tính. Chiếc máy đã thu hút Bill Gates và tự đặt câu hỏi làm sao mà chiếc máy
có thể luôn luôn thực thi các mã phần mềm một cách hoàn hảo như vậy. Khi ông nhớ lại thời điểm
này, ông nói, "Chỉ cần một cái gì đó rõ ràng cho chiếc máy". Khi quỹ của hội phụ huynh đã hết,
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 6
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
ông và các học sinh khác chuyển sang các hệ máy khác bao gồm máy tính mini PDP của hãng
DEC. Hãng Computer Center Corporation (CCC) sáng chế ra PDP-10 đã cấm bốn học sinh trường
Lakeside bao gồm Bill Gates, Paul Allen, Ric Weiland, và Kent Evans sử dụng hệ máy tính này
trong mùa hè sau khi bốn người này đã khai thác các lỗi trong hệ điều hành để nhận được thêm
thời gian sử dụng hệ máy tính này.
Khi hết hạn cấm, bốn học sinh đề nghị với công ty CCC là họ sẽ tìm các lỗi trong phần mềm
của CCC và đổi lại họ được sử dụng các máy tính của công ty này. Thay vì sử dụng các hệ thống
thông qua điện báo, Bill Gates đã đến văn phòng CCC và nghiên cứu mã nguồn cho các chương
trình khác nhau chạy trên hệ thống, bao gồm cả chương trình trong FORTRAN, LISP, và ngôn ngữ
máy. Việc thỏa thuận với CCC bị kết thúc vào năm 1970, khi công ty này bị phá sản. Một năm sau,
Information Sciences, Inc. đã thuê bốn học sinh trường Lakeside để viết một chương trình trả
lương bằng ngôn ngữ COBOL, cho phép họ có thời gian sử dụng máy tính và bản quyền phần mềm
của công ty. Sau khi những người quản lý ở trường biết được khả năng lập trình của ông, Bill Gates
đã được giao nhiệm vụ viết một chương trình lập thời khóa biểu cho các lớp học. Ông đã sửa các
mã sao cho chương trình sắp xếp ông vào các lớp có nhiều nữ sinh nhất. Sau này ông nhận xét
"thật khó có thể tách tôi ra khỏi máy tính mà rõ ràng tôi có thể chứng minh sự thành công từ nó".
Lúc 17 tuổi, Bill Gates lập kế hoạch kinh doanh với Allen đó là Traf-O-Data nhằm đếm lưu lượng
giao thông dựa trên bộ xử lý Intel 8008.
Bill Gates tốt nghiệp trường Lakeside vào năm 1973. Ông đạt được 1590 trên 1600 điểm ở kỳ
thi SAT và ghi danh vào Đại học Harvard trong mùa thu năm 1973. Khi học ở Harvard, ông đã
quen Steve Ballmer, người sau này kế vị chức CEO của Microsoft.
Trong năm học thứ hai, Gates nghĩ ra thuật toán trong vấn đề sắp xếp bánh kếp, bài toán được
xếp vào một trong những vấn đề chưa giải được được nêu ra trong lớp toán tổ hợp của giáo sư

Harry Lewis, một trong những người thầy của ông. Thuật toán của Bill Gates đã giữ kỉ lục là thuật
toán có thời gian giải nhanh nhất trên 30 năm và thuật toán sau này chỉ nhanh hơn nó khoảng một
phần trăm. Phương pháp của ông sau này được viết thành một bài báo chung với nhà khoa học máy
tính ở Harvard là Christos Papadimitriou.
Gates không có kế hoạch học tập cụ thể ở Harvard và ông đã giành nhiều thời gian bên cạnh
các máy tính ở trường. Ông vẫn liên lạc với Paul Allen, cùng tham gia vào Honeywell trong mùa
hè năm 1974. Vào năm sau, chứng kiến sự ra đời của máy MITS Altair 8800 trên nền vi xử lý Intel
8080, lúc này Gates và Allen nhận ra đây là cơ hội cho họ sáng lập ra một công ty về phần mềm
máy tính. Ông đã nói quyết định này với bố mẹ ông, họ đã ủng hộ ông sau khi thấy được ông sẽ
cần bao nhiêu tiền để bắt đầu lập nghiệp với công ty.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 7
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Sau khi đọc bài báo trên tạp chí Popular Electronics số tháng 1, 1975 về khả năng của máy
Altair 8800, Bill Gates đã liên lạc với công ty đã sáng chế ra chiếc mày này là Micro
Instrumentation and Telemetry Systems (MITS), để công ty này có thể mời ông và những người
khác làm việc với chiếc máy trên nền tảng trình thông dịch BASIC. Thực tế, Bill Gates và Allen đã
không được tiếp xúc với máy Altair và họ đã không viết mã chương trình cho nó; hai người chỉ
muốn thử xem công ty MITS có muốn họ cộng tác hay không. Giám đốc MITS là Ed Roberts đồng
ý cho họ sử dụng phiên bản demo, và chỉ trong vài tuần họ đã phát triển chương trình giả lập máy
Altair chạy trên một máy tính mini, và sau đó là ngôn ngữ BASIC. Cuộc thử nghiệm chiếc máy đã
diễn ra tại trụ sở của MITS ở Albuquerque đã thành công và kết quả là một bản thỏa thuận với
MITS để công ty phân phối trình thông dịch dưới tên gọi Altair BASIC. Paul Allen được mời làm
việc cho MITS và Bill Gates đã không có mặt ở trường Harvard để tới làm việc cùng Allen ở MITS
tại Albuquerque vào tháng 11 năm 1975. Họ đặt tên cho sự hợp tác giữa hai người là "Micro-Soft"
và trụ sở đầu tiên của công ty đặt ở Albuquerque. Cũng trong năm này, dấu gạch ngang đã được bỏ
ra khỏi tên của công ty, và vào ngày 26 tháng 11 năm 1976, thương hiệu "Microsoft" đã được đăng
ký tại Văn phòng bang New Mexico. Do đó mà Bill Gates không thể hoàn thành khóa học tại
Harvard được.
BASIC của Microsoft được phổ biến trong giới đam mê máy tính, nhưng Bill Gates đã phát
hiện ra rằng bản sao chép trước khi phần mềm được đưa ra thị trường đã bị rò rỉ ra cộng đồng và

nhanh chóng nó được sao chép và phân tán. Tháng 2 năm 1976, Gates viết "Lá thư mở đến những
người đam mê máy tính" trong chuyên san của MITS nói rằng MITS không thể tiếp tục sản xuất
phần mềm, phân phối, và duy trì chất lượng cao của phần mềm mà không trả phí cho ông. Lá thư
này không được nhiều người đam mê máy tính biết đến nhưng Gates vẫn khăng khăng tin rằng
công ty phải trả khoản phí do ông đòi hỏi. Microsoft tách ra khỏi MITS vào cuối 1976, công ty tiếp
tục phát triển các ngôn ngữ lập trình cho các hệ máy khác nhau. Ngày 1 tháng 1 năm 1979, công ty
chuyển trụ sở từ Albuquerque đến Bellevue, Washington.
Những năm đầu của Microsoft, mọi nhân viên trong công ty cũng phải kiêm luôn hoạt động
kinh doanh của nó. Bill Gates giám sát khâu kinh doanh đến từng chi tiết, nhưng vẫn tiếp tục tham
gia viết mã chương trình. Trong 5 năm đầu, cá nhân ông thường đánh giá từng dòng lệnh trong các
phần mềm đóng gói của công ty, và thường viết lại từng phần của chúng cho đến khi ông thấy phù
hợp.
Năm 1980, IBM thông qua Microsoft để viết trình thông dịch BASIC cho máy tính cá nhân
sắp được tung ra của họ là máy IBM PC. Khi người đại diện của IBM đề cập đến họ cần một hệ
điều hành trên các máy tính của họ, Gates đã giới thiệu họ với Digital Research (DRI), công ty viết
hệ điều hành CP/M được sử dụng rộng rãi thời đó.Thỏa thuận giữa IBM với Digital Research đạt
được kết quả không như mong đợi, và hai bên đã không đạt đến được thỏa thuận về đăng ký bản
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 8
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
quyền. Đại diện của IBM là Jack Sams nhắc đến sự khó khăn trong vấn đề đăng ký trong cuộc gặp
sau đó giữa ông và Bill Gates và nói với ông về đưa ra một hệ điều hành chấp nhận được. Vài tuần
sau, Gates đề xuất sử dụng 86-DOS (QDOS), một hệ điều hành tương tự như CP/M do Tim
Paterson của hãng Seattle Computer Products (SCP) viết cho các phần cứng có tính năng tương tự
như PC. Microsoft đã thực hiện một thỏa thuận với SCP để trở thành đại lý cấp phép độc quyền, và
sau đó là chủ sở hữu hoàn toàn đối với 86-DOS. Sau khi nâng cấp hệ điều hành cho phù hợp với
PC, Microsoft chuyển giao nó cho IBM với tên gọi PC-DOS với phí một lần trao đổi là $50.000.
Bill Gates không đưa ra khả năng chuyển giao bản quyền của hệ điều hành, bởi vì ông tin rằng các
nhà sản xuất phần cứng khác sẽ sản xuất PC dựa trên dòng máy của IBM. Và đúng là như vậy, nhờ
thị phần lớn của MS-DOS làm cho Microsoft trở thành hãng phần mềm lớn trong công nghiệp
phần mềm.

Bill Gates giám sát quá trình tái cơ cấu Microsoft vào ngày 25 tháng 6 năm 1981, trong đó
kết hợp lại công ty ở tiểu bang Washington và Gates trở thành Chủ tịch và Chủ tịch hội đồng quản
trị của Microsoft.
Microsoft phát hành phiên bản bán lẻ đầu tiên của Microsoft Windows vào ngày 20 tháng 11
năm 1985, và trong tháng 8, công ty ký hợp đồng với IBM nhằm phát triển một hệ điều hành riêng
biệt gọi là OS/2. Mặc dù hai công ty đã phát triển thành công phiên bản đầu tiên của hệ điều hành
mới, nhưng sự gắn kết giữa những ý tưởng sáng tạo khác nhau đã dần làm suy yếu quan hệ đối tác.
Gates phân phát một bản ghi nhớ nội bộ ngày 16 tháng 5 năm 1991 tuyên bố chấm dứt sự hợp tác
trong OS/2 và Microsoft sẽ chuyển sang nỗ lực phát triển nhân hệ điều hành Windows NT.
Từ đó đến nay, hệ điều hành Windows của Microsoft không ngừng nâng cấp, bổ sung
những tính năng phù hợp với người sử dụng. Chính những ý tưởng sáng tạo với tốc độ kinh
ngạc của Microsoft luôn ở vị trí hàng đầu, không có đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực
người dùng cuối cũng như hệ điều hành cho máy chủ.
1.2 Quá trình phát triển của hệ điều hành Windows
Hệ điều hành Windows đã có một lịch sử phát triển khá dài, phiên bản đầu tiên của hệ điều
hành này đã được phát hành cách đây khoảng 25 năm và quãng thời gian mà Windows chiếm
được ưu thế đối với các máy tính cá nhân cũng vào khoảng trên 15 năm. Rõ ràng, qua rất nhiều
thay đổi về kỹ thuật trong 25 năm qua, phiên bản ngày nay của Windows đã được phát triển
hơn rất nhiều so với phiên bản Windows 1.0.
Phiên bản đầu tiên của Windows này (Windows 1.0) khá sơ đẳng. Sơ đẳng hơn cả hệ điều
hành DOS trước đó, tuy nhiên nhược điểm phát sinh là ở chỗ rất khó sử dụng. Vì thực tế khi
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 9
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
đó nếu bạn không có chuột thì việc sử dụng sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với giao diện dòng
lệnh của DOS.
Tuy nhiên Windows được phát triển ngày một tốt hơn và cũng được phổ biến rộng rãi hơn.
Microsoft đã nâng cấp Windows trên một cơ sở nhất quán qua hai thập kỷ qua. Phát hành một
phiên bản Windows mới sau một vài năm; đôi khi phiên bản mới chỉ là một nâng cấp nhỏ
nhưng đôi khi lại là quá trình đại tu toàn bộ.
Với những giới thiệu tổng quan trên, chúng ta hãy đi qua mỗi một phiên bản của Windows

– bắt đầu với hình thức sơ khai nhất của nó, hệ điều hành được biết đến với tên DOS.
1.2.1 DOS
Windows được phát triển từ hệ điều hành DOS ban đầu của Microsoft, đây là hệ điều hành
được phát hành năm 1981. Hệ điều hành mới này đã được Bill Gates và Paul Allen phát triển
để chạy trên máy tính cá nhân IBM, với giao diện hoàn toàn bằng văn bản và các lệnh người
dùng giản đơn.
Những cải tiến tiếp tục được thực
hiện, IBM đã liên hệ với công ty
Microsoft để cung cấp hệ điều
hành cho các máy tính IBM vào
thời điểm ban đầu này. Khi đó
Gates và Allen đã mua QDOS
(quick and dirty operating system)
từ Seattle Computer Products và
đã điều chỉnh những cần thiết cho
hệ thống máy tính mới.
Hệ điều khi đó được gọi là DOS, viết tắt cho cụm từ disk operating system. DOS là một tên
chung cho hai hệ điều hành khác nhau. Khi được đóng gói với các máy tính cá nhân IBM,
DOS được gọi là PC DOS. Còn khi được bán dưới dạng một gói riêng bởi Microsoft, DOS
được gọi là MS-DOS. Tuy nhiên cả hai phiên bản đều có chức năng tương tự nhau.
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học để điều hành máy tính của họ bằng DOS.
Nhưng hệ điều hành này không thân thiện một chút nào; nó yêu cầu người dùng phải nhớ tất cả
các lệnh và sử dụng các lệnh đó để thực hiện hầu hết các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như
việc copy các file, thay đổi thư mục… Ưu điểm chính của DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ,
đây là hai vấn đề quan trọng khi hầu hết các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 10
Hình 1.2 Microsoft co-founders Paul Allen và Bill Gates
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
1.2.2 Windows 1.0 năm 1982 – 1985
Microsoft tin rằng các máy tính cá nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng phải dễ dàng hơn

trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện đồ họa người dùng (GUI) thay
cho giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan điểm đó, Microsoft đã bắt tay vào thực hiện phiên
bản mở đầu của Windows vào năm 1983, và sản phẩm cuối cùng được phát hành ra thị trường
vào tháng 11 năm 1985.
Windows ban đầu được gọi là
Interface Manager, và không có
gì ngoài một lớp vỏ đồ họa đặt
trên hệ điều hành DOS đang tồn
tại. Trong khi DOS chỉ là một hệ
điều hành sử dụng các lệnh bằng
văn bản và gắn chặt với bàn phím
thì Windows 1.0 đã hỗ trợ hoạt
động kích vào thả của chuột. Tuy
nhiên các cửa sổ trong giao diện
hoàn toàn cứng nhắc và không mang tính xếp chồng.
Không giống các hệ điều hành sau này, phiên bản đầu tiên của Windows này chỉ có một vài
tiện ích sơ đẳng. Nó chỉ có chương trình đồ họa Windows Paint, bộ soạn thảo văn bản
Windows Write, bộ lịch biểu, notepad và một đồng hồ. Tuy nhiên thời đó Windows 1.0 cũng
có Control Panel, đây là thành phần được sử dụng để cấu hình các tính năng khác cho môi
trường, và MS-DOS Executive - kẻ tiền nhiệm cho bộ quản lý file Windows Explorer ngày
nay.
Không hề ngạc nhiên vì Windows 1.0 không thành công như mong đợi. Do lúc đó không có
nhiều nhu cầu cho một giao diện đồ họa người dùng cho các ứng dụng văn bản cho các máy
tính PC của IBM và đây cũng là phiên bản Windows đầu tiên yêu cầu nhiều công xuất hơn các
máy tính vào thời đại đó.
1.2.3 Windows 2.0 – 2.11 năm 1987 – 1990
Phiên bản thứ hai của Windows được phát hành vào năm 1987, đây là phiên bản được cải tiến
dựa trên phiên bản Windows 1.0. Phiên bản mới này đã bổ sung thêm các cửa sổ có khả năng
xếp chồng nhau và cho phép tối thiểu hóa các cửa sổ để chuyển qua lại trong desktop bằng
chuột.

Trong phiên bản này, Windows 2.0 đã có trong nó các ứng dụng Word và Excel của Microsoft.
Lúc này Word và Excel là các ứng dụng đồ họa cạnh tranh với các đối thủ khi đó WordPerfect
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 11
Hình 1.3 Giao diện desktop của Windows 1.0
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
và Lotus 1-2-3; các ứng dụng của
Microsoft cần một giao diện đồ họa để
có thể chạy hợp thức, do đó Microsoft
đã tích hợp chúng vào với Windows.
Lúc này không có nhiều ứng dụng
tương thích với Windows. Chỉ có một
ngoại lệ đáng lưu ý đó là chương trình
Aldus PageMaker.
1.2.4 Windows 3.0
Lần thứ ba có tiến bộ hơn các phiên bản trước rất nhiều và đánh dấu một mốc quan trọng trong
thương mại. Windows 3.0, phát hành năm 1990, là phiên bản thương mại thành công đầu tiên
của hệ điều hành, Microsoft đã bán được khoảng 10 triệu copy trong hai năm trước khi nâng
cấp lên 3.1. Đây là phiên bản hệ điều hành đa nhiệm đích thực đầu tiên. Sau sự thành công với
Macintosh của Apple, thế giới máy tính cá nhân đã sẵn sàng cho một hệ điều hành đa nhiệm
cùng với giao diện đồ họa người dùng.
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với
các phiên bản trước đây. Giao diện của
nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và
người dùng có thể thay đổi màu của
desktop (tuy nhiên thời điểm này chưa có
các ảnh nền - wallpaper). Các chương
trình được khởi chạy thông qua chương
trình Program Manager mới, và chương
trình File Manager mới đã thay thế cho
chương trình MS-DOS Executive cũ

trong vấn đề quản lý file. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có trò chơi Solitaire
trong đó. Một điều quan trọng nữa là Windows 3.0 có một chế độ Protected/Enhanced cho
phép các ứng dụng Windows nguyên bản có thể sử dụng bộ nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS
của nó.
Sau phát hành Windows 3.0, các ứng dụng được viết cho Windows được phát triển rất rộng rãi
trong khi đó các ứng dụng không cho Windows (non-Windows) thì ngược lại. Windows 3.0 đã
làm cho các ứng dụng Word và Excel đã đánh bại các đối thủ cạnh tranh khác như
WordPerfect, 1-2-3.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 12
Hình 1.4 Giao diễn của Windows 2.0
Hình 1.5 Giao diện màn hình Windows 3.0
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
1.2.5 Windows 3.1
Windows 3.1, phát hành năm 1992,
có thể coi là một nâng cấp cho phiên
bản 3.0. Phiên bản này không chỉ có
các bản vá lỗi cần thiết mà nó còn là
phiên bản đầu tiên mà Windows hiển
thị các font TrueType –làm cho
Windows trở thành một nền tảng
quan trọng cho các máy desktop. Một
điểm mới nữa trong Windows 3.1 là
bộ bảo vệ màn hình (screensaver) và
hoạt động kéo và thả.
1.2.6 Windows NT
Phát hành kế tiếp cho khối doanh nghiệp của Windows là Windows NT (từ NT là viết
tắt của cụm từ new technology), phiên bản chính thức được phát hành vào năm 1993. Mặc dù
vậy NT không phải là một nâng cấp đơn giản cho WFW mà thay vì đó nó là một hệ điều hành
32-bit đúng nghĩa được thiết kế cho các tổ chức có kết nối mạng. (Các phiên bản khách hàng
vẫn được duy trì ở các hệ điều hành 16-bit).

Windows NT cũng là một thành viên trong hợp tác phát triển hệ điều hành OS/2 của
Microsoft với IBM. Tuy nhiên khi mối quan hệ giữa IBM và Microsoft bị đổ vỡ, IBM vẫn tiếp
tục với OS/2, trong khi đó Microsoft đã thay đổi tên phiên bản của OS/2 thành Windows NT.
Phục vụ cho khách hàng doanh nghiệp, Windows NT đã có hai phiên bản: Workstation và
Server. NT Workstation được dành cho các PC riêng rẽ trên mạng công ty, còn NT Server có
nhiệm vụ máy chủ cho tất cả các PC được kết nối với nhau.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 13
Hình 1.6 Các font TrueType của Windows 3.1
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.7 Windows NT – phiên bản Windows 32-bit dành cho sử dụng trong khối doanh nghiệp
Với những khả năng cải thiện về công nghệ kết nối mạng, NT đã trở thành một hệ điều
hành chủ đạo cho các máy chủ và máy trạm doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nó cũng là cơ sở
cho hệ điều hành Windows XP, hệ điều hành sát nhập hai luồng Windows thành một hệ điều
hành chung vào năm 2001.
1.2.7 Windows 95
Quay trở lại với hướng khách hàng, Microsoft đã sẵn sàng một phát hành mới vào tháng
8 năm 1995. Phiên bản Windows 95 này có lẽ là phát hành lớn nhất trong số các phát hành
Windows. Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành Windows 95 là
một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng,
các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các cửa hàng từ nửa đêm để mua được
những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này. Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng?
Windows 95 có diện mạo đẹp hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt
được mong mỏi của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại
phần lớn và đã cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả
mạo. (Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 14
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.8 Windows 95 – phát hành Windows lớn nhất chưa từng có
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ mở. Nó cũng là
phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu Start; các shortcut trên desktop,

kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù không có trong phiên bản ban đầu – đó là trình
duyệt web Internet Explorer của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất hiện là trong Windows 95
Plus! Với tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong Win95 Service Pack 1, gói dịch vụ được
phát hành vào tháng 12 năm 1995.
1.2.8 Windows 98
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó (1998), là một thay đổi mang
tính cách mạng so với phiên bản trước đó. Diện mạo bên ngoài của nó đẹp hơn Windows 95
khá nhiều, và thậm chí nó còn có nhiều cải thiện hữu dụng bên trong. Những cải thiện ở đây
như sự hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối mạng và hệ thống file FAT32, tuy tất cả đều những cải
thiện này rất đáng giá nhưng không làm cho cả thế giới choáng ngợp như lần ra mắt của
Windows 95.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 15
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.9 Màn hình desktop của Windows 98
Microsoft đã phát hành phiên bản nâng cấp "Second Edition" của Windows 98 vào năm 1999.
Phiên bản này có ít những thay đổi đáng chú ý mà chỉ có hầu hết các bản vá lỗi.
1.2.9 Windows Me
Microsoft phát hành phiên bản Windows Millennium edition vào năm 2000. Windows Me, có
lẽ là lỗi lớn nhất của Microsoft, một nâng cấp thứ yếu với rất nhiều lỗi thay vì sửa các lỗi trước
đó.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 16
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.10 Giao diện Windows Me media
Trong phiên bản mới này, Microsoft đã nâng cấp các tính năng Internet và multimedia của
Windows 98, bổ sung thêm ứng dụng Windows Movie Maker, giới thiệu tiện ích System
Restore – tất cả đều là những ứng dụng tốt. Tuy nhiên điều đáng chú ý nhất trong Windows Me
đó là hiện tượng dễ đổ vỡ và hệ thống dễ bị treo. Nguyên nhân này đã làm cho nhiều khách
hàng và các doanh nghiệp bỏ qua toàn bộ nâng cấp này.
1.2.10 Windows 2000

Được phát hành gần như đồng thời với phát hành dành cho khách hàng Windows Me,
Windows 2000 là một nâng cấp thành công cho khối doanh nghiệp của Microsoft. Kế vị ngay
sau Windows NT, Windows 2000 là một sự tiến hóa từ nền tảng cơ bản NT, và vẫn nhắm đến
thị trường doanh nghiệp.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 17
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.11 Windows 2000 – kẻ kế nhiệm cho Windows NT cho thị trường doanh nghiệp
Không giống như NT, Windows 2000 có hai phiên bản (Workstation và Server), Windows
2000 có đến 5 phiên bản khác nhau: Professional, Server, Advanced Server, Datacenter Server
và Small Business Server. Tất cả các phiên bản đều kết hợp chặt chẽ các tính năng từ Windows
95/98 và tạo nên một giao diện đẹp mắt và tinh tế.
1.2.11 Windows XP
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của Windows đã được nhập thành một với
phát hành năm 2001 của Windows XP. Đây là phiên bản đầu tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy
trong dòng doanh nghiệp ra thị trường khách hàng – và đưa sự thân thiện vào thị trường doanh
nghiệp. XP có sự pha trộng tốt nhất giữa các phiên bản Windows 95/98/Me với thao tác 32-bit
của Windows NT/2000 và giao diện người dùng được tân trang lại. Về bản chất có thể cho
rằng XP là kết hợp giao diện của Windows 95/98/Me vào NT/2000 core, bỏ qua cơ sở mã DOS
đã xuất hiện trong các phiên bản khách hàng trước của Windows.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 18
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.12 Giao diện thân thiện hơn của Windows XP
Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị trường bằng một số phiên bản khác
nhau, mỗi một phiên bản lại có một tập các tính năng riêng biệt. Các phiên bản khác nhau được
phân khúc ở đây gồm có: XP Home Edition, XP Professional (cho người dùng khối doanh
nghiệp), XP Media Center Edition, XP Tablet PC Edition, và XP Starter Edition (cho người
dùng trong các nước đang phát triển). Tuy nhiều người dùng cảm thấy lộn xộn về sự phân khúc
này, nhưng Microsoft dường như lại không quan tâm đến điều đó.
Từ quan điểm của người dùng, XP là một phiên bản đẹp hơn, nhanh hơn so với các phiên bản
trước đó Windows 95/98 hoặc Windows 2000. (Nó cũng có độ tin cậy cao hơn so với hệ điều

hành Windows Me thất bại trước đó). Giao diện Luna cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện hơn,
tính năng Fast User Switching cho phép cùng một máy có thể được chia sẻ dễ dàng với những
người dùng khác.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 19
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
1.2.12 Windows Server 2003
Hình 1.13 Giao diện của Windows Server 2003
Windows Server 2003 là hệ điều hành dành cho máy chủ được sản xuất bởi Microsoft, được
giới thiệu và ngày 24/4/2003. Windows Server 2003 được cải tiến rất nhiều so với phiên bản
Windows 2000 như: bảo mật tốt hơn, độ tin cậy cao hơn và dễ dàng quản trị. Windows Server
2003 có 4 phiên bản
- Web Edtion
- Standard Edition
- Enterprise Edition
- Datacenter Edition
Bên cạnh 4 phiên bản cơ sở, hệ điều hành này còn có thêm các phiên bản hỗ trợ phần cứng 64
bit và các hệ thống nhúng.
1.2.13 Windows Vista
Được phát hành năm 2007, phiên bản Windows này đã phát triển các tính năng của XP
và bổ sung thêm sự bảo mật và độ tin cậy, chức năng truyền thông số được cải thiện và giao
diện đồ họa người dùng Aero 3D đẹp mắt.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 20
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.14 Giao diện Aero của Windows Vista
Chúng ta hãy bắt đầu với giao diện, để chạy được giao diện nâng cao này đòi hỏi các máy tính
phải có cấu hình cao, chính vì lý do này mà Vista bị hạn chế khả năng nâng cấp từ nhiều máy
tính cũ. Giao diện Aero hiển thị các thành phần 3D gần như trong suốt và đường bao cửa sổ
kiểu kính, bên cạnh đó còn nhiều thứ trong Vista cũng rất khác biệt.
Các biểu tượng thư mục và file hiển thị bằng các thumbnail nội dung của chúng. Khi bạn
chuyển giữa các ứng dụng đang mở, Windows sẽ cuộn và xoay vòng để hiển thị theo ngăn xếp

3D. Các cửa sổ trông uyển chuyển hơn, tròn trịa hơn và có tính mờ đục, tăng cảm giác sâu khi
bạn xem nhiều cửa sổ trên màn hình. Bên cạnh đó còn có một Sidebar để giữ các Gadget, các
ứng dụng nhỏ chuyên dụng cho một nhiệm vụ nào đó.
Bên trong, Vista được thiết kế để chạy an toàn và tráng kiện hơn Windows XP. Tuy nhiên một
trong những tính năng bảo mật – người dùng phàn nàn nhiều – là User Account Control, tính
năng này góp phần vào làm gián đoạn các hoạt động thông thường của người dùng. Dự định
thì tốt (nhằm ngăn chặn không cho truy cập trái phép vào hệ thống), tuy nhiên khi thực thi thì
chương trình lại làm cho người dùng tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ đòi hỏi sự cho phép xuất
hiện quá nhiều.
Thậm chí tồi tệ hơn, nhiều người dùng gặp phải các vấn đề trong việc nâng cấp thiết bị cũ lên
Vista. Nhiều thiết bị ngoại vi cũ không có driver tương thích với Vista (đây có thể coi là một
vấn đề với bất cứ nâng cấp Windows nào), tuy nhiên có một số chương trình chạy trên XP
không thể làm việc đúng cách trong môi trường Vista.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 21
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Chắc hẳn từ những yếu tố không thành công trên của Windows Vista mà Microsoft đã bắt tay
vào để phát triển kẻ kế nhiệm cho Vista ngay lập tức – Windows 7 sắp được phát hành.
1.2.14 Windows Server 2008
Ngày 12/11/2007 Microsoft chính thức tung ra thị trường phiên bản hệ điều hành máy chủ
Windows Server 2008. Windows Server 2008 có 3 phiên bản khác nhau:
- Standard.
- Enterprise.
- Datacenter.
Hình 1.15 Windows Firewall with Advanced Security
Hyper-V với Hyper-V công nghệ ảo hóa được nâng lên một tầm cao mới giờ đây được tích
hợp vào nhân giúp tận dụng tối đa hiệu suất của phần cứng.
Microsoft đã ảo hóa tất cả những gì có thể nghĩ ra được, nó còn tương thích với các máy ảo
được tạo ra trên Virtual PC và Virtual Server. Bạn chú ý Hyper-V chỉ dùng được với nền tảng
64-bit (x64), số lượng thiết bị ảo không giới hạn có thể mở rộng đến 64 bộ vi xử lý Physical.
Server Core ít ứng dụng thì ít lỗi và chiếm ít tài nguyên, trong bản này Microsoft đã mạnh tay

lược bỏ toàn bộ giao diện đồ họa, các ứng dụng râu ria Windows Media Player, Internet
Explorer, Windows Mail…cũng bị bỏ hết thay vào đó là cửa sổ dòng lệnh như Linux.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 22
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
BitLocker Full-Drive Encryption mã hóa toàn bộ dữ liệu trên ở đĩa cứng đảm bảo tính toàn vẹn
của dữ liệu rủi có bị mất cắp vẫn gối cao đầu mà ngủ phù hợp khi triển khai tại các điểm có độ
bảo mật thấp.
Read-Only Domain Controller đây cũng không hẳn tính năng mới nó đước “tái sử dụng” từ
bản WinNT trước đó. Tính năng này cho phép quản trị viên cấu hình CSDL AD sang trạng thái
chỉ đọc nếu cảm thấy không chắc chắn về độ bảo mật tại chi nhánh, việc update CSDL AD chỉ
diễn ra một chiều từ trụ sở sang máy chủ tại chi nhánh.
Internet Information Services (IIS) 7.0 được cải tiến đáng kể về cấu trúc và giao diện tập trung
phát triển ứng dụng Web trên nền tảng .NET Framework. Bản này IIS 7.0 được chia thành hơn
40 module khác nhau bạn có thể lược bớt nhưng thứ không cần thiết cho nhẹ gánh chứ không
phải cài một cục như các bản trước nữa.
Terminal Services Gateway, RemoteApp là bước đột phá lớn trong Windows 2008 cho phép
quản trị viên làm việc và sử dụng các ứng dụng văn phòng từ xa Word, Excel,Outlook hoàn
toàn trên nền Web qua giao thức HTTPS giúp tăng cường bảo mật.
1.2.14 Windows 7
Windows 7 là hệ điều hành được dành cho các máy tinh để bàn, xách tay, Tablet, netbook được
phát hành trên thế giới vào ngày 22/10/2009.
Windows 7 là một bản nâng cấp lớn hơn từ Vista với mục đích có thể tương thích đầy đủ với
các trình điều khiển thiết bị, ứng dụng và phần cứng đã tương thích với Windows Vista. Hỗ trợ
tiếp xúc đa điểm, một Windows Shell mới được thiết kế lại với một taskbar mới, một hệ thống
HomeGroup và các cải tiến về hiệu suất. Một ứng dùng đi kèm trong các phiên bản trước của
Microsoft đã bị gỡ bỏ như Windows Movie Maker, Windows Photo Gallery,… thay vào đó
chúng được cung cấp riêng lẽ miền phí như một phần của bộ Windows Live Essentials.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 23
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.6 Màn hình desktop của Windows 7

1.2.15 Windows Server 2012 và Windows 8
Cuối năm 2012 Microsoft cho pháp hành phiên bản Windows 8. Điểm nổi bật nhất ở Windows
8 là giao diện Metro, đưa ra nhiều yếu tố thiết kế đồ họa từ Windows Phone đến những người
dùng máy tính dể bàn, máy tính bảng. Sự xuất hiện của Windows 8 lần này đi kèm với cả
Internet Explorer 10 cũng như tập trung vào các ứng dụng và các nội dung có thể động bộ trên
nhiều thiết bị.
Một chi tiết khác trên phiên bản Windows 8 là khả năng hỗ trợ các vi xử lý ARM bên cạnh
việc tương thích các thiết bị chip x86. Hay nói cách khác, tất cả các thiết bị từ máy tính bảng
màn hình 10 inch dến máy tính dể bàn màn hình 27 inch đều có thể chạy Windows 8 một cách
dễ dàng.
Song song với việc đưa ra sản phẩm Windows 8 cho người dùng đầu cuối thì Microsoft cũng
cho ra bản Windows Server 2012 cho các máy chủ. Trong Windows Server 2012, Server
Manager được cải tiến hoàn toàn, PowerShell được mở rộng hỗ trợ thêm hàng loạt câu lệnh để
tùy biến và điều khiển hệ điều hành máy chủ. Người quản trị có thể cấu hình mọi thứ trên
Windows Server 2012 thông qua PowerShell.
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 24
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG TIN HỌC - Giảng viên: GS. TSKH. HOÀNG VĂN KIẾM
Hình 1.17 Bảng điều khiển Server Manager của Windows Server 2012
Theo Microsoft, thời gian vận hành (uptime) sẽ ít bị "rớt" hơn do những cải tiến trong khả
năng ảo hóa Hyper-V, chức năng lưu trữ và những tính năng mạng, giúp thời gian khôi phục
nhanh chóng hơn.
CHƯƠNG II. ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO SCAMPER TRONG
VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỆ ĐIỀU HÀNH WINDOWS SERVER
2012
2.1 Giới thiệu tác giả phương pháp sáng tạo SCAMPER:
Tác giả của phương pháp sáng tạo SCAMPER là ông Michael Mikalko (Mỹ). Ông là
tác giả cuốn sách Cracking Creativity, được công ty
sách AnphaBook hợp tác nhà xuất bản Tri Thức chuyển ngữ
sang tiếng Việt và phát hành vào tháng 1/2009 với tựa là “Đột
phá sức sáng tạo - Bí mật của những thiên tài sáng

tạo”
Học viên: TRẦN CẢNH KHÁNH – CH1301093 Trang 25
Hình 2.1 Ông Michael
Hình 2.2 Sách chuyển ngữ Cracking Creativity

×