Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN ĐẠI (1976-2000) TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.34 KB, 7 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------
TIỂU LUẬN
MÔN: VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN ĐẠI (1976-2000)
TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Giảng viên : GS.TS. Lê Huy Tiêu
Học viên thực hiện : Vũ Thị Vân
Lớp : K51-Cao học Văn

Hà Nội, 02-2008
1
“Đại Cách mạng Văn hóa” (1966 - 1976) kết thúc, “Bè lũ bốn tên”
bị tiêu diệt đã đưa văn học Trung Quốc nói chung, tiểu thuyết Trung Quốc
nói riêng đi vào thời kì nở rộ với sự phát triển tực rỡ, mới lạ cả về nội
dung và hình thức. Làm nên diện mạo văn học Trung Quốc đương đại là
những nhà văn thuộc “thế hệ thứ 5”, lớp nhà văn xuất hiện và mau chóng
trưởng thành sau Đại Cách mạng Văn hóa - với các đại diện tiêu biểu:
Lưu Chấn Vân, Mã Nguyên, Mạc Ngôn, Gia Bình Ao, Trương Khiết,
Thẩm Dung, Tông Phác,… Đây là những nhà văn đã phải chịu đựng nhiều
đau khổ, mất mát trong những năm “đại động loạn”.
Khác với các lớp nhà văn trước đó, lớp nhà văn thứ năm là những
người ưu thời mẫn thế, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới và dám đối mặt
với hiện thực, họ đã mạnh mẽ đứng lên vạch trần tội lỗi của “bè lũ bốn
tên”, vạch trần những tàn dư xấu xa trong xã hội. Lớp nhà văn này đã làm
nên nền tiểu thuyết đương đại Trung Quốc với rất nhiều trường phái.
Mở đầu là dòng tiểu thuyết “văn học vết thương” tối cao tính vô
nhân đạo của Đại Cách mạng Văn hóa. “Văn học vêt thương” được đánh
dấu bằng sự xuất hiện của truyện ngắn “Vết thương” của Tân Hoa. Sau đó
là sự xuất hiện của hàng loạt các tác phẩm viết về những vết thương thể
xac s lẫn vết thương tinh thần trong mười năm “động loạn” như: Ôi


(Phùng Ký Tài), Tôi phải làm thế nào (Trần Quốc Khải), Mãi mãi là mùa
xuân (Thẩm Dung), … Chủ nhiệm lớp của Lưu Tâm Vũ có thể nói là tác
phẩm tiêu biểu nhất của dòng “Văn học vết thương”. Tác phẩm là lời tố
cáo bọn phản động trong “Đại Cách mạng Văn hóa” đã làm hư hỏng tâm
hồn lớp thanh niên và kêu gọi “Hãy cứu lấy những đứa trẻ” bị hại…
Dòng “Vhoc phản tư” cũng xuất hiện gần như đồng thời hoặc sau
một chút so với “văn học vết thương”. Hay nói chính xác hơn, “văn học
phản tư” ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển “văn học vết thương”.
Nếu như “Văn học vết thương” nặng về phơi bày những đau khổ trong
thời động loạn, thì “văn học phản tư” hướng tới việc suy nghĩ, nhìn nhận
lại những vấn đề mang tính mang tính lịch sử - xã hội của khuynh hướng
2
“tả khuynh” từ năm 1949 trở lại. Đặc biệt, sau “Nghị quyết của Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về các vấn đề lịch sử từ ngày dựng
nước đến nay” (1981), các nhà văn có thêm cơ sở lí luận để “phản tư” lại
những vấn đề “tế nhị” khó nói từ ngày thành lập nước đến giờ như: 1)
Nhìn nhận lại các cuộc vận động chính trị và làm gió “tả khuynh” từ 1949
đến nay đã ảnh hưởng xấu đến đời sống và số phận của nhân dân như thế
nào; 2) Vạch trần tác hại của tàn dư thế lực phong kiến trong đời sống
nhân dân; 3) Phản tư về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, phê phán tệ
quan liêu, cửa quyền; 4) Châm biếm, giải phẫu những nhân cách bị bóp
méo, những tâm lí văn hóa không lành mạnh và những nhược điểm của
“quốc dân tính”… Các tác phẩm tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết này là :
Câu chuyện bị cắt xén sai ( Như Chí quyền), Cây lục hóa (Trương Hiền
Lượng), Hồ Điệp (Vương Mông), Trần Hoán Sinh lên tỉnh (Cao Hiểu
Thanh), Truyền kì Thiên Vân (Lễ Ngạn Chu),…
Nhìn chung, nếu so với “văn học vết thương” thì “văn học phản tư”
sâu sắc hơn, diện phản ánh rộng hơn (không chỉ phản ánh Đại Cách mạng
văn hóa mà các vấn đề của phong trào nhảy vọt, chống phái hữu,…).
Những nhà văn thuộc trường phái này phần lớn là những nhà văn bị đấu tố

vừa được minh oan, phục hồi danh dự. Họ cố gắng viết để lí giải nguyên
nhân gây ra tai họa, kêu gọi mọi người cùng suy ngẫm lại, để bi kịch
không tái diễn nữa.
Về mặt nghệ thuật, khác với “văn học vết thương”, “văn học phản
tư” đã bắt đầu sử dụng những thủ pháp, kĩ xảo, hình thức của chủ nghĩa
hiện đại phương Tây: biến hình, u mua, đặc biệt là thủ pháp “dòng ý thức”
để khắc họa nội tâm nhân vật.
Theo đà phát triển của xã hội nói chung và văn học nói riêng, khi
đất nước Trung Quốc đi vào khắc phục sản xuất, phát triển kinh tế, các
nhà văn đã hướng ngòi bút vào đề tài cải cách, xây dựng đất nước (từ
1978). Tác phẩm đi tiên phong trong đề tài này là Xướng trưởng Kiều
nhậm chức của Tưởng Tử Long (1979). Đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết
3
cải cách là: 1) Nhiệt liệt ủng hộ cải cách, hô hào cải cách, cố gắng theo
kịp bước chân của thời đại, phản ánh kịp thời tiến trình cải cách; 2) Phản
ánh sự thay đổi của xã hội; con người trong cải cách, phản ánh những hi
vọng, những thất vọng cùng những vấp váp, bàng hoàng lo ấu của mọi
người trong quá trình cải cách; 3) Sáng tạo ra được một số “anh hùng thời
đại” trong công cuộc mở đường, cải cách: Trịnh Tử Vân trong Đôi cánh
nặng nề; Kiều Quang Phát trong Xưởng Trưởng Kiều nhậm chức,…
Nhìn chung, văn học cải cách có nhiều nhược điểm do ảnh hưởng
nặng nề của tư tưởng văn học phục vụ cho mục đích chính trị nên nhân
vật thường được lí tưởng hóa, kết cấu trùng lặp,…
Đến năm 1985, trong bối cảnh “cơn sốt văn hóa” lan rộng, văn học
Trung Quốc xuất hiện một trào lưu tiểu thuyết mới là “tiểu thuyết tầm
căn”. “Tầm căn” nghĩa là tìm về cội nguồn. Nguyên nhân xuất hiện dòng
tiểu thuyết này là sự xuất hiện bài viết Gốc rễ của văn học của Hàn Thiếu
Công, đăng trên tạp chí Nhà văn tháng 6-1985. Ông cho rằng Gốc rễ của
văn học cần phải ăn sâu vào văn hóa truyền thống và trách nhiệm của nhà
văn là phải tạo lại và đánh bóng lại “tự ngà dân tộc”.

Khác với văn học vết thương và “văn học phản tư” , văn học tầm
căn chú ý nhiều đến truyền thống văn hóa, đến những trầm tích văn hóa
cổ xưa. Văn học tầm căn Trung Quốc gồm hai nhánh chủ yếu: “Tầm căn
nguyên thủy” và “tầm căn truyền thống”. Với các tác phẩm tiêu biểu: Ba,
ba, ba ởi (Hàn Thiếu Công); Thụ giới (Uông Tăng Kỳ); Tuấn mã đen
(Trương Thừa Chí),…
Nhìn chung, tiểu thuyết tầm căn Trung Quốc chịu quan hệ của chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo của Mỹ la tinh. Đặc trưng của loại tiểu thuyết
này là sự kết hợp giữa ý thức tầm căn văn hóa với ý thức lo âu dân tộc;
thủ pháp nghệ thuật của nó là “biến hiện thực thành ảo giác mà không
đánh mất tính chân thực”. Tiểu thuyết tầm căn tuy có khuyết điểm là lí
giải nguồn gốc khá cứng nhắc, phi lịch sử, dẫn tới tình trạng có một số
nhà văn quá sùng bái cái thô, cái tục, cái cổ, cái man dại; song, tiểu thuyết
4
tầm căn có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của tiểu thuyết
đương đại Trung Quốc vì: nó nhìn nhận lại văn hóa truyền thống, tìm tòi
phương thức tư duy nghệ thuật tượng trưng, dung nạp phương pháp mới
của chủ nghĩa hiện đại, góp phần hình thành nên cục diện đa nguyên của
tiểu thuyết Trung Quốc.
Một trong những đỉnh cao của sự phát triển tiểu thuyết đương đại
Trung Quốc là sự xuất hiện của “tiểu thuyết tiên phong chủ nghĩa”.
Tiểu thuyết tiên phong có mối liên hệ chặt chẽ với trường phái hiện
đại chủ nghĩa của phương Tây (“tiểu thuyết tầm căn” mới chỉ là sự mở
rộng một vài thủ pháp của chủ nghĩa hiện thực).
Một trong những đỉnh cao của sự phát triển tiểu thuyết đương đại
Trung Quốc là sự xuất hiện của “tiểu thuyết tiên phong chủ nghĩa”.
Tiểu thuyết tiên phong có mối liên hệ chặt chẽ với trường phái hiện
đại chủ nghĩa của phương Tây (“Tiểu thuyết tầm căn” mới chỉ là sự mở
rộng một vài thủ pháp của chủ nghĩa hiện thực).
Một trong những nhân tố thúc đẩy sự đổi mới và đổi mới mạnh mẽ

tiểu thuyết thời kì mở cửa là sự du nhập của các yếu tố “ngoại lai”, văn
hóa, triết học, tư tưởng… đã ảnh hưởng đến tư duy của người Trung
Quốc. Các nhà văn Trung Quốc lúc này tiếp nhận cả cái hay lẫn cái dở
của các trường phái ở phương Tây. Chủ nghĩa hiện sinh của J.Santre; chủ
nghĩa sinh mệnh; lý thuyết “Libido” của Freud;…
Chính vì vậy, văn hóa Trung Quốc nói chung, tiểu thuyết Trung
Quốc nói riêng xuất hiện gần như bắt chước toàn diện chủ nghĩa hiện đại
phương Tây. Thời kì này xuất xuất hiện rất nhiều tác phẩm của Vương
Mông, Lưu Tâm Vũ, Phùng Ký Tài, Tông Phác, Thẩm Dung, Trương
Khiết,…
Tiểu thuyết tiên phong có đặc điểm: thay đổi quan niệm về giá trị và
phương thức thể nghiệm thế giới, cảm thấy giữa cá nhân và xã hội có cái
gì đó không hòa hợp với nhau, do đó dễ nảy sinh cảm giác hoang tưởng,
cô độc.
5

×