Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phật Giáo Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.98 KB, 10 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bài tiểu luận
Chủ đề : Phật Giáo



Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phật giáo Việt Nam
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du
nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc vào Việt Nam, Phật giáo Việt
Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên
thủy và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới.
Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt
Nam. Số lượng tín đồ Phật tử xuất gia khoảng 3 triệu người, số
thường xuyên đến chùa và tham gia các Phật sự khoảng 10 triệu
người, số người chịu ảnh hưởng của Phật giáo lên đến vài chục
triệu người.
Người sáng lập Phật giáo là Siddhartha Gautama. Ông sinh
năm 563 trước Công Nguyên tại Kapilavastu. Là hoàng tử của
nhà vua Satđođana, nước Capilavatu. Năm 29 tuổi, Siddhartha bỏ
cung điện, bỏ cuộc sống giàu sang và gia đình để đi tìm cho
mình một con đường giải thoát. Năm 35 tuổi, Siddhartha nghĩ ra
được một cách giải thoát. Từ đó ông được gọi là Buddha nghĩa là
giác ngộ. Về sau các đệ tử tôn xưng ông là Sakia Muni (Thích ca
Mâu ni). Quãng đời còn lại, Phật đi các nơi để truyền bá học
thuyết của mình. Năm 80 tuổi Phật qua đời.
Học thuyết phật giáo là chân lý về nỗi đau khổ và sự giải
thoát con người khỏi nỗi đau khổ. Chân lý ấy được thể hiện trong
tứ diệu đế:
Khổ đế
Tập đế


Diệt đế
Đạo đế
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết thập nhị
nhân duyên. Nhân là nguyên nhân gây ra sự vật. Duyên là những
mối quan hệ, những điều kiện, những ảnh hưởng chung quanh
giúp cho nhân phát khởi vận hành . Đạo Phật khái quát lại thành
12 nhân duyên. Đó là một chuỗi liên tục các nguyên nhân giam
hãm con người trong vòng sinh tử luân hồi.
Như vậy đặc điểm nổi bật nhất của Phật giáo nguyên thủy là
không chấp nhận thần linh, chủ trương vô thần nhưng là duy tâm
chủ quan
Sau khi Phật tổ qua đời, Đại hội Phật giáo lần thứ nhất được
triệu tập vào cuối thế kỉ V trước Công nguyên. Kinh điển của
Phật giáo đã được biên soạn gồm hai nội dung chính là Pháp và
Luật. Pháp là những lời thuyết giáo của Phật được chép lại theo
kí ức các đệ tử. Luật là quy chế do Đại hội thảo ra. Một trăm
năm sau Đại hội lần thứ hai được triệu tập. Số đông tín đồ đòi
chữa lại luật, họ bị đại hội trục xuất nên đã thành lập một phái
riêng là phái đại chúng bộ. Chính phái này là tiền thân của phái
Đại thừa sau này. Đến thế kỉ III trước CN, Đại hội lần thứ III
được triệu tập để chấn chỉnh tổ chức và giáo lý của mình. Thời kì
này là thời kì phát triển nhất của Đạo Phật ở Ấn Độ. Đến thế kỉ I
trước CN, Đại hội Phật giáo lần thứ IV được triệu tập. Đại hội
này đã thong qua giáo lý phật giáo cải cách và được gọi là phái
đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi là phái Tiểu thừa.
Sự khác nhau giữa hai phái được biểu hiện ở hai mặt sau:
Thứ nhất, phái Tiểu thừa cho rằng những người xuất gia đi
tu mới được cứu vớt nhưng phái Đại Thừa lại cho rằng không chỉ
có người tu hành mà cả những người quy y theo Phật cũng được

cứu vớt và ai cũng có thể thành Phật
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, phái Tiểu Thừa quan niêm Niết bàn là cảnh giới
yên tĩnh gắn với sự giác ngộ tức là hư vô trong khi đó phái Đại
Thừa quan niệm Niết bàn cũng như thiên đường cũng là nơi cực
lạc và đối lập với thiên đường là địa ngục.
Đạo Phật được truyền sang Châu Á bằng hai đường :
Đường bộ từ phía đông Ấn Độ lên phía tây bắc Ấn Độ vào
Trung Á rồi vòng sang phía đông ra Đông Á
Đường biển đến Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải
đảo.
Trong những di tích liên quan đến nền văn hóa Óc Eo
người ta đã thấy sự hiện diện của cả hai tôn giáo: Ấn Độ giáo và
Phật giáo cùng tồn tại
Ở Chăm pa Phật giáo được định vị với ngôi chùa ở Đồng
Dương thờ Laksmindranokeevara
Ở Giao Châu vào thể kỉ II đã có các sư tăng ngưới Ấn Độ như
Khương Cư và trung Quốc như Ma Ha Kì Vực, Tăng Hội, Chi
Cương Lương, Mâu Tử vào truyền đạo. Năm 580, Thiền sư Tỳ
Ni Đa Lưu Chi lập Thiền phái đầu tiên. Năm 820, Thiền sư Vô
Ngôn Thông lập thiền phái thứ hai. Luy lâu là một trung tâm
Phật giáo lớn vào những thế kỉ đầu CN. Nhiều cao tăng Trung
Quốc trên đường sang Ấn Độ cầu kinh học đạo đều dừng lại ở
Luy Lâu để học chữ Phạn và tiếp xúc với tăng sĩ Ấn Độ có mặt
tại đó
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay
từ đầu công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của
một nhà sư Ấn Độ. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và
Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu
Đà La trong khoảng các năm 168-189.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đại thừa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam là
Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông.
Thiền Tông là một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ
Đề Đạt Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế
kỷ thứ 6. Thiền là cách gọi tắt của Thiền na (Dhyana), có nghĩa
là "Tĩnh tâm", chủ trương tập trung trí tuệ để suy nghĩ (thiền)
nhằm tìm chân lý của đạo Phật. Tuy nhiên, theo Thiền tông,
"thiền" không phải là "suy nghĩ" vì suy nghĩ là "tâm vọng
tưởng", phân biệt và mầm mống của sanh tử luân hồi. Thiền tông
ở Việt Nam cũng có một lịch sử rõ ràng hơn cả. Dòng thiền tu
thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam do nhà sư Tỳ Ni Đa
Lưu Chi (Vinitaruci) lập ra. Ông là người Ấn Độ, qua Trung
Quốc rồi đến Việt Nam vào năm 580, và truyền cho tổ thứ hai là
Pháp Hiền. Dòng thiền này truyền được đến 19 thế hệ. Dòng
thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc lập ra
vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia
Lâm, Hà Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời. Dòng
thiền thứ ba do Thảo Đường, người Trung Quốc, vốn là tù binh
bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tông giải phóng
khỏi kiếp nô lệ và cho mở đạo tại chùa Khai Quốc vào năm
1069. Dòng thiền này truyền được đến 6 đời. Năm 1299, vua
Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của thiền sư Tuệ Trung
Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện Đông
Triều, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và
lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác
xuất hiện như phái Tào Động dưới thời Trịnh- Nguyễn , phái Liên
Tôn vào thế kỷ 16-19 (có trụ sở tại chùa Bà Đá và chùa Liên
Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (Liễu Quán là tên một vị tổ thuộc
dòng Lâm Tế) vào thế kỷ 18 (miền Trung), phái Lâm Tế dưới

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×