Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.78 KB, 17 trang )

Mục lục
Lời mở đầu.
1. Những vấn đề về thư tín dụng.
1.1.Khái niệm thư tín dụng.
1.2. Tính chất của thư tín dụng.
1.3. Vai trò của hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng.
1.4. Chủ thể của hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng
2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng.
2.1. Các quy định quốc tế về hoạt đông thanh toán bằng thư tín dụng.
2.1.1. Quy tắc và thực hành thống nhất về thư tín dụng.
2.1.2. Các văn bản khác điều chỉnh hoạt động thanh toàn bằng thư tín dụng.
2.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng.
3. Những vấn đề thực tiễn phát sinh trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật
trong hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng.
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng và nguyên
nhân của những vấn đề phát sinh:
3.2. Các tranh chấp thường phát sinh và những điểm cần chú ý.
4. Một số hướng giải quyết.
Kết luận
1
Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, quan hệ mua bán hàng hóa trong
nước và quốc tế cũng nhờ thế mà đang từng bước phát triển, kéo theo đó là sự xuất hiện của nhiều
phương thức thanh toán, trong đó hình thức thanh toán bằng thư tín dụng có một vị trí và vai trò
quan trọng đang được hầu hết các quốc gia sử dụng trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên mặc dù có
nhiều đổi mới nhưng một số quy định của pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh hoạt động
thanh toán bằng thư tín dụng cũng bộc lộ nhiều điểm hạn chế, không đồng bộ với thông lệ quốc tế
cũng như pháp luật quốc gia.
1. Những vấn đề về thư tín dụng.
1.1.Khái niệm thư tín dụng.
Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu cầu của người


sử dụng dịch vụ thanh toán, theo đó Ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh
toán để:
- Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi
nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng
- Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho Ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của người thụ
hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp
với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng
Nói cách khác, thư tín dụng là cam kết bằng văn bản của một ngân hàng được phát hành theo
chỉ thị của người mua (người yêu cầu mở L/C) cho người bán hưởng và có thể được thanh toán
theo phương thức trả ngay hay trả chậm.
1.2. Tính chất của thư tín dụng.
Thứ nhất, thư tín dụng có bản chất là cam kết của ngân hàng phát hành: ngân hàng sẽ tự mình
thực hiện việc trả tiền cho người thụ hưởng, hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền cho người
thụ hưởng theo các điều kiện thanh toán được ghi trong thư tín dụng.
2
Thứ hai, thư tín dụng tuy được mở theo yêu cầu của khách hàng (người xin mở thư tín dụng)
nhưng lại làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng phát hành thư tín dụng đối với người thứ ba
(người thụ hưởng thư tín dụng). Nghĩa vụ này có tính độc lập so với nghĩa vụ của người xin mở thư
tín dụng, đồng thời cũng độc lập so với chính hợp đồng đã làm phát sinh ra nghĩa vụ đó.
Thứ ba, thư tín dụng làm phát sinh một quan hệ tín dụng giữa ngân hàng phát hành với khách
hàng – người xin mở thư tín dụng, theo đó, ngân hàng phát hành thư tín dụng cam kết sẽ ứng tiền
của mình để thực hiện một nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng đối với người thứ thụ hưởng thư
tín dụng và do đó có quyền yêu cầu khách hàng hoàn lại cho mình số tiền đã được ứng trước, kèm
theo một khoản phí dịch vụ theo thỏa thuận.
1.3. Vai trò của hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng.
Thanh toán bằng L/C là một hình thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó an toàn và phù hợp
với hầu hết lợi ích của các bên có liên quan. Tuy nhiên, do đặc tính an toàn cao đối với người sử
dụng cho nên về khía cạnh kỹ thuật và thủ tục, nó khá phức tạp và đòi hỏi người sử dụng phải có
những hiểu biết sâu sắc về bản chất cũng như quy trình kỹ thuật của nó. Có như vậy mới tránh
được nguy cơ gặp phải các rủi ro pháp lý trong quá trình giao dịch.

Ngày nay, khi các nền kinh tế thế giới đang có xu hướng xích lại gần nhau (do tác động khách
quan của xu hướng toàn cầu hóa) thì việc nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán bằng L/C trong
thương mại quốc tế càng có cơ hội phát triển mạnh. Một cách khái quát, có thể hình dung vai trò
tích cực của thanh toán bằng thư tín dụng được thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, thanh toán bằng L/C tạo điều kiện cho các bên dù không biết nhau, không tin tưởng
nhau vẫn có thể hình thành các giao dịch mua bán hàng hóa, điều này làm gia tăng hoạt động
thương mại trong nước cũng như quốc tế.
Thứ hai, thanh toán bằng L/C thúc đẩy sự liên kết của các ngân hàng thành một hệ thống trên
toàn thế giới.
Thứ ba, thanh toán bằng L/C giúp giảm bớt sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các doanh
nghiệp cũng như các nền kinh tế trên thế giới.
Thứ tư, thanh toán bằng L/C đôi khi là một hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng
đối với doanh nghiệp. Đặc biệt là ở Việt Nam, thực tế cho thấy phần lớn các doanh nghiệp xuất
3
nhập khẩu thường ít vốn và luôn gặp nhiều khó khăn trong thanh toán quốc tế cho nên hoạt động
thanh toán bằng LC là tương đối phổ biến.
1.4 Chủ thể tham gia thanh toán bằng thư tín dụng:
Trong quá trình thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng, thông thường các chủ thể tham gia
gồm có:
+ Người yêu cầu phát hành thư tín dụng: là người mua, người nhập khẩu
+ Ngân hàng phát hành là ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, người mua, người mở thư tín
dụng.
Người thụ hưởng là người xuất khẩu, người bán.
Ngân hàng thông báo là ngân hàng phục vụ người bán. Ngân hàng thông báo có thể là ngân
hàng đại lí hoặc chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước người xuất khẩu, người bán.
Ngoài các chủ thể tham gia thanh toán trên, trong thực tế, tùy thuộc vào từng loại thư tín dụng
có thể xuất hiện thêm một số ngân hàng khác:
+ Ngân hàng xác nhận là ngân hàng được chỉ định trong thư tín dụng, thực hiện xác nhận
(đảm bảo) thư tín dụng theo yêu cầu của ngân hàng phát hành.
+ Ngân hàng được chỉ định trong thư tín dụng (như chỉ định thanh toán, chỉ định chiết khấu)

+ Ngân hàng bồi hoàn: là ngân hàng được ngân hàng phát hành ủy nhiệm thực hiện thanh
toán giá trị tín dụng thư cho ngân hàng được chỉ định thanh toán hoặc chiết khấu. Ngân hàng bồi
oàn thường tham gia trong trường hợp giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng được chỉ định
không có quan hệ tài khoản trực tiếp với nhau.
2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng.
Hoạt động thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nói chung và thanh toán bằng
thư tín dụng nói riêng làm phát sinh nhiều mối quan hệ tương đối phức tạp, có liên quan đến lợi ích
của nhiều chủ thể, dễ có thể nảy sinh tiêu cực, rủi ro trong quan hệ thanh toán cho tất cả các bên.
Do đó, đòi hỏi Nhà nước cần phải ban hành pháp luật điều chỉnh các quan hệ này nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các bên, bảo đảm sự vận hành an toàn của nền kinh tế, tạo môi trường và chuẩn mực
pháp lý bảo đảm cho quan hệ thanh toán nói chung và thanh toán bằng thư tín dụng nói riêng được
thực hiện trong vòng trật tự nhất định phù hợp với lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội. Tổng
hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc các quy phạm
4
pháp luật quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng hợp thành một bộ phận pháp luật gọi là
pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng.
* Căn cứ vào nội dung tính chất của các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thanh toán
bằng thư tín dung thì pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng có thể phân chia thành các bộ phận
pháp luật sau:
- Nhóm các quy phạm pháp luật về thanh toán được áp dụng chung cho các hình thức thanh
toán trong đó có thanh toán bằng thư tín dụng.
- Nhóm các quy phạm pháp luật chỉ áp dụng riêng cho hình thức thanh toán bằng thư tín dụng
* Căn cứ vào phạm vi hoạt động dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng, có:
- Bộ phận pháp luật về điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng trong giao dịch thanh
toán trong nước
- Bộ phận pháp luật về điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng trong quan hệ thanh
toán quốc tế
* Căn cứ vào nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng có:
- Luật quốc gia điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng

- Nguồn luật quốc tế điều chỉnh quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng.
Trong phạm vi bài viết này nhóm sẽ dựa trên căn cứ vào nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ
thanh toán bằng thư tín dụng để tìm hiểu pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín
dụng. Cụ thể:
2.1. Các quy dịnh quốc tế về hoạt đông thanh toán bằng thư tín dụng.
2.1.1. Quy tắc và thực hành thống nhât về thư tín dụng.
Hiện nay trên thế giới, nội dung pháp lý chủ yếu điều chỉnh về thư tín dụng được quy định
trong “các quy tắc thực hành thống nhất thư tín dụng” viết tắt là UCP và đây cũng được coi là văn
bản quan trọng nhất hiện nay điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng. Đây là tập hợp
các tập quán và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực thư tín dụng, được soạn thảo bởi các nhà thực hành
mà chủ yếu là ngân hàng dưới sự chủ trì của phòng thương mại quốc tế vào năm 1933 và đã được
sửa đổi nhiều lần.
5
Với sự đòi hỏi phải có sự hiểu biết thấu đáo và thống nhất trong phạm vi toàn thế giới và để
tạo điều kiện thuận lơi trong việc mở rộng và đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế, giúp cho các
công ty, các tập đoàn khác nhau ở các quốc gia khác nhau trong quan hệ buôn bán, thanh toán được
dễ dàng, ICC (phòng thương mại quốc tế) đã ban hành Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ mà bản sửa đổi mới nhất là UCP600 – 2007. Do đó việc áp dụng các quy định của các
quy tắc và thực hành thống nhất thư tính dụng được quyết định bởi các bên trong giao dịch thương
mại và các ngân hàng. Tuy nhiên trong một số trường hợp ngân hàng trung ương của một số nước
có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp để các thư tín dụng phải bị điều chỉnh bởi các UCP. Ví dụ
như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong quy chế mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm ban hành
kèm quyết định 711/2001/QĐ – NHNN, quy định: “Việc mở L/C trả chậm để nhập khẩu hàng hóa
phải đảm bảo phù hợp với:…, quy tắc thực hành thống nhất về thư tín dụng chứng từ của Phòng
Thương mại Quốc tế…”.
Ngoài ra, còn có một lưu ý rằng cho dù các quy tắc và thực hành thống nhất thư tín dụng của
phòng thương mại Quốc tế có thể đưa ra giải pháp để giải quyết phần lớn các khó khăn trong lĩnh
vực thư tín dụng, các bên vẫn phải quy định luật áp dụng đối với hợp đồng cơ sở (hợp đồng mua
bán). Nếu không, luật quốc gia của ngân hàng phát hành và của nơi thực hiện thanh toán thư tín
dụng có khuynh hướng được áp dụng.

Mặc dù UCP là bộ quy tắc được áp dụng rộng rãi ở rất nhiều nước nhưng nó cũng không
mang tính chất bắt buộc với các bên có liên quan mà mang tính chất tùy nghi. Chỉ khi trong thư tín
dụng có dẫn chiếu áp dụng UCP thì UCP đó mới có giá trị pháp lý ràng buộc với các bên tham gia
vào quan hệ thanh toán đó. Bên cạnh đó các bên có thể thỏa thuận trong thư tín dụng là không thực
hiện hoặc thực hiện khác đi một số điều mà UCP đã quy định. Các bên cũng có thể loại trừ, sửa đổi,
bổ sung những điều mà hai bên đều thấy cần thiết nhưng UCP lại không đề cập và quy định đến.
UCP chỉ áp dụng cho thanh toán quốc tế, không áp dụng cho thanh toán nội địa. Trong trường hợp
áp dụng UCP mà có sự xung đột với pháp luật quốc gia thì luật quốc gia có giá trị cao hơn về mặt
pháp lý. Đối với Việt nam, một đất nước đang đứng trước thềm hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
một khi phương thức thanh toán tín dụng chứng từ vẫn là phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
thì yêu cầu tìm hiểu những quy tắc và tập quán quốc tế trong thanh toán xuất nhập khẩu như UCP
600 là một yêu cầu quan trọng trong cho các ngân hàng và doanh nghiệp Việt Nam.
6

×